Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
NGUYÊN THỊ MINH PHƯƠNG
THỂ GIỚI NGHỆ THUẬT “NHỮNG TRUYỆN NGẨN HAY VIÉT
CHO THIỀU NHI” VÀ Ý NGHĨA GIÁO DỤC ĐỐI VỚI HỌC SINH TIẺU HỌC
• • • Chuyên ngành: Giáo dục học (Bậc Tiểu học)
Mã số: 60 14 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
• • • •
Người hường dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ NHÀN
HÀ NỘI - 2013
LỜI CẢM ƠN
Bằng lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Nguyễn Thị
Nhàn - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo khoa Giáo dục Tiếu học, khoa Ngữ văn
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đẵ tận tình giảng dạy, hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Tôi xin gửi lòi cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và đặc biệt là những người thân trong gia
đình đã luôn động viên, giúp đỡ tôi.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 08 thảng 12 năm 2013 Tác giả
Nguyễn Thị Minh Phương
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Minh Phương
3
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1. Văn học nghệ thuật là tiếng vọng từ cuộc sống của con người trong mọi thời đại. Nó
phản ánh những giá trị văn hóa tinh thần vô cùng phong phú và đa dạng. Từ xưa, văn
học truyền miệng đã là người bạn đồng hành cùng nhân dân lao động. Những tác
phẩm văn học này đã mang lại những xúc cảm sâu sắc cho độc giả ở mọi thế hệ, mọi
lứa tuối và đặc biệt nó đã mang lại những cảm nhận độc đáo cho lứa tuổi thiếu nhi.
Qua những câu chuyện kế, các em làm quen với thế giới xung quanh, nhận biết cuộc
sống, giúp các em yêu cải thiện, ghét cái ác, biết phân biệt phải trái, trắng đen, có
được tình yêu thương, gắn bó với quê hương, đất nước. Đồng thời, các em cũng được
rèn luyện để trở thành những con người có nhân cách đẹp.
2. Văn học thiếu nhi là một phần quan trọng góp phần làm nên diện mạo văn học dân
tộc. Nó có tuổi đời khá trẻ nhưng phát triển tương đối toàn diện và phong phú, đạt
được những thành tựu đáng kể. Văn học thiếu nhi đã tạõ nên một bức trãnh muôn
màu vê thê giới tình cảm, thê giới tâm hôn đáng yêu, hồn nhiên và trong sáng của trẻ
thơ.
Có thể nhận thấy rằng trong quá trình sáng tác một trong nhũng thể loại được
nhiều nghệ sĩ yêu thích chính là truyện ngắn. Truyện ngắn có dung lượng vừa phải,
phù họp với tư duy của trẻ thơ. Tuyển tập Những ữuyện ngắn hay viết cho thiếu nhi
(do Phong Thu tuyển chọn) là cuốn sách hay đáng để các em làm quen. Nhũng trang
văn đẹp ấy xứng đáng là người bạn của học sinh, đem đến cho các em những nét đẹp
trong tâm hồn, góp phần giáo dục nhân cách.
3. Học sinh tiểu học còn đang trong độ tuổi hoàn thiện nhân cách. Trong sách Tiếng
Việt của học sinh Tiểu học, những văn bản thuộc thế loại truyện ngắn xuất hiện với
tần số khá lớn. Ở đó, truyện ngắn dành cho các em đều mang tính giáo dục cao, gửi
gắm những tình cảm giản dị mà cao đẹp, làm giàu đời sống tâm hồn trẻ thơ, góp
5
phần giáo dục đạo đức con người: Tình cảm gia đình gắn bó, tình cảm bạn bè thân
thương cao đẹp, tình yêu quê hương, tình cảm với cộng đồng
Vậy, làm thế nào để người giáo viên có thể đưa các em vào thế giới nghệ thuật
đế các em thấy được cái hay, cái đẹp của văn chương, hiểu được vạn vật và con
người xung quanh trong đời sống thường nhật?
Xuất phát từ những lý do trên, từ yêu cầu thực tế giảng dạy học sinh Tiểu học,
chúng tôi lựa chọn đề tài Thế giới nghệ thuật Nhũng truyện ngằn hay viết cho
thiếu nhi và ý nghĩa giáo dục đối với học sinh tiếu học làm vấn đề khoa học cho
luận văn của mình.
2. Lịch sử nghiên cún vấn đề
Trong sự tiếp cận hạn hẹp của mình, phần này, chúng tôi trình bày hai mảng:
khái quát về vấn đề nghiên cứu truyện viết cho thiếu nhi và những ý kiến về tuyển
tập Những truyện ngắn hay viết cho thiếu nhi do Phong Thu tuyển chọn.
Nghiên cứu truyện viêt cho thiêu nhi, tiêu biêu là những tiêu luận và công
trình của các tác giả sau: Vũ Ngọc Bình với bài viết “Nhân đọc mấy cuốn truyện viết
về sinh hoạt thiếu nhi nông thôn”. Tác giả Vân Thanh có nhiều tiếu luận về truyện
thiếu nhi, tiêu biếu là bài “Truyện viết cho thiếu nhi trong chặng đầu phát trỉến”
(1963). Bùi Thanh Ninh có “Mấy suy nghĩ về truyện viết về sinh hoạt của thiếu nhi
gần đây ” (1965). Hà Ân có nhiều đóng góp về truyện đề tài lịch sử. Ông là cây bút
chuyên khai thác mảng sáng tác này. Từ cái nhìn của nhà văn, nhà nghiên cứu, ông
có những ý kiến sâu sắc về truyện lịch sử cho thiếu nhi. Tiêu biểu là các tiểu luận: “
Vài ý kiến về sự thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong truyện lịch sử phục vụ các
em ”, “Mấy ý kiến về truyện lịch sử cho các em ”(ỉ 968). Văn Hồng nhìn khái quát
“Mười lăm năm truyện Kim Đông” (1972), “Truyện vê đề tài chông xâm lược trong
lịch sử” (1979), “Truyện lịch sử cho các em ” (1982). Vân Thanh với “Truyện khoa
học ” (1982). Tô Hoài có những đánh giá về “Truyện viết cho nhỉ đồng nhân dịp
6
cuộc thi sáng tác cho thiếu nhi” (1984). Lã Thị Bắc Lý nhìn nhận “Truyện đồng
thoại vởi giáo dục mẫu giảo” (ỉ993), Văn Hồng có “Cô tích cho ai”, “Từ mục đồng
đến Kim Đồng” (1997). Lã Thị Bắc Lý có “Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975”
(2000).
Hầu hết trong những công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã có đánh giá
khái quát về thành tựu và hạn chế của thể loại truyện viết cho thiếu nhi. Ở đó, các
nhà nghiên cún, các nghệ sĩ có cái nhìn khá tinh tế đối với những loại truyện viết về
các đề tài khác nhau như đề tài lịch sử, đề tài học tập, sinh hoạt, lao động.
Chẳng hạn, tác giả Vân Thanh nhận xét về “Truyện ngắn cho thiếu nhi trong
chặng đường phát triển” như sau: . Riêng về truyện cũng mỗi ngày một
thêm phong phú về số lượng và nâng cao về chất lượng ” [34, 24].
Nhận xét về những cuốn truyện viết về sinh hoạt nông thôn, tác giả Vũ NgộC
Bình viêt:
U
SÔ tấc phâm viêt vê đê tài đỏ chưa nhiêu ”, nhưng các cây bút đã phát
hiện: “Biết tìm ra mẩm mong tốt bên cạnh những thỏi hư, tật xấu, những khuyết
điếm của trẻ” [34, 19-21].
Cũng đề tài này, tác giả Bùi Thanh Ninh quan tâm “những truyện viết về sinh
hoạt của các em, các tác giả đã chủ ý tới việc xây dụng nhân vật ” [34, 57]. Nhà phê
bình cũng đã khắng định ý nghĩa của truyện viết cho thiếu nhi: “sẽ góp phân giúp
các em trên bước đường rèn luyện đê trở thành một người học tập giỏi, lao động
giỏi” [34, 63].
Tác giả Lã Thị Bắc Lý nhìn nhận văn học qua các thời kỳ lịch sử. Đặc biệt,
tác giả cho rằng: “văn học phản ánh xã hội thông qua nhà văn, vì vậy sự phát triến
của văn học tuy có tính độc lập những cũng có mối quan hệ mật
thiết với xã hội” [34, 284].
Với bài viết trên tác giả đã nêu lên những tên tuổi và những tác phẩm tiêu
biểu đặc biệt là truyện ngắn của văn học thiếu nhi sau cách mạng. ‘Wể« ở giai đoạn
7
trước năm 1975, cảm hứng sử thi tạo cho văn học giọng điệu trang nghiêm; thời kì
Đoi mới noi lên cảm hứng đời tư- thế sự với giọng suy tư, triết lí thì ở giai đoạn này,
với hiện thực đời song bình thường, văn học cho các em mang giọng gan gũi, tự
nhiên, bình đắng với bạn đọc hơn. Bên cạnh đó là giọng trữ tình tỉêp nôi văn mạch
truyền thong đậm tỉnh nhân văn, hướng vê những kiếp người, những cảnh ngộ bi
thương; nhũng tình cảm sáng trong, cao đẹp của con người và những cảnh sắc thiên
nhiên tươi đẹp của đất nước, quê hương.” r
vn/l ĩ3/49/cam-nhan-ve-van-hoc- thieu-nhi-viet-nam-dau-the-ky-xxi/1 ĩ
8318.html1. Trên trang wed:
aspx?NewsĩD=29909 cũng
có bài viết về văn học thiếu nhi đó là bài Sáng tác văn học dành cho thiếu nhi tác giả
đã chỉ ra “khoảng lặng”, nguyên nhân và thực trạng văn học dành cho thiếu nhi của
Việt Nam vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu của các em. Tác giả
cũng đã nêu lên những tên tuổi có những đóng góp đáng kể cho mảng văn học thiếu
nhi như Nguyễn Nhật Ánh, Võ Quảng, Phan Hồn Nhiên, Nguyễn Ngọc Thuần, Trần
Hoài Dương “Những tác phẩm có giả trị về nội dung và tư tưởng nghệ thuật khi
được các em đón nhận chắc chắn sẽ cỏ những tác động tích cực trong việc làm
phong phủ đời sống tâm hồn, hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng, nâng cao định
hướng thị hiếu, thấm mỹ cho lớp độc giả nhỏ tuôf\
Trên một số phương diện khác, giới nghiên cứu và các nghệ sĩ có những nhận
xét, những ý kiến về các tác giả, các tác phẩm cụ thể. Tiêu biểu là những ý kiến
sau:Vũ Ngọc Bình có những nhận xét về Bí mật miếu Ba Cô (1962) của Văn Trọng
“quê hương làng xóm của chúng ta hiện ỉên đẹp đẽ, đảng yêu biết bao với những nét
riêng thật đặc sắc” [36, 413]. Ông đọc Ke chuyện Quang Trung của Nguyễn Huy
Tưởng. Ông cũng nhận xét về tập truyện Gánh xiếc lớp tôi của Ngô Viết Linh
(1968). Trần Đình Sử phát hiện ở “Tuoi thơ im lặng - kỉ niệm về một tầng vãn hóa
8
làng quê lâu đời” (1986). Ông cho rằng, tác phẩm có tác dụng lớn đối với độc giả
nhỏ tuổi. Cuốn sách “xinh xắn ấy sẽ làm cho các em thêm yêu người và cảnh làng
quê, càng tăng thêm tinh thần, trách nhiệm đối với quê hươỉĩg đất nước ” [34, 679].
Phong Lan cảm nhận “Miền thơ ấu - một cuốn sách đẹp”. Văn Hồng có những ý
kiến về “Chú bé thổi khèn của Quách Liêu Ông còn dành những lời trìu mến cho nhà
văn Nguyễn Nhật Ánh: qua Kính vạn hoa và những năm gần đây, Nguyễn Nhật Ánh
“được coi là cây bút mến mộ nhất của tuoi học trò Trong đời sống của trẻ thơ, tác
phấm của Nguyễn Nhật Ánh sẽ “lắng đọng còn mãi tình yêu trong một đời người ”
của các em [34, 736 - 739]. Ma Văn Kháng nhận xét “Đoàn Giỏi - những trang văn
nặng tình đất nước” (1999).
Tóm lại, ở những công trình và những bài viết trên, giới nghiên cứu và các
nhà văn đã có cái nhìn khái quát vê thê loại truyện viêt chõ thiêu nhi.
Nhìn chung, đội ngũ sáng tác văn học thiếu nhi từ thời kì đổi mới đã phát triển
thật hùng hậu. Nó chứng tỏ tính chuyên nghiệp của bộ phận sáng tá văn học cho các
em. Và cũng vì vậy mà chưa bao giờ, văn học thiếu nhi Việt Nam lại phát triển
phong phú và đa dạng như ở thời kì này. Sáng tác cho các em ngày càng có sự mở
rộng đề tài cũng như hướng tiếp cận đời sống, tiếp cận trẻ em và khả năng khám phá
con người. Với những thành tựu như vậy, văn học thiếu nhi xứng đáng giữ một vị trí
quan trọng, góp phần làm nên diện mạo của nền văn học dân tộc.
Ngoài những công trình, tiếu luận của giới nghiên cứu, nhiều bạn sinh viên
chọn văn học thiếu nhi làm đề tài khóa luận của mình. Luận văn thạc sĩ của tác giả
Lương Thị Thu Huyền (2011) với đề tài Thế giới nghệ thuật truyện đồng thoại và ý
nghĩa giáo dục với học sinh Tiểu học (Qua khảo sát Tuyến tập truyện ngắn viết
cho thiếu nhi từ sau từ sau cách mạng tháng Tám). Tác giả Nguyễn Thị Hoài Thu
(2011) với đề tài Thế giởỉ nghệ thuật truyện ngắn Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi
và ý nghĩa giáo dục với học sinh tiều học Cả hai tác giả luận văn trên đều đi tới
9
khắng định những giá trị bền vững mà văn học thiếu nhi dành cho các em đặc biệt là
sự hấp dẫn của truyện ngắn trong dòng văn học dân tộc. Tác giả Nguyễn Thị Hoài
Thu đã nhận định: “Giữa xã hội hiện đại, văn minh cỏ khá nhiều phương tiện có thế
giáo dục và cuốn hút trẻ em, hi vọng những trang văn viết cho thiếu nhi của Tô
Hoài, Vũ Tủ Nam, Thy Ngọc, Trần Hoài Dương, Trần Đãng Khoa và của Xuân
Quỳnh sẽ vân là những người bạn của trẻ thơ, là một miền sáng trong đế các em
hướng đến, quỹ trọng tình người”. Ngoài hai khóa luận trên còn rất nhiều khóa luận
khác. Điều đó thế hiện sự quan tâm của các sinh viên, học viên, các nhà nghiên cứu
tới văn học thiếu nhi.
về vấn đề nghiên cứu tập Nhũng truyện ngắn hay viết chõ thiếu nhi (do
Phong Thu tuyển chọn) - đối tượng nghiên cứu luận văn của chúng tôi. Trong công
trình kế trên, tập 2 là phần dành riêng cho những bài viết về cho thiếu nhi. Ở đó
nhiều nhà nghiên cứu, nhiều văn nghệ sĩ đã khảo sát những sáng tác tự sự dành cho
các em. Các tên tuổi quen thuộc như: Vân Thanh, Vũ Ngọc Bình, Hà Ân, Tô Hoài,
Ma Văn Kháng, Lã Thị Bắc Lý, Vă Hồng, Ngô Văn Phú
Những tiểu luận và những công trình nghiên cứu đã đề cập tới vấn đề cơ bản
như: “Truyện và các loại truyện cho thiếu nhi”. Tiêu biểu là tiểu luận của các tác giả
Vũ Ngọc Bình Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện. Tuy vậy,
trong tuyển tập này, phía sau mỗi truyện, tác giả Phong Thu có lời bình ngắn gọn. Đó
là những gợi ý, định hướng quý giá cho tác giả triển khai đề tài. Đặc biệt là những
truyện này trong chương trình sách Tiếng Việt tiểu học và ý nghĩa giáo dục của
chúng đối với học sinh vẫn chưa được quan tâm. Bởi vậy, nghiên cứu tuyến tập
truyện ngắn viết cho thiếu nhi do đề tài khảo sát ở góc độ thế giới nghệ thuật có ý
nghĩa trên nhiều phương diện. Đó là một con đường để thâm nhập các tác phẩm bằng
cách nghiên cứu các yếu tố hình thức mang tính nội dung, chuyển tải quan niệm về
nhân sinh của nhà văn. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi còn
1
được học hỏi kinh nghiệm nghiên cứu và những kiến thức văn học quý báu.
Đối tượng chúng tôi tìm hiểu là Tuyển tập Những truyện ngắn hay viết cho
thiếu nhi (tập 1) do Phong Thu biên soạn. Đây là tập hợp những tác phẩm tiêu biếu
của những cây bút gắn bó với thiếu nhi.
3. Mục đích nghiên cún
- Luận văn nghiên cứu “Thế giói nghệ thuật nhũng truyện ngắn hay viết cho thiếu nhi
và ý nghĩa giáo dục đối với học sinh tiểu”.
- Từ việc khăng định những giá trị nội dung và nghệ thuật củã Tuyên tập truyện trên
hướng tới giáo dục nhân cách và bồi dưỡng năng lực văn cho học sinh tiếu học, góp
phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt trong nhà
trường.
4. Nhiệm vụ nghiên cún
Đe thực hiện được những mục đích trên luận văn thực hiện những nhiệm vụ
sau:
- Tìm hiểu những kiến thức lý luận chung có liên quan tới một số khái niệm như khái
niệm: Thế giới nghệ thuật; khái niệm truyện và truyện ngắn; một số phương thức,
phương tiện nghệ thuật khác.
Khảo sát và chỉ ra những đặc điểm trong thế giới nghệ
thuật Những
1
truyện ngắn hay viết cho thiếu nhi (Những chủ đề chính, thế giới nhân vật,
nghệ thuật dựng truyện
- Khảo sát, thống kê những truyện ngắn của một số tác giả trong Tuyển tập truyện
được trích dạy trong sách Tiếng Việt Tiếu học và ý nghĩa giáo dục đối với học sinh.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cún
5.1. Tư liệu khảo sát
- Luận văn khảo sát 32 truyện ngắn trong Tuyển tập Những truyện ngắn hay viết cho
thiếu nhi (tập 1) dành cho học sinh Tiểu học do Phong Thu tuyển chọn của NXB GD
Hà Nội 2004.
- Luận văn khảo sát những truyện ngắn của một cây bút trong Tuyển tập trên được
trích trong SGK Tiếng Việt Tiểu học (Tô Hoài, Nguyễn Phan Hách, Phạm Hổ, Trần
Hoài Dương, Phong Thu ).
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn khảo sát thế giới nghệ thuật của tập truyện Những truyện ngắn hay viết
cho thiếu nhỉ.
- Luậiĩ văn khảỡ sát một sô truyện ngăn của một sô tác giả trong tuyển tập trên được
trích trong sách Tiếng Việt Tiểu học.
- Ý nghĩa giáo dục của truyện ngắn được khảo sát đối với học sinh Tiểu học.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, khảo sát.
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp so sánh.
Luận văn kết họp một số thao tác như: Phân tích, bình giảng đế thực hiện
tốt đề tài.
7. Đóng góp của luận văn
- Đóng góp về lý luận:
Nghiên cứu Thế giới nghệ thuật Những truyện ngắn hay viết cho thiếu nhi
nhằm chỉ ra giá trị nội dung và nghệ thuật một cách hệ thống và toàn diện.
- Đóng góp về thực tiễn:
Nghiên cứu đề tài này sẽ giúp cho giáo viên và học sinh Tiểu học hiểu sâu sắc
hơn về giá trị của văn chương thông qua thế giới nghệ thuật truyện ngắn hay viết cho
thiếu nhi và tính giáo dục của nó. Đặc biệt nó sẽ góp phần giáo dục nhân cách và
nâng cao năng lực học văn.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Ket luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung của luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về truyện và truyện ngắn viết cho thiếu nhi
Chương 2: Thế giới nghệ thuật những truyện ngắn hay viết cho thiếu nhi (do Phong
Thu tuyển chọn và có lời bình)
Chưong 3: Truyện của một số tác giả thuộc Tuyến tập Những
truyện ngắn hay viết cho thiếu nhỉ trích dạy trong sách Tiếng Việt
Tiểu học và ý nghĩã giáo dục đôi với hộc sinh.
NỘI DUNG Chưong1
KHÁI QUÁT CHUNG VÈ TRUYỆN VÀ TRUYỆN NGẮN VIẾT CHO THIẾU
NHI
1.1. Khái niệm về truyện
1.1.1. Thuật ngữ và khái niệm
Thuật ngữ “truyện” ra đời muộn hơn so với tác phấm của nó. Khi văn học ra
đời với những câu chuyện truyền miệng như cổ tích, truyền thuyết, thần thoại thì
lúc ấy chính là lúc truyện ra đời. Thuật ngữ “truyện” có nhiều cách cắt nghĩa. Ta có
thể hiểu khái niệm truyện theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Truyện bao giờ cũng có
cốt truyện, gắn với cốt truyện là một hệ thong nhân vật” [9, 367].
Trên cơ sở tìm hiếu truyện, luận văn sẽ tìm hiếu truyện viết cho thiếu nhi. Tuy
chưa có khái niệm cụ thế về thế loại này nhưng thông qua các sáng tác, chúng ta có
thể hiểu: Truyện viết cho thiếu nhỉ là những sảng tác văn xuôi dành đế phục vụ cho
đối tượng là thiếu nhi.
Ở thể loại truyện này thì từ đề tài, chủ đề, tư tưởng đến nhân vật, kết cấu,
giọng điệu đều nằm trong phạm vi phản ánh cuộc sống sao phù hợp và gần gũi với
các em. Tuy vậy, khái niệm truyện thiếu nhi cũng thường bao gồm một phạm vi rộng
rãi những tác phẩm văn học thông thường (cho người lớn) đã đi vào phạm vi đọc của
thiếu nhi như: Đôn Ki-hô-tê của M. Xéc-van- tex, Rô-bin-xơn Cơ-ru-xô của Đ.Đi-
phô
Trong văn học dân tộc, truyện thiếu nhi cũng được phân ra nhiều tiếu loại
như: truyện ngắn, truyện đồng thoại, truyện dài, truyện cổ tích hiện đại, tiểu thuyết
Điều này đã chứng tỏ sự phong phú của thế loại truyện dành cho thiếu nhi.
1.1.2. Đặc điểm thể loại
Theo cách hiểu từ khái niệm truyện, ta thấy đó là những sáng tác tự sự. Trong
văn học dân gian là thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn.
Trong văn học viết thời trung đại, các thế loại truyện thơ Nôm, truyện truyền
kì, tiểu thuyết chương hồi đều thuộc dòng chảy của truyện.
Trong văn học hiện đại, khái niệm truyện vẫn là thuật ngữ được dùng theo
hàm nghĩa rộng để chỉ những sáng tác thuộc phương thức tự sự.
Như vậy, tác phẩm thuộc thể loại truyện có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất: truyện là tác phẩm có cốt truyện.
Thứ hai: cùng với cốt truyện là nhân vật. Nhân vật có thể là con người, là thế
giói loài vật hoặc lực lượng siêu nhiên.
Thứ ba: tác phẩm truyện được diễn đạt dưới hình thức kể.
Trước hết, kể về các sáng tác truyện dân gian. Những sáng tác dân gian không
đỏng nhât với văn hộc thiêu nhi nhưng nó lại phu hợp với các ẽm.Nó có những đặc
điểm phù hợp với lứa tuổi trẻ thơ. Đó là những sáng tác như: thần thoại, truyền
thuyết, cố tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn cốt truyện trong truyện cổ tích, truyền
thuyết, thần thoại là cốt truyện đơn giản, theo trật tự tuyến tình thời gian. Trong
truyện thường xuất hiện những yếu tố kì ảo, hoang đường. Dung lượng truyện ngụ
ngôn và truyện cười thường rất ngắn gọn. Truyện được viết một cách cô đọng, súc
tích và xuất hiện những yếu tố gây cười. Nội dung của các truyện thường thể hiện
ước mơ, khát vọng của nhân dân. Thông qua các sáng tác, nghệ sĩ dân gian gửi gắm
những bài học giản dị mà sâu sắc trong cuộc sống.
Có thể nói, truyện và đặc biệt là truyện ngắn đóng vai trò quan trọng trong nền
văn học dân tộc nói chung và văn học thiếu nhi nói riêng. Đặc trưng của truyện là khả
năng thể hiện cuộc sống phong phú, đa dạng hơn thể loại trữ tình. Khác với thơ, thơ
chủ yếu chú ý đến thế giới nội tâm của con người thì truyện hướng tới thế giới khách
quan để kể chuyện đời. Lứa tuổi các em thiếu nhi thích tìm hiểu, khám phá những gì
cụ thể. Ước mơ của các em luôn bay bống, dí dỏm, ngộ nghĩnh, vì thế truyện trở nên
gần gũi, đáp ứng nhu cầu của tuổi thơ.
Có thể nói, các sáng tác văn học thiếu nhi vô cùng phong phú, đa dạng. Nó
không chỉ phát triển trên thế giới mà ở Việt Nam cũng vậy. Ở nước ta những sáng tác
cho lứa tuổi này đang vận động theo chiều hướng riêng và nó chịu sự chi phối bởi
những quy luật nội tại của chính nó.
1.2. Truyện viết cho thiếu nhi
1.2.1. Các loại truyện viết cho thiếu nhi
Truyện cho thiếu nhi thời hiện đại bao gồm: truyện ngắn, truyện vừa, truyện
dài, đồng thoại, truyện cố viết lại, truyện cố tích hiện đại Trong những sáng tác
thuộc các thể loại này, nhân vật chủ yếu là các bạn nhỏ hoặc những nhân vật liên
quân tới các em. Truyện đồng thoại bãỡ gồm thế giới loài vật, đồ vật.
a. Truyện ngắn.
Theo Tù’ điển thuật ngữ văn học thì truyện ngắn (short story) liỉà tác phâm tự
sự cỡ nhỏ. Nội dung của thê loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của
đời sống: Đời tư, thế sự hay sử thi như ng cái độc đáo của nó là ngắn” [9, 370].
Từ những buổi đầu manh nha hình thành văn học thiếu nhi, truyện ngắn
dường như là thể loại có mặt sớm nhất. Độc giả sẽ nhớ tới những sáng tác của Nam
cao với Con mèo mắt ngọc, Bài học quét nhà. Nguyễn Huy Tưởng có Chiến sĩ ca
nô,,.
Sau này, văn học thiếu nhi ra đời, dòng sáng tác truyện ngắn ngày càng thu
hút đông đảo người cầm bút. Dọc hành trình lịch sử dân tộc, truyện viết cho các em
hòa trong tiếng nói chung với những chủ đế khác nhau. Truyện ngắn luôn được các
em yêu quý. Có thế kế đến những tác phấm tiêu biếu: Em bé bên sông Lai Vũ (Vũ
Cao), Chú bé sợ toán (Hải Hồ), Bí mật miếu Ba Cô (Văn Trọng), Cô Bê 20 (Văn
Biển), Ông nội ông ngoại, Thằng Bêm (Xuân Quỳnh) Những cây bút truyện ngắn
quen thuộc xuất hiện trên văn đàn, trở thành người bạn của trẻ thơ khá nhiều: Tô
Hoài, Xuân Quỳnh, Trần Hoài Dương, Nguyễn Nhật Ánh, Phong Thu, Lê Phương
Liên
b. Đồng thoại
Đồng thoại là thế loại dành cho trẻ thơ bởi đặc điếm riêng của nó. Lấy thế
giới loài vật làm nhân vật chính, truyện gửi gắm ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Đồng
thoại được hiểu một cách đơn giản là truyện viết cho thiếu nhi (“đồng” là nhi đồng,
“thoại” là truyện). Ngoài ra, có một số ý kiến khác giải thích về thuật ngữ đồng thoại
như ý kiến của nhà nghiên cứu Vân Thanh trong cuốn Bách khoa thư - Văn học thiếu
nhỉ Việt Nam (tập 1) hay Võ Quảng, Trần Hoài Dương, Câõ Tiên Đức, Dương Thu
Hương Môi tác giả có nhữĩig kiên giải khác nhau song có thể hiểu khái niệm đồng
thoại theo cuốn Từ điển Tiếng Việt'. “Đồng thoại là thế truyện cho trẻ em, trong đó
các loài vật và các nhân vật vô tri được nhân cách hóa tạo nên một thế giới nhân vật
thần kì thích họp với trí tưởng tượng của các em ” [26, 333]. Như vậy, dựa vào các
thuật ngữ và các kiến giải khác nhau của các nhà văn, các nhà nghiên cứu thì chúng
ta có thể hiếu: Đồng thoại là một thể loại đặc biệt của văn học, có sự kết họp nhuần
nhuyễn giữa hiện thực và yếu tố tưởng tượng. Nhân vật chính là động vật, thực vật
và những vật vô tri những được mang tính cách người.
Từ trong cách hiếu về truyện đằng thoại đã cung cấp cho chúng tôi cách hiểu
cơ bản nhất về những đặc điểm của loại sáng tác nghệ thuật này. Vì thuộc thể loại
văn học tự sự nên đồng thoại có những đặc điếm chung so với những tác phẩm được
gọi là truyện viết cho thiếu nhi. Tuy nhiên, kiểu truyện đồng thoại cũng có những
đặc điểm riêng. Đó là khả năng tưởng tượng kì diệu và nghệ thuật nhân hóa. Đây
chính là những un điểm của đồng thoại so với các thể loại khác.
Từ Dế mèn phiêu lưu kỉ của Tô Hoài đến nay, đồng thoại đạt nhiều thành tựu.
Các nhà văn yêu mến trẻ thơ và thế giới xung quanh đã làm nên nhũng thiên đồng
thoại đẹp. Những tên tuổi xuất hiện cùng đồng thoại phải kể đến Tô Hoài, Nguyễn
Đình Thi, Nguyễn Kiên, Võ Quảng, Thy Ngọc, Trần Hoài Dương Đe lại những ấn
tượng sâu sắc là các sáng tác đồng thoại tiêu biểu: Cái tết của mèo con (Nguyễn
Đình Thi), Chú đất nung (Nguyễn Kiên), Cái Cò, cái Vạc (Tô Hoài), Bài học tắt
(Võ Quảng), Đôi cánh của ngựa trắng (Thy Ngọc), Cô bé Mảnh Khảnh (Trần
Hoài Dương)
c. Truyện dài và tiếu thuyết
Truyện dài và tiếu thuyết viết cho thiếu nhỉ là hai thế loại khó phân biệt thật
rạch ròi. Đe hấp dẫn độc giả nhỏ tuổi, truyện dài và tiểu thuyết đòi hỏi phải có
những thành công vê mặt nghệ thuật và nội dung. Đặc biệt là côt truyện và thế giới
nhân vật. Những cây bút bỏ công sức nhiều cho thể loại này xưa nay được nhớ tới,
tiêu biếu là Đoàn Giỏi với Đất rừng phương Nam, Võ Quảng với Quê Nội và Tảng
sáng; Xuân Sách được biết đến với Đội du kích thiếu niên Đình Bảng; Tô Hoài có
Kim Đồng, Vù'A Dính, Duy Khán có Tuổi thơ im lặng, Phan Thị Thanh Nhàn có
Bỏ trốn, Nguyễn Quang Thiều viết Bí mật hồ cá thần, Nguyễn Quang Thân viết Chú
bé có tài mở khóa
d. Truyện cố tích hiện đại
Truyện cổ tích hiện đại được biết đến ấn tượng nhất có lẽ nhờ Chuyện hoa,
chuyện quả của Phạm Hố. Mỗi truyện của ông là một lời nhắn gửi ân tình hay sự băn
khoăn nào đó trước đời sống nhân gian. Với gần 100 Chuyện hoay chuyện quả rất
đáng để các em tìm đến. Những câu chuyện cảm động còn đọng lại mãi trong tâm trí
bạn đọc: Em bé hái củi và chú hươu con (hay Sự tích cây hoa đại), Em bé và
rằngcon (hay Sự tích quả nhãn), Cái kéo kì lạ (hay Sự tích hoa cải), Tiếng sáo và
con rắn (hay Sự tích hoa thiên lý)
1.2.2. Đề tài
Đề tài, chủ đề chính là những vấn đề được nhà văn quan tâm và giải quyết
trong tác phẩm. Đó chính là nội dung của những sáng tác văn chương. Văn học thiếu
nhi nói chung và truyện ngắn nói riêng thường tập trung vào những vấn đề lớn xuyên
suốt các thời kì, các giai đoạn lịch sử. Tuy vậy, tùy theo đặc điểm, nhu cầu của cuộc
sống mà những đề tài, chủ đề có thể thay đổi, có thể được ưu tiên hay thưa thớt hơn.
Nhìn tổng thể, truyện ngắn văn học thiếu nhi tập trung vào những mảng đề tài
lớn sau: Đe tài kháng chiến, đề tài lịch sử; đề tài nông thôn, đề tài về cuộc sống lao
động, học tập, sinh hoạt của trẻ thơ, đề tài khoa học
a. Đe tài kháng chiến
Hiện thực kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ chi phối toàn bộ đời sông
dân tộc tã trông mây chục năm. Văn chương viêt vê hãi cuộc kháng chiến vệ quốc đó
đã làm nên diện mạo riêng biệt. Truyện viết cho thiếu nhi cũng vậy. Từ những truyện
ngắn cho đến những tác phấm dài hơi (truyện dài, tiếu thuyết) có khá nhiều sáng tác
tái hiện đề tài này. Con người và dân tộc qua những sáng tác được khắc họa khá sâu
sắc. Trong bức tranh chung đó, có nhân vật trẻ thơ.
Có thể kể đến hàng loạt tác phẩm truyện thuộc đề tài này: Em bé bên bờ sông
Lai Vu (Vũ Cao), Chiến sĩ ca nô (Nguyễn Huy Tưởng), Đất rùng phương Nam
(Đoàn Giỏi), Đội du kích thiếu niên Đình Bảng (Xuân Sách), Kim Đằng, Vừ A
Dính (Tô Hoài), Mẹ vắng nhà (Nguyễn Thi), Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán)
b. Đe tài truyền thống lịch sử
Lịch sử truyền thống xưa nay thường được tái hiện qua những loại hình nghệ
thuật khác nhau. Truyện viết cho thiếu nhi cũng khai thác đề tài này, giúp các em có
nhận biết sâu sắc hơn về quá khứ của dân tộc. Nhắc tới truyện lịch sử, độc giả nhớ
đến Hà Ân, Nguyễn Huy Tưởng, Lê Vân, An Cương Những tác phấm đế lại nhiều
ấn tượng trong lòng người đọc xưa nay có thế kế đến: Lá cờ thêu sáu chữ vàng
(Nguyễn Huy Tưởng), Sóng gió Bạch Đằng và Bố Cái đại vương (An Cương) Đặc
biệt Hà Ân còn rất thành công ở bộ ba truyện lịch sử viết về đời Trần là Bên bờ
Thiên Mạc, Trên sông truyền hịch và Trăng nước Chương Dương Truyện lịch sử
đã làm sống dậy những trang sử hào hùng của dân tộc với những nhân vật lịch sử
mang tầm vóc thời đại.
c. Đe tài viết về sinh hoạt, lao động, học tập của trẻ thơ
Sinh hoạt, lao động, học tập là hiện thực cuộc sống gần gũi với các em. Bởi
vậy có những sáng tác phong phú và đông đảo những cây bút. Hàng loạt tên tuổi
quen thuộc như Tô Hoài, Trần Thanh Địch, Văn Biển, Nguyễn Hải Hô, Lê Phương
Liên Các tác phâm tiêu biêu: Đản chim gáy (Tô Hoài), Bí mật miếu Ba Cô (Văn
Trọng), Chú bé sợ toán (Hải Hồ), Điều không tính trước (Nguyễn Nhật Ánh), Tập
đoàn san hô (Phan Thị Thanh Tú)
Viết cho lứa tuối học trò là mảng đề tài đặc biệt khởi sắc. Thế giới nội tâm sâu
kín cùng với những rung động đầu đời được các tác giả đề cập tới như một sự phát
triển tất yếu của đặc điểm tâm lý trẻ thơ. Có nhiều tác phẩm tiêu biểu như: Bây giờ
bạn ở đâu, cỏ may ngày xưa (Trần Thiên Hương), Hương sữa đầu mùa (Lê Cảnh
Nhạc), Không có gì mà tặng bông hồng (Hồ Việt Khuê) và hàng loạt các truyện dài
của Nguyễn Nhật Ánh như: Còn chút gì đế nhớ, Cô gái đến từ hôm qua, Nữ sinh,
Hạ đỏ, Mắt biếc, Bàn có năm chỗ ngồi, Bong bóng lên tròi
Viết về sinh hoạt của trẻ em thành phố các nhà văn quan tâm hai mảng hiện
thực: cuộc sống của những trẻ em trong những gia đình khá giả và cuộc sống của
những trẻ em nhà nghèo. Các tác phẩm tiêu biểu như Kính vạn hoa (Nguyễn Nhật
Ánh), Hoa trên đường phố (Thu Trân), Kiềng ba chân (Đoàn Lư), Ngày khai trường
trong mơ (Kim Hài), Tiếp đạm (Nguyễn Thị Ám)
d. Đe tài nông thôn
Viết về nông thôn thường gắn với cuộc sống đổi mới từ sau hòa bình và đời
sống lao động, sinh hoạt ở thôn quê. Những sáng tác này đem đến cho bạn đọc nhỏ
tuổi những hiểu biết thêm về quê hương, đất nước và con người, thường là những
truyện rất giản dị. Các nhà văn yêu mến nông thôn có Tô Hoài, Nguyễn Kiên, Bùi
Hiển, Nguyễn Quỳnh Một số tác phẩm tiêu biểu về đề tài này là: Hai ông cháu và
đàn trâu (Tô Hoài), Cơn bão số 4 (Nguyễn Quỳnh), Ke chuyện nông thôn (Nguyễn
Kiên), Bí mật miếu Ba Cô (Văn Trọng)
Đời sống lao động, sinh hoạt ở miền núi ngày càng phát triến và ghi vào thành
tựu với các tác phẩm tiêu biểu: Y Leng (Đào Vũ), Kỉ vật cuối cùng (Hà Lâm Kì), Một
lớp trưởng khác thường (Lương Tồ Ngã), Chẵn trời mở rộng (Đoàn Lư), Đường về
với mẹ Chữ (Vi Hồng)
e. Đe tài khoa học
Mảng đề tài này cũng hình thành và phát triến với các tác phấm tiêu biểu như
Ông than đá và quả trứng vuông (Viết Linh), Cô kiến trinh sát (Vũ Kim Dũng)
Nhìn chung, văn học thiếu nhi có các đề tài khá đa dạng và phong phú đáp
ứng được nhu cầu cũng như làm sinh động hóa thế giới tâm hồn của các em.
1.2.3. Hình thức biểu hiện
Trong phần này, luận văn trình bày hai phương diện cơ bản nhất trong
hình thức của thế loại truyện là kết cấu cốt truyện và nhân vật.
a. Ket cấu cốt truyện
Ket cấu cốt truyện bao gồm chuỗi các sự kiện, hành động của nhân vật được sắp
xếp theo một ý tưởng nghệ thuật của người nghệ sĩ. Nhìn chung, truyện viết cho thiếu
nhi có kết cấu không phức tạp. Truyện có những kiểu kết cấu khác nhau tùy thuộc vào
dung lượng tác phấm dài hay ngắn; phụ thuộc vào kiểu loại truyện khác nhau, phụ
thuộc vào ý đồ nghệ thuật của người cầm bút. Tuy nhiên, trên đại thể, truyện viết cho
thiếu nhi thường có kiểu sắp xếp gắn kết theo trình tự thời gian tuyến tính. Những sự
kiện, những tình tiết gắn với cuộc đời nhân vật chính được thể hiện theo trình tự trước
sau không đảo lộn. Cách kể này khiến cho các em dễ theo dõi. Ví dụ như trong tác
phẩm Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài; cuộc đời của nhân vật “tôi” trong Cho tôi một
vé đi tuổi thơ của Nguyễn Nhật Ánh. Truyện có thể được tổ chức không theo trình tự
thời gian tuyến tính, ở đó có xen kẽ những sự kiện, tình tiết của thời hiện đại, thời gian
đã qua. Tiếu thuyết Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi có kiểu kết cấu này. Những
truyện ngắn viết cho thiếu nhi lại thường có kiểu kêt câu đơn giản, không nhiêu sự kiện
và thường tập trung vàỡ một sô tình huống tiêu biểu, một đoạn đời, một sự việc, một
vài hành động của nhân vật chính như trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh: Còn chút
gì đế nhớ; Bồ câu không đưa thư, Đây là dạng thức phổ biến trong truyện ngắn viết
cho thiếu nhi.
Tuy nhiên, trong một số sáng tác thuộc thể loại truyện dài, truyện phiêu lưu như
Dế mèn phiêu lưu kỉ của Tô Hoài, Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán, Kính vạn hoa của
Nguyễn Nhật Ánh lại xuất hiện nhiều tình tiết, nhiều sự kiện và xuất hiện những tình
huống mâu thuẫn căng thẳng. Độc giả nhỏ tuổi như bị cuốn vào vòng xoáy của các
nhân vật trong truyện. Nhìn chung, kết cấu truyện viết cho thiếu nhi tương đối đa dạng,
phù hợp với khả năng nhận thức của các em.
b. Nhân vật
Một tác phẩm văn học không thể thiếu nhân vật, nhân vật được coi là xương
sống, linh hồn của tác phấm. Đó là phương thức để nhà văn tái hiện thế giới hình tương
nghệ thuật và là đường kênh để nhà văn truyền tải các tư tưởng nghệ thuật. Nhân vật
trong truyện viết cho thiếu nhi khá đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, theo chúng tôi,
nhân vật chính trong truyện cho các em đa phần là trẻ em. Dù trong văn bản kể có các
nhân vật khác, song đó chỉ là những nhân vật được sử dụng nhằm làm sáng rõ đời sống
tình cảm thế giới trẻ thơ. Trong truyện đồng thoại nhân vật chính là thế giới loài vật.
Đối với những truyện thần thoại thì nhân vật chủ yếu là các vị thần. Nhà văn lấy những
câu chuyện về các vị thần để gửi gắm những ý nghĩa nhân sinh tới con người, những
bài học giản dị chắt lọc từ cuộc sống.
Nhân vật là phương diện khái quát hiện thực, phản ánh thế giới khách quan.
Trong những truyện viết cho thiếu nhi, các nhân vật luôn thế hiện tâm lý, tình cảm của
mình trong mối quan hệ với môi trường quen thuộc của các em như giã đình, trường
hộc, làng xóm, khu phô đê các êm lý giải, khám phá cuộc sống. Viết về cuộc sống
mới, văn học thiếu nhi đã xây dựng nhiều nhân vật có thành tích xuất sắc. Các tác giả
đã xây dựng nhân vật phù họp với tĩnh cách và hoàn cảnh. Không thần thánh nhân vật
và cường điệu nhân vật quá mức. Thông qua đó các tác giả giúp các em thiếu nhi hiểu
về ý nghĩa cao quý của lao động, giáo dục các em về lý tưởng đạo đức, giáo dục tình
cảm thấm mĩ lành mạnh, giúp các em thưởng thức cái đẹp của thiên nhiên và cuộc
sống, cảm nhận giá trị nhân cách cao đẹp thông qua nhân vật.
Thế giới nhân vật là các loài vật, các vị thần cũng được các tác giả miêu tả rất
sinh động và gần gũi với hiện thực cuộc sống. Nhân vật là các loài chim, các bông hoa,
các vị thần, thông qua đó giúp các em mở rộng khả năng tưởng tượng, sáng tạo, bồi
đắp cho các em tình yêu với thế giới xung quanh.
Nhiều nhân vật bước ra từ những trang văn và trở thành những nhân vật điển
hình trong thế giới trẻ thơ. Đó là De mèn trong truyện Dế mèn phiêu lim kí của Tô
Hoài; là những nhân vật trong các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh: hai chú bé Kăply
và Nguyên trong Chuyện xứ Lang- bỉ-ang\ nhân vật “tôi” và các bạn trong Cho tôi xin
một vé đi tuổi tho", là các bạn nhỏ trong Kính vạn hoa. Đó còn là chú bé An đi tìm
cha trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi
Có thể thấy, trẻ em vốn là đối tượng nhạy cảm, chúng có thể vui cùng với niềm
vui của nhân vật và cũng có thể buồn ngay với nỗi buồn của nhân vật. Đôi khi các em
còn học theo những hành động, lời nói, việc làm của nhân vật. VI vậy, các nhân vật
được miêu tả cần phải là tấm gương cho các em. Những hình tượng nhân vật mà các
em yêu thích sẽ sống mãi trong trí nhớ của các em tới suốt cuộc đời.
Ngoài nhân vật và kết cấu cốt truyện, truyện viết cho thiếu nhi còn những yêu
tô khác thuộc hình thức: ngôn ngữ, các biện pháp nghệ thuật Điều đó giúp nhà văn
thể hiện tốt những nội dung muốn chuyển tới độc giả nhỏ tuổi.
1.3. Khái quát tuyển tập Những truyện ngắn hay viết cho thiếu nhi
1.3.1. Giới thiệu một số tác giả tiêu biểu
Trong tuyển tập do Phong Thu tuyển chọn có tới 32 tác phẩm và 28 tác giả. Có
những tên tuổi khá thân quen với độc giả như: Tô Hoài, Phạm Hổ, Nguyễn Đổng Chi,
Nguyễn Phan Hách, Trần Hoài Dương, Phong Thu Song cũng có những tên tuổi còn
chưa được biết đến nhiều như: Thùy An, Gia Bảo, Ngô Thị Thúy Ngọc Ớ phần này,
người viết giới thiệu một số tác giả tiêu biểu để giúp cho người đọc có một cái nhìn
khái quát nhất về đội ngũ tác giả trong tuyển tập.
• Tô Hoài
Nói tới những cây bút tiên phong, mở đường của văn học viết cho thiếu nhi
trong giai đoạn đầu không thể không kể đến nhà văn Tô Hoài. Nhà văn Tô Hoài tên
thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27 tháng 9 năm 1920 (tức ngày 16-8 năm Canh Thân)
tại thị trấn Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Nội. Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
có bằng Cao đắng tiếu học, Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nan 1957. Tô Hoài
tham gia cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám (1945) trong Hội Ái hữu công
nhân, Hội Văn hoá Cứu quốc. Từ 1945 - 1958, làm phóng viên rồi Chủ nhiệm báo Cún
quốc Việt Bắc. Từ 1957
- 1958, Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Từ 1958 - 1980, Phó Tổng thư ký Hội Nhà
văn Việt Nam. Từ 1986 - 1996, Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội. Ông có các bút danh
như: Tô Hoài, Mai Trang, Mắt Biển, Thái Yên, Vũ Đột Kích, Hồng Hoa.
Tô Hoài có khá nhiều sáng tác. Đe tài trong các tác phẩm của ông rất phong
phú. Có khi ông viết về cuộc sống của người nông dân, có khi là cuộc sông của đông
bào dân tộc vùng ít người trên mạn cao Tây Băc, có khi là nhũng hồi kí về chính cuộc
đời của mình nhung cũng có khi là các đề tài hướng đến thiếu nhi. Ông viết khoảng
150 tác phấm. Có những tác phẩm viết cho thiếu nhi rất nổi tiếng như Dế mèn phiêu
lưu ký (truyện dài, 1942, tái bản nhiều lần), Tuyển tập truyện viết cho thiếu nhi (2
tập, 1994) Dù là cây bút đa tài, viết cho nhiều lứa tuổi khác nhau, các mảng đề tài
khác nhau nhưng với văn học thiếu nhi, Tô Hoài vẫn là người ông kính mến và gần
gũi, yêu trẻ.
• Phạm Hổ
Nhà thơ Phạm Hổ (bút danh: Hồ Huy) sinh ngày 28/11/1926. Quê gốc: xã Nhân
An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ông là thành viên sáng lập Hội Nhà văn Việt
Nam (1957). Xuất thân trong một gia đình Nho học, Phạm Hổ học tiểu học ở quê, học
trung học ở Huế, thi đỗ Thành chung ở Quy Nhon. Ồng là một trong những nhà văn
thông thạo tiếng Pháp. Sau Cách mạng tháng Tám, ông làm công tác tuyên truyền.
Trong kháng chiến chống Pháp ông là Uỷ viên Ban chấp hành Đoàn Hội hoạ Liên khu
V. Tập kết ra Bắc, ông tiếp tục làm công tác văn học, nghệ thuật, từng giữ chức Phó
Tổng biên tập thứ nhất tuần báo Văn nghệ, Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn,
Chủ tịch Hội đồng văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam. Những tác phẩm chính đã
xuất bản: Những ngày thân ái (tập thơ, 1957); Ra khơi (tập thơ, 1960); Đi xa (tập thơ,
1970); Những ô cửa, những nẻo đường (tập thơ, 1976); Vườn xoan (truyện ngắn,
1961); Tình thương (tiểu thuyết, 1964, tái bản 1974); Chú bò tìm bạn (tập thơ, 1970,
tái bản 1996); Ngựa thần từ đâu đến (tập truyện, 1986); Chuyện hoa, chuyện quả