Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp bảo tồn phát triển tài nguyên cây thuốc tại khu vực rừng động châu – khe nước trong xã kim thủy, huyện lệ thủy, tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.71 MB, 62 trang )

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Thành phần thực vật khu vực Nghiên cứu
DANH MỤC CÁC HÌNH
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TCN Trước công nguyên
NXB Nhà xuất bản
VU Sắp nguy cấp (Vulnerable)
K
Thiếu dữ liệu (Insufficiently known)
EN Nguy cấp (Endangered)
R Hiếm (Rare)
WTO Tổ chức y tế thế giới (World Trade
Organization )
KVNC Khu vực nghiên cứu
1
PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất nước ta, với một vị trí tự nhiên hiếm có, một mặt gắn liền với lục địa,
mặt khác thông với đại dương và nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa, khí hậu
có nhiều nét độc đáo và đa dạng. Điều kiện tự nhiên đó đã thực sự ưu đãi cho đất
nước và con người Việt Nam một hệ sinh thái phong phú với tiềm năng to lớn về
tài nguyên cây thuốc. Theo kết quả điều tra và tái điều tra của Viện Dược Liệu,
tính đến 2005 cả nước đã ghi nhận được 3948 loài thực vật và nấm lớn có công
dụng làm thuốc. Trong số đó có trên 90 % là cây thuốc mọc hoang dại, tập trung
chủ yếu trong các quần xã rừng, chỉ có gần 10 % là cây thuốc trồng. Việt Nam
có nền y học dân tộc cổ truyền lâu đời với tri thức sử dụng các loại dược liệu,
các bài thuốc có giá trị dùng để chữa các bệnh thông thường và nan y. Phương
châm “Nam dược trị Nam nhân” đã giúp bảo vệ sức khỏe cho dân tộc ta trong
suốt chiều dài lịch sử phát triển của đất nước.
Hiện nay không chỉ Việt Nam mà trên thế giới, với xu hướng “trở về thiên
nhiên” nhu cầu về dược liệu cũng như thuốc từ cây dược liệu có xu hướng ngày


càng tăng. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), khoảng 80% dân số tại các quốc
gia đang phát triển chăm sóc sức khỏe bằng các thuốc y học cổ truyền. Người ta
nhận thấy rằng các thuốc có nguồn gốc từ thảo dược ít độc hại, ít gây tác dụng
phụ và phù hợp hơn với quy luật sinh lý của cơ thể. Hơn nữa hiện còn nhiều
bệnh hiểm nghèo chưa có thuốc đặc hiệu để chữa trị và người ta hi vọng rằng từ
nguồn dược liệu tự nhiên hoặc từ vốn trí tuệ bản địa của các cộng đồng dân tộc,
qua nghiên cứu có thể cung cấp cho nhân loại những hợp chất có hoạt tính sinh
học cao để làm ra các loại thuốc mới có hiệu quả chữa bệnh như mong muốn.
Dược liệu nói chung, cây thuốc nói riêng có giá trị kinh tế to lớn hơn bất
kỳ cây lương thực, thực phẩm nào. Tính trên toàn thế giới, hàng năm doanh thu
thuốc từ dược liệu ước đạt khoảng trên 80 tỷ USD; những năm gần đây, nhiều
2
công ty, nhà sản xuất đã có hướng đi mới là sản xuất các thuốc bổ trợ, các thực
phẩm chức năng, mỹ phẩm, hương liệu… từ dược liệu. Chính vì vậy, dược liệu
đã và đang mang lại nguồn lợi lớn cho nền kinh tế ngoài việc cung cấp nguyên
liệu cho sản xuất thuốc. Tuy nhiên ở Việt Nam khối lượng dược liệu này trên
thực tế mới chỉ bao gồm từ hơn 200 loài được khai thác và đưa vào thương mại
có tính phổ biến hiện nay. Bên cạnh đó, còn nhiều loài dược liệu khác vẫn được
thu hái, sử dụng tại chỗ trong cộng đồng và hiện chưa có những con số thống kê
cụ thể.
Hơn 20 năm qua cùng với biến đổi khí hậu, những thay đổi lớn về điều
kiện kinh tế - xã hội như: chia tách tỉnh, tốc độ công nghiệp hóa của cả nước,
nạn khai thác gỗ bừa bãi, phá rừng làm nương rẫy, trồng cây công nghiệp (cà
phê, cao su) hay xây dựng các công trình dân sự đã làm cho diện tích rừng tự
nhiên bị thu hẹp. Bên cạnh đó, một nguyên nhân quan trọng khác đã làm cho
nguồn cây thuốc ở nước ta nhanh chóng cạn kiệt là việc phát động khai thác cây
thuốc ồ ạt mà không tổ chức bảo vệ tái sinh tự nhiên. Điều này đã ảnh hưởng
đến sự phân bố tự nhiên, thành phần các loài cây thuốc giảm mạnh, trữ lượng
các cây thuốc ngày càng cạn kiệt, nhiều loài cây thuốc quí có nguy cơ tuyệt
chủng do không được bảo tồn và khai thác hợp lý.

Khu vực rừng Động Châu - khe Nước Trong thuộc xã Kim Thủy, huyện
Lệ Thủy, nằm ở phía Tây Nam tỉnh Quảng Bình là một trong số ít khu vực còn
lưu giữ được một diện tích rừng ẩm thường xanh trên đất thấp ít bị tác động ở
khu vực miền Trung, được ví như một mái nhà xanh chở che cho hàng vạn cư
dân sinh sống ở lưu vực sông Kiến Giang và Long Đại. Hiện khu vực này có
diện tích gần 20.000ha, thuộc vùng sinh thái Bắc Trung bộ. Nơi đây có một khu
hệ động thực vật cực kỳ phong phú, đặc biệt trong đó có nhiều loài cây dược
liệu quý hiếm. Dân cư quanh khu vực chủ yếu là đồng bào Bru Vân Kiều, trải
qua quá trình sinh sống lâu dài, họ có nhiều kinh nghiệm làm thuốc quý giá để
chăm sóc sức khỏe cho bản thân, cho cộng đồng.
3
Tuy nhiên hiện nay việc khai thác, bảo vệ và phát triển tài nguyên dược
liệu cũng như tri thức làm thuốc của đồng bào trên địa bàn chưa được chú trọng.
Bên cạnh đó là tình trạng khai thác lâm sản và lâm sản ngoài gỗ trái phép, không
hợp lí, đã dẫn đến suy giảm nguồn tài nguyên rừng, suy giảm đa dạng sinh học,
suy giảm nghiêm trọng nguồn dược liệu quý của địa phương. Trên thực tế đó,
chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp
bảo tồn phát triển tài nguyên cây thuốc tại khu vực rừng Động Châu – Khe
Nước Trong xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình” với mong muốn
góp phần nhỏ của mình vào công tác bảo tồn và phát triển bền vững nguồn tài
nguyên cây thuốc tại khu vực rừng Động Châu – Khe Nước Trong.
4
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Những nghiên cứu về cây thuốc và vị thuốc trên thế giới
Lịch sử nghiên cứu về cây thuốc và vị thuốc đã xuất hiện cách đây hàng
nghìn năm. Nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới (Trung Quốc, Nhật Bản,
Triều Tiên, Ấn Độ…) đã chú ý sử dụng cây thuốc trong phòng và chữa bệnh,
đặc biệt phát triển ở các nước phương Đông.
Tài liệu cổ về cây thuốc hiện còn lại không nhiều, thuy nhiên có thể coi

năm 2838 trước Công nguyên (TCN) là năm hình thành bộ môn nghiên cứu cây
thuốc và dược liệu. Cuốn “Kinh Thần Nông” (Shen’ nong Bencaoing, vào thế kỷ
I) đã ghi chép 364 vị thuốc. Đây là cuốn sách tạo nên tảng cho sự phát triển liên
tục của nền y học dược thảo Trung Quốc cho đến nay [11].
Năm 1595, Lý Thời Trân (Trung Quốc) đã tổng kết tất cả kinh nghiệm về
cây thuốc và dược liệu để soạn thành quyển “Bản thảo cương mục”. Đây là cuốn
sách vĩ đại nhất của Trung Quốc về lĩnh vực này. Tác giả đã mô tả và giới thiệu
1.094 cây thuốc và vị thuốc từ cây cỏ [21].
Năm 384 – 322 (TCN), Aristote người Hy Lạp đã ghi chép và lưu giữ sớm
nhất về kiến thức cây cỏ ở nước này. Sau đó, năm 340 (TCN) Theophraste với
tác phẩm “Lịch sử thực vật” đã giới thiệu gần 480 loài cây cỏ và công dụng của
chúng. Tuy công trình của ông mới dừng lại ở mức mô tả, thống kê song nó mở
đầu cho một giai đoạn tìm tòi, nghiên cứu sâu về lĩnh vực này [8].
Thầy thuốc người Hy Lạp Dioscorides năm 60 – 20 (TCN) giới thiệu 600
loài cây cỏ chủ yếu để chữa bệnh. Đồng thời, ông cũng là người đặt nền móng
cho nền y dược học [8].
Năm 79 – 24 (TCN) , nhà tự nhiên học người La Mã Plinus soạn thảo bộ
sách “Vạn vật học” gồm 37 tập giới thiệu 1000 loài cây có ích [8].
Như vậy, những công trình nghiên cứu về dược liệu đã có từ rất lâu đời,
hình thành và phát triển cùng với tiến trình lịch sử của nhân loại. Tuy nhiên, do
5
sự hạn chế của trình độ khoa học đương thời nên những công trình này chỉ dừng
lại ở mức độ mô tả, thống kê và chỉ ra công dụng của chúng, chưa có cơ sở khoa
học để chứng minh thành phần hóa học của chúng có tồn tại trong đó và tham
gia vào việc chữa bệnh như thế nào. Chỉ đến khi khoa học kỹ thuật phát triển thì
vấn đề này mới được làm sáng tỏ, tạo độ tin cậy với người bệnh khi sử dụng.
2.2. Những nghiên cứu về vị thuốc và cây thuốc ở Việt Nam
Ở Việt nam, tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ lâu. Có thể nói nó xuất
hiện từ buổi đầu sơ khai, khi con người còn sống theo lối nguyên thủy. Trong
quá trình tìm kiếm thức ăn, tổ tiên chúng ta đã ngẫu nhiên phát hiện ra công

dụng và tác hại của nhiều loại cây. Suốt một thời gian dài như vậy, tổ tiên chúng
ta đã dần dần tích lũy được nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính chất của cây
rừng để làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh.
Từ những buổi đầu dựng nước, dưới thời các vua Hùng, ông cha ta đã biết
sử dụng hành, tỏi, riềng… làm gia vị trong những bữa ăn hàng ngày.
Từ nhiều thế kỷ trước công nguyên, nhân dân ta có tục ăn trầu cho ấm
người, thơm miệng, uống nước chè xanh cho mát, vụ nối cho dễ tiêu… Điều đó
nói lên những hiểu biết về dinh dưỡng và sử dụng thuốc của dân tộc.
Thời kỳ Bắc thuộc, nhiều vị thuốc được phát hiện và xuất sang Trung Quốc
như: sắn dây, khoai lang, mơ, quýt…
Dưới triều vua nhà Lý (1010 – 1244) có nhiều lương y nổi tiếng, trong đó
có nhà sư Minh Không (Nguyễn Chí Thành) ở chùa Giao Thủy đã có công chữa
bệnh cho Lý Thần Tông. Nhà Lý đặt quan hệ với Trung Quốc trao đổi thuốc
Nam lấy thuốc Bắc [10].
Dưới triều Trần (1244 – 1399), đã có kế hoạch tự túc thuốc Nam để kháng
chiến. Tướng Phạm Ngũ Lão đã trồng cây thuốc ở Vạn An và Dược Sơn (Hải
Dương) để cung cấp cho quân y [9].
Ở đại phương Giao Thủy, Sơn Nam (Nam Định), Dạ Cẩm, Hồng Châu
(Hải Dương) Tuệ Tĩnh đã mở nhiều cơ sở chữa bệnh làm phúc ở các chùa và
gây phong trào trồng cây thuốc ở gia đình. Ông là một đại sư nước Việt dùng
6
thuốc Nam, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân với phương châm “Thuốc Nam
chữa bệnh người Nam” ông đã truyền bá y dược cổ truyền cho nhân dân trong
tác phẩm:
- “Nam dược thần hiệu”: gồm 499 vị và 3.932 phương thuốc trị 184 loại bệnh,
chia làm 10 khoa (năm 1725). Đây là tập sách thứ hai xuất hiện trong lịch sử
nghiên cứu cây thuốc ở nước ta sau tập “Bản thảo thực vật toàn yếu” do Phan
Chu Tiên biên soạn (1429) là tập cây thuốc và dược liệu đầu tiên ở Việt Nam.
- “Các bài thuốc Việt Nam và thập tam phương gia giảm”: chép 13 cổ phương với
bổ âm dương do ông sang chế để chữa các bệnh gia giảm theo chứng, các tài

liệu này được in trong “Nam dược chính bản”, sau được triều Hậu Lê in lại
trong “Hồng Nghĩa giác tư y thư” (1717 và 1723) và được lưu truyền đến nay.
Thế kỷ XVIII, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1729 – 1791) đã thừa kế
dược học của Tuệ Tĩnh chép vào tập “Lĩnh Nam bản thảo”, nội dung gồm 496 vị
thuốc Nam của “Nam dược thần hiệu” và phát hiện thêm hơn 300 vị nữa. Tư
liệu vĩ đại nhất của ông là bộ sách: “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển
viết về lý luận cơ bản, phương pháp chẩn đoán, trị bệnh.
Ngoài các bộ sách nói trên, trong thời kỳ phong kiến trị vì, rất nhiều sách
về cây thuốc và dược liệu được viết bởi các nhà nghiên cứu, các danh y khác
cũng đã được ra đời.
Đến thời Pháp thuộc, công trình nghiên cứu của Crévost và A.Pétélote
(1928 – 1935) đã nghiên cứu và công bố kết quả điều tra về tài nguyên thực vật
ở Việt Nam và Đông Dương.
Sau cách mạng tháng 8/1945, y dược học cổ truyền đạt được những thành
tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Bộ y tế cùng y học hiện đại, sức khỏe của
người dân được quan tâm và chăm lo chu đáo hơn.
Sau khi nước nhà thống nhất (1975), việc nghiên cứu cây thuốc ở nước ta
được quan tâm rất nhiều. Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu tìm tòi và phát hiện
thêm nhiều loài cây thuốc mới.
7
Dược điển Việt Nam tập 2 (1983) của NXB y học do nhiều thành viên và
các cơ quan tham gia xây dựng, đã mô tả và nêu công dụng của hơn 430 loài cây
thuốc [5].
Đỗ Tất Lợi (1970-2005) khi nghiên cứu các loài cây thuốc và vị thuốc Việt
Nam đã công bố 793 loài thuộc 164 họ ở hầu hết các tỉnh nước ta. Trong tài liệu
này, tác giả cũng tiến hành mô tả từng cây, cách thu hái và chế biến, thành phần
hóa học, công dụng và liều dùng. Tuy nhiên nơi phân bố của từng loài tác giả
giới thiều rất khái quát [15].
Võ Văn Chi (1996) với bộ sách “Từ điển cây thuốc Việt Nam” Đã giới
thiệu 3.200 loài cây mọc hoang dại và trồng ở Việt Nam. Tác giả đã mô tả khá

chi tiết từng loài, bộ phận dùng, nơi sống và thu hái, tính vị và công dụng của
chúng. Ngoài ra, sách còn có hình vẽ và ảnh chụp một số loài cây nên thuận tiện
cho việc tra cứu [7].
Nhiều tổ chức về y học dân tộc được thành lập: Hội Đông y Việt Nam,
Viện nghiên cứu Đông y, Viện Dược liệu – Bộ y tế … đã thành công trong việc
điều tra, sưu tầm dược liệu: sưu tầm được 1.863 loài cây thuốc thuộc 238 họ
thực vật, thu thập 8000 tiêu bản của 1.296 loài.
Trong những năm gần đây, có rất nhiều công trình nghiên cứu mới về cây
thuốc và được đúc rút thành những cuốn sách có giá trị. Cuốn “Cây thuốc, bài
thuốc và biệt dược” của tác giả Phạm Thiệp, Lê Văn Thuần và Bùi Xuân
Chương, xuất bản năm 2000, đề cập đến 327 cây thuốc thường dùng trong thực
tế cùng với các bài thuốc kèm theo được sử dụng [20]. Đến năm 2002, công
trình nghiên cứu của Đỗ Huy Bích và cộng sự đã được công bố trong 2 tập “Cây
thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam”. Đồng thời nhằm đào tạo và nâng cao
kiến thức cho nghiên cứu sinh và thực tập sinh về điều tra, bảo tồn và tạo nguồn
nguyên liệu chất lượng cao làm thuốc phòng cà chữa bệnh, Viện Dược liệu, năm
2006, đã cho ra đời cuốn “Nghiên cứu thuốc từ thảo dược”. Cùng năm, cuốn
“Cây có vị thuốc ở Việt Nam” của Võ Văn Chi đã góp phần quan trọng cho việc
điều tra về y dược thiên nhiên và y dược dân tộc của nước ta [12]. Gần đây nhất,
8
Tào Duy Cần và Trần Sỹ Viên (2007) đã thống kê trên 500 vị thuốc Nam – Bắc
thường dùng với hàng chục ngàn bài thuốc trong cuốn “Cây thuốc, vị thuốc, bài
thuốc Việt Nam” [2].
Năm 2003, Trần Văn Ơn trong luận án Tiến sỹ Dược học “Góp phần
nghiên cứu bảo tồn cây thuốc ở Vườn Quốc gia Ba Vì”, ông đã điều tra được
503 loài cây thuốc được người Dao sử dụng thuộc 321 chi, 118 họ của 5 ngành
thực vật [19].
PGS.TS Trần Minh Hợi - Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật (2008) cùng
cộng sự thực hiện điều tra, đánh giá các loài thực vật dung làm thuốc và giá trị
sử dụng của chúng tại Khu bảo tồn Thiên nhiên Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị

và đưa ra danh lục cây thuốc của khu vực. Theo đó, nguồn cây làm thuốc ở khu
bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa có 440 loài thuộc 348 chi của 137 họ trong
5 ngành thực vật bậc cao có mạch [13].
Nguyễn Quốc Bình (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) và
cộng sự (2013), với đề tài nghiên cứu tri thức sử dụng các loài cây thuốc của
cộng đồng dân tộc Cơ Tu và Vân Kiều tại vùng đệm vườn quốc gia Bạch Mã đã
đưa ra danh lục gồm 585 loài cây thuốc, thuộc 135 họ, 378 chi [3].
Trần Thế Hùng – Trường Đại học Quảng Bình (2014) cùng cộng sự qua
nghiên cứu thực trạng và giá trị sử dụng nguồn cây dược liệu tại xã Quy Hóa,
huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình đã đưa ra danh lục cây thuốc của vùng với 77
loài, 73 chi, 37 họ thuộc 4 ngành thực vật bậc cao [14].
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều đánh giá cao sự phong phú, ý nghĩa
thực tiễn, giá trị khoa học cũng như giá trị kinh tế của nguồn tài nguyên cây
thuốc. Cây thuốc dân tộc và tri thức y học dân tộc cổ truyền Việt Nam đã góp
phần không nhỏ trong việc duy trì, tồn tại và phát triển của dân tộc từ xa xưa đến
nay. Việc ứng dụng những kinh nghiệm dân gian và nghiên cứu thực vật học ở
Viêt Nam là rất cần thiết góp phần nâng cao sức khỏe, hiệu quả phòng chữa
bệnh cũng như góp phần phát triển nền kinh tế. Vì vậy, để phát huy truyền thống
văn hóa tốt đẹp cũng như góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn nguồn
9
gen, bảo tồn những kinh nghiệm phong phú và quý báu của đồng bào dân tộc thì
vấn đề điều tra, thu thập cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng của cộng đồng là
hoạt động quan trọng trong công tác bảo tồn.
2.3. Ý nghĩa kinh tế xã hội của của cây thuốc
Để duy trì sự phát triển và tồn tại của con người, ngoài các yếu tố dinh
dưỡng, môi trường sống và các yếu tố xã hội khác thì chống lại bệnh tật, phòng
và chữa bệnh là một trong những yếu tố quan trọng giúp con người thích nghi,
sống khỏe và sống lâu hơn. Vì vậy, có thể nói thuốc nói chung, trong đó cây
thuốc nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), 80% dân số thế giới sử

dụng cây thuốc cho việc chăm sóc sức khỏe ban đầu. Một số tài liệu khác cũng
cho thấy ở các nước đang phát triển, 70 – 80% dân số vùng nông thôn sử dụng
cây thuốc là nguồn chữa bệnh chủ yếu. Qua số liệu trên cho thấy, mặc dù hiện
nay công nghệ khoa học phát triển, việc sử dụng cây thuốc và y học cổ truyền
vẫn có vai trò vô cùng quan trọng [4].
Ngoài việc sử dụng cây thuốc trực tiếp đẻ chữa bệnh, hằng năm ngành bào
chế dược phẩm trên thế giới tiêu thụ một khổi lượng rất lớn dược liệu cho các
dây chuyền sản xuất. Ở Mỹ, hằng năm có 25% nguyên liệu làm thuốc lấy từ
thực vật. Sản phẩm này đóng góp 1,5 đô la và giữ vai trò đáng kể trong cán cân
thương mại.
Tinh dầu được chiết xuất từ các loài cây làm thuốc có tác dụng rõ rệt lên hệ
tuần hoàn, hô hấp, thần kinh. Hiện nay, một số xí nghiệp ở Mỹ, Nga… đã thử
nghiệm thành công trong việc tang năng suất lao động, chống mệt mỏi, giảm các
lỗi kỹ thuật trong dây chuyền sản xuất khi phun một lượng nhỏ tinh dầu vào
không khí. Kinh ngạch xuất khẩu tinh dầu hằng năm qua các nước: Mỹ, Nhật,
Pháp, Đức, Hà Lan, ý lên tới 40 tỷ đô la Mỹ/năm.
Ngoài lợi ích kinh - tế xã hội nói trên, việc sử dụng, phát triển cây thuốc còn
mang lại lợi ích về môi trường và sinh thái rất to lớn.
2.4. Tiềm năng, tình hình khai thác và sử dụng cây thuốc ở nước ta
10
Nước ta nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa, có hệ thực vật phong phú và
đa dạng nên tiềm năng về cây thuốc là rất lớn. Theo thống kê của Hội nghị Châu
Á về cây thuốc và cây tinh dầu ở Băng Cốc (12/1996), Việt Nam có khoảng
3.200 loài làm thuốc. Con số này sẽ không ngừng tăng lên trong những năm tới
đây, do nhiều loài cây thuốc Việt Nam được sử dụng trong y học cổ truyền của
các dân tộc chưa được điều tra nghiên cứu.
Các cây làm thuốc phân bố chủ yếu ở vùng trung du và miền núi (70%).
Những vùng có nhiều loài cây thuốc tập trung chủ yếu ở các loại hình rừng nhiệt
đới thường xanh. Đặc biệt là các Khu bảo tồn thiên nhiên, Vườn Quốc gia, rừng
rậm nguyên sinh như: Cúc Phương, Vườn Quốc gia Cát Bà, Ba Vì, Tao Đảo,

Nam Cát Tiên… Đây là những nơi thảm thực vật được bảo vệ tương đối tốt, là
môi trường thuận lợi cho các nhà nghiên cứu điều tra thống kê, khám phá thêm
những loài mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi Hội nghị cán bộ y tế ngày 17/02/1955
đã chỉ thị: “Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quá báu về cách chữa
bệnh bằng thuốc ta, thuốc Bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô các chú cũng
nên chú trọng nghiên cứu, phối hợp thuốc đông và thuốc tây”.
Thấy được những tiềm năng to lớn của cây thuốc Việt Nam, trong những
năm 60-70 của thế kỷ XX, phong trào phát triển và sử dụng cây thuốc Nam
được khuyến khích và phát triển rầm rộ. Vào thời gian này, 60% số xã ở miền
Bắc có vườn thuốc Nam, các cơ sở y tế địa phương và trong nhân dân sử dụng
cây thuốc để phòng và chữa bệnh là chính và đạt nhiều kết quả tốt.
Hiện nay, y học hiện đại đang phát triển như vũ bão. Những thành tựu mà y
học hiện đại đạt được thật đáng kinh ngạc, đã đưa con người thoát khỏi một số
căn bệnh hiểm nghèo, giành lấy sự sống cho mình. Thị trường thuốc Tây ở nước
ta cũng đang ngày một mở rộng. Tuy vậy, việc chữa bệnh bằng các loại cây
thuốc thiên nhiên vẫn được dùng nhiều ở một số bộ phận cư dân vùng đồng
bằng Bắc Bộ, các dân tộc miền núi.
11
Trong công tác trị liệu bằng y học cổ truyền, mặc dù bị ảnh hưởng nặng của
y học Trung Quốc (thuốc Bắc), nhưng các vị thuốc từ cây cỏ trong nước vẫn
chiếm vị trí quan trọng. Nhiều vị thuốc hoàn toàn trồng ở Việt Nam, chưa từng
nhập ở Trung Quốc (Bồ công anh, Sài đất, Kim ngân, Quế, …) Nhiều loài có thể
thay thế cho dược liệu nhập nội, mặc dù chất lượng chưa cao (Đẳng sâm, Bạch
truật, Cánh kiến, Kỷ tử, …). Nhiều loài cây thuốc khai thác ở Việt Nam có chất
lượng cao hơn sản phẩm cùng loại ở Trung Quốc. Rõ ràng, cây thuốc đã và đang
có khả năng đáp ứng nhu cầu phòng và chữa bệnh bằng y học cổ truyền.
Trong những năm qua, một số loài cây thuốc đã là những nguyên liệu
không thể thiếu trong công nghiệp dược liệu hiện đại. Những thành tựu quan
trọng đã thu được là: Chiết xuất Berberin từ cây Vàng đắng; sản xuất nhiều loại

tinh dầu thực vật; sản xuất Rotundin, Stihox từ củ Bình vôi; chiết xuất Rutin từ
Hoa hoè.
Ngoài ra, chúng ta đã có những thành công bước đầu trong việc sử dụng
cây thuốc để chữa một vài căn bệnh hiểm nghèo và bệnh xã hội. Đáng kể trong
lĩnh vực này là sử dụng cây thuốc chữa bệnh ung thư tuyến tiền liệt, hạn chế
phát triển khối u sau phẫu thuật, tiếp đến là các bài thuốc đông y đang có triển
vọng trong việc cắt cơn nghiện ma tuý…
Do chính sách mở cửa cũng như sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá,
trong những năm gần đây, một số loài cây thuốc đã bị khai thác quá mức, không
được bảo vệ và dần đi tới khan hiếm hoặc có nguy cơ tuyệt chủng như: Hoàng
đằng, Hoàng liên, Trầm hương… Vì vậy, việc điều tra nghiên cứu các loài cây
thuốc có vai trò quan trọng, góp phần bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên
quý giá này.
2.5. Tình hình nghiên cứu đa dạng sinh học và thảm thực vật ở khu vực rừng
Động Châu – Khe Nước Trong, xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy, Tỉnh Quảng
Bình.
Động Châu - Khe Nước Trong là khu vực rừng phòng hộ đầu nguồn trọng
yếu ở phía Tây Nam xã Kim Thủy. Giá trị về đa dạng sinh học, cũng như tầm
12
quan trọng của khu vực này trong việc phòng hộ môi trường từ lâu đã được
chính quyền các cấp, người dân địa phương ghi nhận và đầu tư bảo vệ.
Từ năm 2008, UBND tỉnh đã có chủ trương về phương án tăng cường quản
lý bảo vệ rừng phòng hộ đầu nguồn, đồng thời nhận thấy giá trị đa dạng sinh học
ở khu vực này nên đã có đề án chuyển rừng phòng hộ khe Nước Trong thành
khu bảo tồn thiên nhiên. Theo đó, đề án nâng hạng khu vực rừng khe Nước
Trong thành rừng đặc dụng đã được Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn
chuẩn y.
Và gần đây nhất, trong quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt
quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030, khe Nước Trong vinh dự được quy hoạch thành lập Khu

bảo tồn (khu dự trữ thiên nhiên) trong phân kỳ từ nay đến 2020.
Để đánh giá đầy đủ về giá trị nguồn tài nguyên sinh vật và hệ sinh thái ở
Khu bảo tồn thiên nhiên (đề xuất) Khe Nước Trong làm cơ sở cho công tác quản
lý, bảo tồn đa dạng sinh học, đã có nhiều cơ quan chức năng tiến hành nghiên
cứu hệ động, thực vật ở đây.
Trong 3 năm gần đây, các cuộc khảo sát đa dạng sinh học sử dụng phương
pháp bẫy ảnh và điều tra thực tế của Trung tâm Bảo tồn Thiên nhiên Việt đã ghi
nhận 241 loài động vật thuộc 77 họ, 21 bộ, trong đó có 41 loài nằm trong sách
đỏ Việt Nam và 29 loài nằm trong danh lục đỏ thế giới, trong đó nhiều loài đang
bị đe dọa ở mức Nguy cấp và Rất nguy cấp trên toàn cầu như Sao la, Tê tê,
Mang lớn, Chà vá chân nâu, Sơn dương, Trĩ sao, Mang Trường Sơn, Thỏ vằn,
vượn đen má trắng, chà vá chân nâu, voọc Hà Tĩnh, ếch cây Trường Sơn
Kết quả điều tra khu hệ thực vật do nhóm chuyên gia thực vật của Viện
Điều tra Quy hoạch Rừng phối hợp với Trung tâm Bảo tồn Thiên nhiên Việt
thực hiện năm 2009 -2010 trong Khu vực nghiên cứu đã thống kê được 987 loài,
539 chi thuộc 141 họ trong 5 ngành thực vật bậc cao có mạch, trong đó có 163
loài đặc hữu của Việt Nam và khu vực, 54 loài quý hiếm có tên trong Sách đỏ
13
Việt Nam, 26 loài trong Sách đỏ thế giới. Thành phần loài thực vật được thống
kê bảng dưới đây:
Bảng 2.1: Thành phần thực vật khu vực Nghiên cứu
Ngành thực vật Số họ Số chi Số loài
1. Equisetophyta - Ngành Mộc tặc 1 1 1
2. Lycopodiophyta - Ngành Thông đất 2 3 5
3. Polypodiophyta - Ngành Dương xỉ 15 32 73
4. Gymnospermae - Ngành Hạt trần 5 7 11
5. Magnoliophyta - Ngành Hạt kín 118 496 897
5.1. Magnoliopsida - lớp hai lá mầm 98 387 709
5.2. Liliopsida - lớp Một lá mầm 20 109 188
Tổng số 141 539 987

Nguồn: Viện Điều tra Quy hoạch Rừng, điều tra thực địa năm 2009-2010
Trong số năm ngành thực vật thì ngành Ngọc lan - Magnoliophyta 897 loài
chiếm 91% tổng số loài đã được ghi nhận. Bốn ngành thực vật còn lại chỉ chiếm
khoảng 9% tổng số loài ghi nhận được. Trong số các loài được ghi nhận có tới
54 loài (chiếm 5,4%) các loài quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam 2007 và
Sách đỏ thế giới (IUCN 2009 Red List of Threatened Plants).
Những kết quả nghiên cứu trên đã cho thấy giá trị đa dạng sinh học rất cao
ở khu vực này. Đặc biệt là tài nguyên cây thuốc ở đây rất phong phú và đa dạng.
Tuy nhiên chưa có một nghiên chuyên sâu nào về lĩnh vực này. Bên cạnh đó là
hiện tượng thu hái thực vật để làm thuốc của người dân, theo thói quen lên rừng
lấy về sử dụng mà không có kế hoạch trồng them hay giữ gìn cho sau này, cũng
như hiện tượng một bộ phận người dân thu hái một số cây thuốc quý về sơ chế
và bán cho các thương lái các tỉnh lân cận với số lượng lớn. Vấn đề cấp bách đặt
ra là cần có những nghiên cứu cụ thể để xây dựng chiến lược bảo vệ và phát
triển nguồn dược liệu quý của vùng.
14
PHẦN 3
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
3.1.1. Mục tiêu chung: Nhằm góp dẫn liệu thông tin về thực trạng tài nguyên dược
liệu, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát triển bền vững cây dược
liệu tại địa bàn nghiên cứu.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được hiện trạng tài nguyên dược liệu tại địa bàn nghiên cứu
- Xác định được đặc điểm phân bố, tiềm năng và giá trị sử dụng tài nguyên dược
liệu tại địa bàn nghiên cứu
- Đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát triển tài nguyên dược liệu tại địa bàn
nghiên cứu.
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.2.1. Đối tượng nghiên cứu: các loài thực vật được sử dụng làm dược liệu.
3.2.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu tài nguyên dược liệu ở các
quần thể rừng trong khu vực rừng Động Châu – Khe Nước Trong thuộc phạm vi
khu vực đề xuất Dự án thành lập Khu bảo tồn thiên nhiên Khe Nước Trong.
- Phạm vi thời gian: Ngày 5 tháng 1 – ngày 25 tháng 5 năm 2015.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Điều tra, đánh giá thành phần loài dược liệu tại địa bàn nghiên cứu
o Tính đa dạng về thành phần loài tại địa bàn so với các điểm khác
o Tính đa dạng về thành phần loài theo dạng sống
o Tính đa dạng về thành phần loài theo bộ phận sử dụng
o Tìm hiểu các loài được ưu tiên bảo tồn và phát triển tại địa bàn nghiên cứu
- Đặc điểm phân bố và mức độ phong phú của tài nguyên cây thuốc
o Phân bố theo sinh cảnh sống
- Điều tra đánh giá tiềm năng và giá trị sử dụng tài nguyên dược liệu trên địa bàn
nghiên cứu
o Điều tra, đánh giá tiềm năng và giá trị sử dụng theo tài liệu nghiên cứu (tra cứu)
o Điều tra, đánh giá tiềm năng và giá trị sử dụng theo kiến thức bản địa tại địa bàn
nghiên cứu
o Điều tra, đánh giá khả năng khai thác và sử dụng tài nguyên dược liệu tại địa
phương
15
- Xây dựng khung tiêu chí đánh giá loài nhằm bảo tồn và phát triển tài nguyên
dược liệu tại địa bàn nghiên cứu
o Loài nguy cấp
o Mức độ đa dạng
o Độ giàu loài
o Khả năng sử dụng
o Đặc điểm kinh tế
o Đặc điểm sinh thái

o Khả năng gây trồng
- Đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát triển tài nguyên dược liệu tại địa bàn
nghiên cứu
o Cơ sở để đề xuất
 Tính khả thi của mô hình
 Địa điểm thực thi, nguồn tài nguyên đất đai
 Quy mô thực thi mô hình (hộ gia đình hay cộng đồng)
 Đối tượng quản lý (người dân, cộng đồng, )
 Khả năng gây trồng và phát triển tài nguyên dược liệu tại địa bàn nghiên cứu
 Động lực của người dân địa phương, các cơ quan lâm nghiệp, doanh nghiệp,…
o Bảo tồn nguyên vị
 Tài nguyên rừng tự nhiên
o Bảo tồn chuyển chỗ
 Vườn nhà, vườn hộ
 Mô hình sưu tập
 Trạm y tế
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
- Những tài liệu liên quan đến phân bố, đặc điểm sinh vật học, sinh thái học, giá
trị, quản lý, bảo tồn, các loài cây làm thuốc trong nước và trên thế giới.
- Nghiên cứu, tham khảo các tài liệu, các đề tài, công trình nghiên cứu liên quan
đến phân bố, đặc điểm sinh vật học, sinh thái học, giá trị, quản lý, bảo tồn, của
các loài cây dược liệu trong nước và trên thế giới.; Các bài thuốc dân gian ở Việt
Nam, kiến thức bản địa về chữa bệnh và bốc thuốc của một số vùng miền, khu
vực và trên toàn quốc.
- Thu thập tài liệu, số liệu tại vùng nghiên cứu
3.4.2. Phương pháp điều tra thực địa
Lập tuyến điều tra: Từ kết quả sơ thám và dựa vào bản đồ địa hình, chúng
tôi tiến hành lập 4 tuyến điều tra chính theo khe suối và dông núi, thiết lập mang
tính đại diện cho vùng nghiên cứu.

16
- Đồng thời tiến hành thu thập mẫu vật và xử lý sơ bộ ngoài thực địa
- Chụp ảnh đặc tả các loài bắt gặp tại hiện trường.
3.4.3. Phương pháp phỏng vấn
- Điều tra trong nhân dân địa phương để tìm hiểu thói quen, tập quán sử dụng
thực vật và thực vật để làm thuốc, tiến hành phỏng vấn hộ gia đình (30 hộ). Lập
bản hỏi theo…
- Tiến hành phỏng vấn, thao khảo ý kiến chuyên gia: các nhà đông y trên địa bàn
xã, cán bộ kiểm lâm, người đi rừng, các nhà nghiên cứu có am hiểu chuyên sâu
về cây dược liệu.
- Xác định tên địa phương của loài sau khi phỏng vấn người dân và các nhà đông
y.
3.4.4. Phương pháp xử lý và tra cứu mẫu thực vật
- Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi áp dụng các phương pháp thu mẫu
thực vật như sau: Tiến hành ghi chép các thông tin về từng loài cây bắt gặp trên
tuyến như: tên Việt Nam (hoặc tên Latinh), dạng sống (cây thân gỗ, thân bụi,
thân thảo, thân leo). Những loài cây chưa xác định được tên thì thu thập mẫu về
phân loại sau. Chụp ảnh đặc tả các loài bắt gặp tại hiện trường.
- Tra cứu về đa dạng loài, dạng sống, công dụng của các loài thực vật thu thập
dựa vào các tài liệu dược liệu liên quan Tên các loài cây (tên khoa học và tên
Việt Nam) và thành phần dạng sống được xác định theo các tài liệu: Cẩm nang
tra cứu và nhận biết các họ thực vật hạt kín ở Việt Nam (1997) của Nguyễn Tiến
Bân [1], Cây cỏ Việt Nam (1991 - 1993) của Phạm Hoàng Hộ [12]; Danh lục
các loài thực vật Việt Nam của tập thể tác giả (2001 - 2005) [23]…
- Phân loại và xác định tên các loài, dạng sống của cây thuốc (tên khoa học và tên
Việt Nam) theo các tài liệu: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Đỗ Tất
Lợi (2005) [15]; Cây thuốc Việt Nam của Lê Trần Đức (1995) [10]; Từ điển cây
thuốc Việt Nam của Võ Văn Chi (1996) [7]; 1900 loài cây có ích ở Việt Nam
của Trần Đình Lý (1995) [17];
- Phân loại và xác định các loài cây thuốc có nguy cơ bị tuyệt chủng trong

khu vực nghiên cứu theo Sách đỏ Việt Nam của Bộ Khoa học và Công nghệ
(2007), phần Thực vật và Danh lục đỏ IUCN (2001).
3.4.5. Phương pháp xư lý số liệu
17
- Xử lý số liệu sơ cấp và thứ cấp bằng phương pháp tổng hợp, phân tích theo
thống kê mô tả trong lâm nghiệp
- Xử lý số liệu bằng phần mềm Excel.
- Xử lí dữ liệu GPS bằng phần mềm Mapinfo.
18
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Đặc điểm khu vực nghiên cứu
4.1.1. Vị trí địa lý
Khu vực nghiên cứu (KVNC): là Khu đề xuất của Dự án thành lập Khu
bảo tồn Thiên nhiên Khe Nước Trong nằm ở xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy,
phía Tây Nam tỉnh Quảng Bình.
Có toạ độ địa lý: 16
0
55’18’’ đến 17
0
3’34’’ Vĩ độ Bắc
106
0
32’31’’ đến 106
0
48’27’’ Kinh độ Đông
Hình 4.1: Sơ đồ khu vực nghiên cứu
Tổng diện tích 19.187,99 ha bao gồm
toàn bộ diện tích 18.360,36 ha rừng phòng hộ
do QBL rừng phòng hộ Động Châu quản lí (22

tiểu khu) và 827.63 ha thuộc quản lí của Chi
nhánh Lâm trường Khe Giữa (2 tiểu khu).
Trong đó:
- BQL rừng phòng hộ Động Châu: Trạm số 1
(Hà Lẹc) gồm các tiểu khu 522, 523, 528, 529, 537, 538 và 539; Trạm số 2 (Tiểu
khu 525) gồm các tiểu khu 524, 525, 526 và 527; Trạm số 3 (Cầu Khỉ) gồm các
tiểu khu 530, 531, 533, 535 và 536; Trạm số 4 (Khe Cau) gồm các tiểu khu 489,
490 và 486; Trạm số 5 (Bãi Đạn) gồm các tiểu khu 516, 517 và 534.
- Chi nhánh Lâm trường Khe Giữa gồm các tiểu khu 515 và 532.
4.1.2. Địa sinh học
Vùng này bao gồm vùng đất thấp, vùng đồi chuyển tiếp bắc Trung Bộ và
một phần phụ cận thuộc Trung Lào (Stattersfield et al. 1998). Khu vực này là
một phần của 23 khu hệ động vật Bắc Trung Bộ (Đào Văn Tiến 1963, Võ Quý
1978).
Về vùng sinh thái nông nghiệp thì Khu vực nghiên cứu nằm ở nửa cuối
vùng Bắc Trung Bộ, thuộc khu vực Trung Trường Sơn. Đây là khu vực được các
19
tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới đánh giá rất quan trọng đối với công tác bảo
tồn đa dạng sinh học. Quỹ bảo tồn thiên nhiên thế giới (WWF) coi đây là một
trong 200 trung tâm đa dạng sinh học trên thế giới (Global 200, WWF 2000). Tổ
chức Bảo tồn Chim quốc tế (BirdLife International) thì đánh giá đây là một
trong 62 vùng chim quan trọng và đặc hữu của Việt Nam (BirdLife International
2002). Những quan điểm về địa sinh học của các tác giả đều cho rằng, đây là
vùng quan trọng đối với đa dạng sinh học của Việt Nam và toàn cầu.
Khu vực nghiên cứu có ranh giới giáp với khu bảo tồn thiên nhiên Bắc
Hướng Hóa (tỉnh Quảng Trị). Nếu khu bảo tồn Khe Nước Trong được thiết lập thì
sẽ tạo thành một khu vực liền vùng có diện tích tương đối lớn và sẽ có một vị trí
quan trọng trong hệ thống khu rừng đặc dụng của Việt Nam. Đây là cơ hội tốt đối
với sự tồn tại của các hệ sinh thái rừng vùng thấp và các loài động thực vật, đặc biệt
là tài nguyên cây thuốc quý giá.

4.1.3. Địa hình
Khu vực nghiên cứu nằm trong vùng núi thấp với địa hình tương đối dốc
theo hướng Nam - Bắc. Độ cao trung bình trong khu vực khoảng 500 - 600 m
so với mực nước biển. Điểm thấp nhất là 120 m, nằm ở ranh giới đề xuất tại khu
vực Khe Bang. Đỉnh cao nhất là đỉnh 1220 m giữa ranh giới 2 tỉnh Quảng Bình -
Quảng Trị và Lào. Còn lại là hầu hết các đỉnh núi cao dưới 1000 m so với mực
nước biển.
Vùng núi có độ cao trên 700 m chiếm một phần nhỏ (khoảng 10%) diện tích
khu vực. Còn lại 90 % diện tích là vùng đồi núi có độ cao dưới 700 m. Theo
Thái Văn Trừng (1998) thì đây là rừng nhiệt đới thường xanh trên núi. Trên toàn
quốc, rừng ở dạng địa hình này đang bị suy thoái và trở nên rất hiếm do rừng dễ
tiếp cận nên bị tác động mạnh. Do có nguy cơ đe dọa cao nên các tổ chức bảo
tồn thiên nhiên xếp loại rừng này là rừng có giá trị bảo tồn cao (WWF 2008).
Trong khi đó, ở khu vực Khe Nước Trong, kiểu rừng trên vùng núi thấp còn
chiếm một tỷ lệ rất cao. Đây chính là đối tượng cần phải bảo tồn trong khu vực
và là mục tiêu bảo tồn trong toàn Quốc [6].
20
4.1.4. Địa chất, đất đai
Địa chất vùng điều tra thuộc miền vòng trống Paleozoi rộng lớn thuộc đới
Trường Sơn Bắc, có cấu tạo đặc thù với nhiều mặt cắt Paleozoi khá đầy đủ và
dày. Bao gồm các trầm tích Odovic thượng và Silua. Thành phần bồi lắng gồm
có sắt, cát, Conglonurat, cuội, sỏi, dăm. Song song với quá trình bồi lắng là quá
trình xâm nhập các khối Magma acid như Granit, Daxit, Rhefonit. Trong vùng
điều tra xuất hiện diện tích đáng kể của kiểu thung lũng kiến tạo và xâm thực
nằm dọc theo các con sông suối. Nham thạch chủ yếu bao gồm các khối được
tạo thành từ Magma, Granit, Rhyonit, đặc điểm đá rất mỏng, có kết cấu hạt thô,
tỷ lệ thạch anh lớn khó phong hóa. Các vùng thạch tạo từ trầm tích hạt thô như
sa thạch, cuội kết, dăm kết, conglomerat có kết cấu hạt thô, bở, rời, phong hóa
nhanh, dễ rửa trôi và xói mòn.
Đất được hình thành trên các loại phiến thạch sét, sa thạch và magma acid

kết tính chua, chúng phân bố đan xen vào nhau khá phức tạp, tạo nên khá nhiều
loại đất có độ phì khác nhau, tùy thuộc vào các kiểu địa hình, thảm thực bì, độ cao
và độ dốc của địa hình [6].
4.1.5. Khí hậu thủy văn
Khí hậu
Khu vực nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông tương
đối lạnh. Hàng năm mùa khô kéo dài từ tháng 4 đến đầu tháng 9 (khô hạn găy
gắt nhất trong tháng 6 và tháng 7), mùa mưa từ cuối 9 đến tháng 12, mưa nhiều
nhất vào thời kỳ cuối mùa thu (tháng 10 và tháng 11), Trong khu vực không có
trạm quan trắc khí tượng, chỉ có trạm Khe Sanh là gần với khu vực nhất và có
điều kiện tương đối phù hợp để tham khảo. Theo số liệu quan trắc khí tượng 20
năm tại Khe Sanh, các chỉ tiêu khí tượng trung bình như sau:
- Nhiệt độ bình quân năm 22,3
0
C
- Nhiệt độ bình quân tối cao 25,8
0
C vào tháng 6
- Nhiệt độ bình quân tối thấp 18,1
0
C vào tháng 1
- Lượng mưa bình quân năm 2.079 mm
21
- Lượng mưa bình quân tháng thấp nhất 18,8 mm vào tháng 2
- Lượng mưa bình quân tháng cao nhất nhất 456,2 mm vào tháng 10
Có 3 loại gió mùa chính thịnh hành trong khu vực. Gió mùa Đông Nam
mang theo hơi ẩm và mưa lớn, thịnh hành từ tháng 5 đến tháng 11. Gió mùa
Đông Bắc mang theo hơi lạnh và mưa phùn, thịnh hành từ tháng 12 đến tháng 4
năm sau. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô bắt đầu từ tháng
12 đến tháng 4 năm sau.

Thủy văn
Toàn bộ khu vực được đề xuất là vùng đầu nguồn của sông Long Đại và
sông Kiến Giang (hai nhánh của sông Nhật Lệ) là một trong những con sông lớn
nhất tỉnh Quảng Bình. Trong nội vi khu vực rất nhiều khe suối nhỏ chằng chịt
tạo thành 2 hệ sông suối chính là hệ sông Sa Ram và Khe Bang. Hệ Sa Ram
gồm nhiều suối lớn đổ về như Suối Vàng, Khe Bung, suối Sa Ram. Hệ Khe
Bang cũng gồm nhiều suối lớn như: A Bai, Rào Chân và Khe Bang. Các sông
suối trong khu vực thường ngắn, có độ dốc lớn, xâm thực sâu, vì thế thường gây
lũ và làm sạt lở đất, gẫy đổ cây rừng, và ảnh hưởng tới giao thông đi lại trong
vùng.
4.1.6. Giá trị bảo tồn của thảm thực vật
Khu vực nghiên cứu là nơi tương đối phong phú về kiểu thảm thực vật
rừng, đặc biệt là thảm thực vật ở vùng núi thấp dưới 700 - 800 m. Ở các địa
phương khác, kiểu rừng này, do gần dân cư và dễ tiếp cận, đã bị phá hủy và còn
rất ít. Tuy nhiên, ở khu vực Khe Nước Trong thì kiểu thảm thực vật này còn khá
nhiều, khoảng 10.000 ha. Kết quả giải đoán ảnh vệ tinh và điều tra thực địa cho
thấy tỷ lệ độ che phủ của rừng trong Khu vực nghiên cứu lên tới 99%. Theo
quan điểm phân loại thảm thực vật rừng của Thái Văn Trừng (1998) [22], các
kiểu thảm thực vật chính và phụ của khu vực được thể hiện ở Bảng 4.1 sau:
Bảng 4.1: Hiện trạng thảm thực vật rừng và sử dụng đất
ST
T
Kiểu thảm thực vật
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
%
1 Rừng kín thường xanh mưa mùa á nhiệt đới núi 2.110,86 11,00
22
thấp

2 Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới 10.138,99 52,84
3 Kiểu phụ thứ sinh sau khai thác kiệt 6.187,62 32,25
4 Kiểu phụ thứ sinh phục hồi trên đất mất rừng 297,65 1,55
5 Kiểu phụ thổ nhưỡng phát triển trên núi đá vôi 260,74 1,36
6 Trảng cỏ, cây bụi, cây gỗ rải rác 192,13 1,00
Tổng 19.187,99 100
Nguồn: Viện Điều tra Quy hoạch Rừng điều tra thực địa năm 2009-2011
(1) Rừng kín thường xanh mưa mùa á nhiệt đới núi thấp
Kiểu rừng này có diện tích 2.110,86 ha, chiếm 11% diện tích Khu vực
nghiên cứu. Chúng phân bố tập trung tại sườn đỉnh và đỉnh, độ cao trên 800 m
đến khoảng 1.200 m so với mực nước biển, dọc theo ranh giới giữa tỉnh Quảng
Bình với huyện Hướng Hoá, Vĩnh Linh (Quảng Trị) và phần tiếp giáp
CHDCND Lào. Ở vành đai này, nhiệt độ không khí trung bình giảm xuống
dưới 20
0
C, mưa nhiều và độ ẩm không khí cao. Đất dưới tán rừng chủ yếu là
đất mùn Feralite có tầng đất trung bình đến dày, đôi khi có tầng đất rất mỏng ở
các đỉnh núi. Những nơi như vậy lại chịu ảnh hưởng của gió mạnh vì thế chiều
cao cây rừng thường thấp hơn so với kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt
đới ở phía dưới.
Kiểu rừng này đã bị tác động nhẹ nhưng còn giữ được tính nguyên sinh về
cơ bản. Độ tàn che tán rừng đạt 0.7 - 0.8. Đường kính bình quân của tầng cây
gỗ từ 20-30 cm, chiều cao bình quân khoảng 20 m. Thực vật tạo rừng tương đối
phức tạp, chủ yếu là các loài cây lá rộng. Rừng gần như không có tầng cây trội
vượt tán mà thường chỉ chia thành 4 tầng là tầng ưu thế sinh thái, tầng cây gỗ
dưới tán rừng, tầng cây bụi, cây tái sinh và tầng cây thân thảo.
(2) Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới
Đây là kiểu rừng đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa có diện tích
10.138,99 ha, chiếm 52,84% tổng diện tích khu đề xuất. Kiểu rừng này chiếm
diện tích lớn nhất trong khu vực. Chúng phân bố chủ yếu ở độ cao từ 800 m trở

xuống so với mực nước biển và tạo thành các mảng rừng lớn, xa khu dân cư và
23
có địa hình phức tạp như khu vực Trạm Kiểm lâm cầu khỉ, Bãi đạn và rải rác
một vài điểm khác trong vùng. Đất dưới tán rừng thuộc đất Feralit vàng nhạt đến
đỏ vàng phát triển trên đá Granit, có tầng đất từ trung bình đến dầy. Nhiệt độ
không khí bình quân luôn đạt trên 20
0
c, lượng mưa và độ ẩm không khí khá cao.
Rừng này ít nhiều đã bị tác động, nhưng vẫn còn mang những nét hoang
sơ căn bản, được thể hiện thông qua cấu trúc tổ thành loài và cấu trúc tầng thứ
phức tạp với độ tàn che đạt 0,8. Thành phần thực vật tạo rừng khá phong phú.
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng điều kiện lập địa và vị trí cụ thể mà các nhóm
loài chiếm ưu thế khác nhau. Rừng thường phân thành 5 tầng rõ rệt, gồm tầng
vượt tán, tầng ưu thế sinh thái, tầng cây gỗ dưới tán, tầng cây bụi cây gỗ tái
sinh và tầng thảm thảm tươi.
Đây là kiểu rừng đóng vai trò quan trọng nhất và có giá trị bảo tồn cao
trong hệ sinh thái rừng của khu vực. Chúng là sinh cảnh quan trọng của các loài
thú lớn, các loài chim, bò sát ếch nhái, côn trùng cũng như các loại cây làm
thuốc trong khu vực.
(3) Kiểu phụ thứ sinh sau khai thác vùng thấp
Kiểu rừng này có diện tích tương đối lớn 6.187,62 ha chiếm 32,25% diện
tích khu đề xuất, phân bố tập trung chủ yếu từ Trạm bảo vệ rừng số 2 và kéo dài
đến khu vực Động Châu. Do bị khai thác qua một số luân kỳ kinh doanh rừng,
nên kết cấu tầng tán rừng không còn được liên tục và tạo ra nhiều khoảng trống
trong rừng. Những khoảng trống này tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm thực vật
ngoại tầng và lớp cây tái sinh dưới tán rừng có đặc tính ưa sáng phát triển. Thực
vật tạo rừng, nhóm cây bụi, thảm tươi và thực vật ngoại tầng bao gồm nhiều loài
khá đa dạng.
Tuy rừng đã bị tác động tương đối mạnh nhưng đây cũng là sinh cảnh
quan trọng cho nhóm thực vật làm thuốc phát triển.

(4) Kiểu phụ thứ sinh phục hồi trên đất mất rừng
Kiểu phụ này có diện tích không đáng kể 297,65 ha, chỉ chiếm 1,55%
diện tích Khu vực nghiên cứu. Đây là kiểu rừng được hình thành từ nương rẫy
24
bỏ hoang. Tùy vào mức độ tác động, thời gian phục hồi ngắn hay dài mà thảm
thực vật thứ sinh có những nét đặc trưng khác nhau về ngoại mạo, cấu trúc,
thành phần loài thực vật. Thành phần thực vật tham gia tổ thành khá phong phú;
đối với nhóm cây bụi, thảm tươi và thực vật ngoại tầng thường mọc rải rác dưới
tán rừng ít khi thành đám.
Tuy rừng có kết cấu đơn giản nhưng đây cũng là sinh cảnh quan trọng cho
nhóm thực vật làm thuốc, đặc biệt là các loài thân thảo.
(5) Kiểu phụ thổ nhưỡng phát triển trên núi đá vôi
Kiểu rừng này có diện tích nhỏ 260,74 ha, chiếm 1,36% diện tích khu đề
xuất. Do đặc điểm địa hình dốc (phát triển trên sườn núi đá vôi) và tầng đất rất
mỏng hoặc không có nên rừng không phân tầng rõ ràng. Thành phần thực vật
tạo rừng cũng khá phức tạp, nhóm cây bụi, thảm tươi và thực vật ngoại tầng kém
phần đa dạng hơn so với thảm thực vật núi đất, phân bố số lượng cá thể loài phụ
thuộc nhiều đến tầng thảm mục dưới tán rừng hay nói cách khác phụ thuộc tầng
đất bề mặt.
Tuy chiếm diện tích nhỏ nhưng kiểu rừng này đóng vai trò là sinh cảnh
quan trọng của các loài linh trưởng. Chúng là nơi ẩn nấp và kiếm ăn của các loài
linh trưởng. Đây cũng nơi sinh sống của một số loài thực vật làm thuốc quý.
(6) Trảng cỏ, cây bụi, cây gỗ rải rác
Kiểu thảm thực vật này có diện tích là 192,13 ha, chỉ chiếm 1% diện tích
khu đề xuất. Đây là kết quả của quá trình tác động lâu dài của con người, chủ
yếu là phát rừng làm rẫy qua nhiều chu kỳ. Về cơ bản đất ở đây bị thoái hóa, bạc
màu, tầng đất mỏng và cằn cỗi chỉ thích hợp đối với các loài cây bụi. Ngài ra,
còn gặp một số loài cây gỗ tái sinh. Đối với sinh cảnh này nếu được bảo vệ tốt
sẽ phục hồi lại rừng nhưng phải mất một thời gian dài.
Mặc dù tính đa dạng sinh học không cao, nhưng trạng thái này là sinh

cảnh cho một sô loài thực vật làm thuốc thân thảo.
4.2. Đa dạng hệ thực vật của vùng rừng Động Châu – Khe Nước Trong
4.2.1. Lập tuyến điều tra khảo sát
25

×