Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CÁC HUYỆN MIỀN NÚI TỈNH QUẢNG NGÃI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.77 KB, 51 trang )

UBND TỈNH QUẢNG NGÃI
SỞ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ

ĐỒN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
TỈNH QUẢNG NGÃI

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ

Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT CÁC
GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
CÁC HUYỆN MIỀN NÚI TỈNH QUẢNG NGÃI

Chủ nhiệm đề tài: TS. Võ Tuấn Nhân

Quảng Ngãi, 2011


PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Đảng và Nhà nước ta đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của miền núi, ban hành nhiều chủ trương, chính sách, chương
trình, dự án và tổ chức triển khai thực hiện trên các lĩnh vực trong nhiều năm
qua, đã góp phần phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, làm thay đổi bộ mặt nông
thôn miền núi, tạo cơ sở cho sự phát triển. Ngân sách nhà nước đầu tư khá lớn
cho khu vực miền núi. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội tại miền núi vẫn cịn rất nhiều
khó khăn, bất cập.
Đối với tỉnh Quảng Ngãi, nhiều năm qua Đảng bộ, chính quyền các cấp
cũng rất quan tâm đến đầu tư cho miền núi và chắc chắn trong nhiều năm đến sẽ
có sự đầu tư lớn cho phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền núi.


Một thực tiễn rất đáng quan tâm là: có nhiều chương trình, dự án triển
khai thực hiện ở miền núi với tổng số vốn đầu tư lớn, nhưng sau khi kết thúc,
tính ổn định, phát huy không được giữ vững hoặc hiệu quả thấp. Do vậy, cần
phải có sự đánh giá khoa học, khách quan về hiệu quả các chương trình, dự án
đầu tư cho miền núi, đánh giá việc tổ chức thực hiện sao cho đảm bảo tính hiệu
quả và bền vững của chương trình, dự án được triển khai thực hiện trên địa bàn
miền núi.
Tình hình thực hiện các chương trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở
các huyện miền núi Quảng Ngãi có nhiều kết quả, nhưng chuyển biến chưa
mạnh, chưa đáp ứng mong đợi của nhân dân và yêu cầu của quản lý. Cơ chế
chính sách cho phát triển kinh tế - xã hội miền núi đã có, nhưng trong giai đoạn
hiện nay cần tập trung nhiều hơn nữa cho miền núi, nhất là việc nghiên cứu,
triển khai thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP để giảm nghèo nhanh và bền
vững. Vấn đề này cần phải có nghiên cứu chuyên sâu dưới góc độ khoa học để
đề xuất một số giải pháp đồng bộ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội các huyện
miền núi phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu phát triển miền núi trong sự
phát triển chung của tỉnh.
Từ trước đến nay, hàng năm các cơ quan nhà nước đều có các báo cáo
đánh giá chung tình hình thực hiện các chương trình đầu tư phát triển kinh tế xã hội ở các huyện miền núi Quảng Ngãi và đề ra nhiệm vụ thực hiện cho năm
sau. Những báo cáo này phần nào đã phản ảnh thực trạng và giải pháp phát triển
kinh tế - xã hội miền núi. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, chưa có điều kiện
để thực hiện dưới góc độ một đề tài khoa học.
Để đánh giá đúng thực trạng tình hình triển khai thực hiện các chương trình, dự
án, chúng ta cần phải dựa trên các phương pháp khoa học, khách quan để xem xét về
những vấn đề liên quan, đề xuất những giải pháp khả thi để tổ chức thực hiện hiệu quả
hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền núi trong thời gian
đến một cách nhanh và bền vững.
Với những lý do chính yếu nêu trên nói lên sự cần thiết để tiến hành
nghiên cứu đề tài này.



2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là:
Đánh giá thực trạng tình hình tổ chức thực hiện các chương trình, chính
sách hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở các huyện miền núi tỉnh Quảng
Ngãi trong giai đoạn 2006 - 2010. Qua đó đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn
lực đầu tư ở miền núi.
Đề xuất các giải pháp có tính khả thi góp phần đẩy mạnh phát triển kinh
tế - xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015.
Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề tài có nhiệm vụ:
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về sự phát triển kinh tế - xã hội các
huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi. Đánh giá tình hình thực hiện một số chính
sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội tại các huyện miền núi tỉnh
Quảng Ngãi, qua đó đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư ở miền núi.
Xác định một số nhiệm vụ trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội các huyện
miền núi tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015. Đề xuất các giải pháp góp
phần phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi.
3. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, đề tài dựa trên phương pháp luận chung của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Phương pháp luận chủ
yếu của đề tài là lý luận Mác-xít được sử dụng trong toàn bộ nội dung của đề tài.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng giúp nhìn nhận mọi sự vật và hiện tượng tồn tại
trong mối liên hệ phổ biến và chúng luôn vận động, biến đổi, phát triển không
ngừng. Trên cơ sở quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm
phát triển để xem xét và phân tích nội dung nghiên cứu của đề tài. Vận dụng các
quan điểm này để làm cơ sở cho việc xem xét các sự kiện xã hội và quá trình
phát triển của xã hội, mà cụ thể là kinh tế - xã hội tại các huyện miền núi tỉnh
Quảng Ngãi.
Trên cơ sở phương pháp luận chung đó, đề tài chủ yếu vận dụng hướng
tiếp cận của Lý thuyết cấu trúc - chức năng, Lý thuyết phát triển, quan điểm của

Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quá trình thực hiện đề tài. Một số lý thuyết,
quan điểm vận dụng nghiên cứu đề tài được trình bày ở mục 1.1 Chương 1 báo
cáo này.
Các phương pháp cụ thể tiến hành nghiên cứu cụ thể là:
Thu thập, phân tích tài liệu: Thu thập số liệu thống kê, các tài liệu liên
quan đã có từ các cơ quan Trung ương, ở tỉnh, 06 huyện miền núi trong tỉnh.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (Ankét): Sử dụng bảng hỏi được
thiết kế phù hợp cho nội dung cần nghiên cứu (xem Phiếu khảo sát - Phụ lục
01). Số lượng mẫu là 1.000 phiếu, được điều tra tại tất cả 06 huyện miền núi
trong tỉnh. Việc xử lý và phân tích số liệu phiếu điều tra được thực hiện bởi sự
trợ giúp của máy vi tính, bằng phần mềm SPSS-11.5.
Phương pháp phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm tập trung: Thực hiện với
các đối tượng chủ yếu là cán bộ các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, đoàn thể
cấp xã, cấp huyện, tỉnh và một số công dân tại các huyện miền núi.
Phương pháp quan sát, được vận dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên


cứu đề tài.
4. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu đề tài
Như tên gọi của đề tài được giao nhiệm vụ là:“Nghiên cứu thực trạng và
đề xuất các giải pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi
tỉnh Quảng ngãi”, và được giới hạn trong mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên. Thời
gian và kinh phí đầu tư cho nghiên cứu cịn hạn chế. Vì vậy, trong quá trình
nghiên cứu “đánh giá thực trạng” ở đây cũng chỉ đi sâu vào một số lĩnh vực mà
đề tài đặt ra. Các giải pháp đề xuất cũng trong khuôn khổ nhiệm vụ nghiên cứu
của đề tài.
5. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã bám sát mục tiêu, nhận diện được những
thành công, bất cập trong một số chính sách, chương trình, dự án đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội tại các huyện miền núi trong thời gian qua; đề xuất các giải

pháp có tính khả thi góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội các huyện
miền núi tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015. Vì vậy, đây là luận cứ khoa
học phục vụ cho sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành quản lý của tỉnh và trong việc
thực hiện chủ trương phát triển kinh tế - xã hội miền núi nhanh và bền vững của
Đảng và Nhà nước.
Đề tài góp phần quan trọng trong việc làm rõ thực trạng, đề xuất các giải
pháp có cơ sở khoa học, sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở
miền núi nhanh và bền vững. Vì vậy, đề tài có giá trị thực tiễn, giải quyết vấn đề
vừa mang tính cấp bách, vừa lâu dài, đồng thời góp phần làm sáng tỏ về mặt lý
luận, nhận thức sâu sắc hơn các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội
miền núi.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, báo cáo tổng hợp kết quả nghiên
cứu đề tài được thể hiện trong ba chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2. Đánh giá tình hình thực hiện một số chính sách, chương trình,
dự án phát triển kinh tế-xã hội tại các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3. Các giải pháp góp phần phát triển kinh tế-xã hội các huyện
miền núi tỉnh Quảng Ngãi.


PHẦN II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ DÂN CƯ
1.1. Một số lý thuyết, quan điểm vận dụng nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi của đề tài, các tác giả tập trung tìm hiểu, vận dụng một số
lý thuyết: “Cấu trúc - chức năng”, “Lý thuyết phát triển”, quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta có liên quan để nghiên cứu đề tài.
1.1.1. Vận dụng Lý thuyết cấu trúc - chức năng

Lý thuyết cấu trúc - chức năng gắn liền với tên tuổi của các nhà Xã hội
học nổi tiếng như: H. Spencer, E. Durkheim, T. Parsons, là một trong những lý
thuyết quan trọng được sử dụng rộng rãi trong các phân tích xã hội học. Lý
thuyết này nhấn mạnh đến những đóng góp chức năng của mỗi bộ phận trong xã
hội để duy trì cấu trúc cũ, giúp ta vận dụng xem xét cấu trúc kinh tế - xã hội một
vùng, một khu vực nhất định (mà ở đây là khu vực miền núi tỉnh Quảng Ngãi).
Vận dụng lý thuyết cấu trúc - chức năng giúp ta nhìn nhận: Xã hội là một
hệ thống các thiết chế phụ thuộc lẫn nhau và tham gia tạo nên sự ổn định bền
vững của tổng thể. Để giải thích tồn tại của một thiết chế xã hội, chúng ta phải
tìm hiểu hệ thống xã hội, như một tổng thể, địi hỏi những nhu cầu của nó phải
được thoả mãn như thế nào. Bởi vì chỉ trong một trạng thái như vậy thì mới bảo
đảm cho các chức năng hoạt động mà xã hội luôn trong trạng thái cân bằng.
Do vậy, khi xem xét về thực trạng và giải pháp triển kinh tế - xã hội miền
núi, chúng ta cần thấy được các chức năng mới xuất hiện và có những chức năng
cũ sẽ bị triệt tiêu vì khơng có cơ sở để tồn tại dẫn đến sự biến đổi về kinh tế - xã
hội của cộng đồng dân cư khu vực miền núi. Vận dụng lý thuyết cấu trúc - chức
năng phân tích nội dung đề tài “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp
góp phần phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi”;
nhằm thấy được cơ cấu mới của cơ cấu xã hội cũng như chức năng bộ phận của
cơ cấu ấy trong phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Sự tác động của các bộ phận
mới với các chức năng mới sẽ tạo cơ sở cho sự tồn tại, phát triển của xã hội và
dẫn đến sự biến đổi xã hội của cộng đồng dân cư, trong đó cộng đồng dân cư
khu vực nghiên cứu cũng nằm trong mối quan hệ chung đó.
1.1.2. Vận dụng Lý thuyết phát triển
Lý thuyết phát triển được nhiều nhà khoa học quan tâm và vận dụng
nghiên cứu các vấn đề kinh tế - xã hội. Nhưng có rất nhiều quan điểm khác nhau
khi nói đến thuật ngữ “phát triển”. Có quan điểm coi phát triển và tăng trưởng
có cùng nội dung. Chúng ta không thể hiểu phát triển như là một hiện tượng
kinh tế mà phải được xem như là tồn bộ q trình bao gồm các đặc điểm kinh
tế - chính trị - xã hội và văn hố. Trên quan điểm về kinh tế - xã hội, phát triển

giúp cho con người hướng tới một cuộc sống đầy đủ hơn, giàu có hơn.
Lý thuyết về sự phát triển hiện nay đang có xu hướng giảm bớt những vấn


đề thuần t có tính kinh tế. Lý thuyết phát triển ngày nay chú ý nhiều hơn các
vấn đề phi kinh tế trong quá trình phát triển, về lĩnh vực văn hố, xã hội... Do
đó, phát triển xã hội khơng còn đồng nhất với tăng trưởng kinh tế mà là sự phát
triển một cách tổng thể. Với yêu cầu như vậy, khi vận dụng Lý thuyết phát triển
vào nghiên cứu đề tài đòi hỏi chúng ta phải xây dựng khung lý thuyết nghiên
cứu trên cơ sở của lý thuyết phát triển hiện đại.
1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước
Tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới phát triển đất nước, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
giai đoạn 2001 - 2010; Cùng với những chủ trương, đường lối phát triển chung
của đất nước, công tác Dân tộc và miền núi luôn được Đảng và Nhà nước xác
định có vị trí chiến lược quan trọng. Kế thừa và phát huy kết quả sau 15 năm
thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhất là từ khi có Nghị quyết 22-NQ/TW
ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị Về một số chủ trương, chính sách lớn phát
triển kinh tế - xã hội miền núi, tình hình miền núi và các vùng đồng bào dân tộc
thiểu số có bước chuyển biến quan trọng. Đảng và Nhà nước ta đã dành sự quan
tâm đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của miền núi và đã có rất nhiều
chủ trương lớn lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện phát triển kinh tế-xã hội
trong nhiều năm qua.
Những năm gần đây, trong các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước đều rất
quan tâm và có chủ trương đầu tư ngày càng nhiều cho miền núi. Nghị quyết số
30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình giảm nghèo nhanh và bền
vững đối với 61 huyện nghèo, với quan điểm xố đói giảm nghèo là chủ trương
lớn, nhất qn của Đảng, Nhà nước và là sự nghiệp của toàn dân. Phải huy động
nguồn lực của Nhà nước, của xã hội và của người dân để khai thác có hiệu quả
tiềm năng, lợi thế của từng dịa phương, nhất là sản xuất lâm nghiệp, nơng

nghiệp để xố đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, được Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) xác định:... Đẩy mạnh giảm
nghèo bền vững, nâng cao thu nhập, không ngừng cải thiện đời sống và chất
lượng dân số của đồng bào các dân tộc thiểu số.Chú trọng phát triển hạ tầng
kinh tế, xã hội.
Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá X, tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng đã xác định nhiệm vụ
trong 5 năm tới đối với vùng trung du, miền núi. Phát triển kinh tế - xã hội hài
hồ giữa các vùng, đơ thị và nông thôn. Phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng
vùng với tầm nhìn dài hạn, tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng
theo quy hoạch, khắc phục tình trạng đầu tư trùng lặp, thiếu liên kết giữa các
địa phương trong vùng; ...Tăng cường chính sách hỗ trợ phát triển các vùng
cịn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Tỉnh Quảng Ngãi cũng đã có nhiều chủ trương để phát triển kinh tế - xã
hội miền núi. Tỉnh ủy khóa XVII đã ban hành Nghị quyết 05-NQ/TU Về phát
triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi 2006-2010; Hội đồng
nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 17/2007/NQ-HĐND ngày 16/7/2007
nhằm cụ thể hoá Nghị quyết trên và Ủy ban nhân dân tỉnh đã xây dựng , ban
hành Quyết định số 295/QĐ-UBND ngày 28/02/2008 Về phê duyệt Quy hoạch


tổng thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi của tỉnh đến năm 2010để triển khai
thực hiện.
1.2. Điều kiện tự nhiên và dân cư
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Miền núi tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và tỉnh Quảng Ngãi nằm giữa hai
trung tâm kinh tế lớn là Thành phố Đà Nẵng và Thành phố Quy Nhơn trong trục
kinh tế trọng điểm của Miền Trung, là cửa ngõ nối liền giữa Miền Trung với
Tây Nguyên và vùng Hạ Lào qua Quốc lộ 24A và là cầu nối Bắc - Nam với

nước ngồi qua tuyến giao thơng Thủy - Bộ.
Với vị trí địa lý trên đã tạo cho Quảng Ngãi những yếu tố thuận lợi cho
việc mở rộng giao lưu kinh tế với các tỉnh trong nước và nước ngoài. Là một địa
bàn chiến lược quan trọng về quân sự, là căn cứ địa cách mạng gắn liền với lịch
sử chống áp bức giai cấp và chống ngoại xâm của nhân dân Quảng Ngãi.
- Về khí hậu, nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, một năm chia thành hai
mùa rõ rệt: Mùa nóng (từ tháng 3 đến tháng 8); mùa mưa (từ tháng 9 đến tháng
12) và được phân theo ba tiểu vùng khí hậu.
- Về địa hình, có nhiều rừng núi trùng điệp. Vùng núi thấp: Có độ cao từ
300 - 700m, phân bố thành dãy núi hẹp, chạy dọc theo hướng Bắc - Nam, lượn
vòng theo các cánh cung của dãy Trường Sơn, độ dốc trung bình 20 0 - 250. Vùng
thung lũng và gị đồi: Có độ cao dưới 300m so với mặt nước biển, độ dốc dưới
150. Vùng địa hình núi trung bình và núi cao tập trung phần lớn ở phía Tây; địa
hình được chia thành nhiều bậc có độ cao trung bình trên 700m, độ dốc trên 25 0,
địa hình chia cắt mạnh có nhiều núi cao.
- Về đất đai, có 6 loại đất chính: Nhóm đất phù sa suối (P): Diện tích
9.470ha chiếm 2,93% diện tích tồn vùng; Nhóm đất đỏ vàng trên đá Granit
(Fa): Diện tích 97.190,2ha, chiếm 30,04% diện tích tồn vùng; Nhóm đất đỏ
vàng trên đá phiến sét (Fs): Diện tích 93.555,5ha, chiếm 28,92% diện tích;
Nhóm đất dốc tụ (D): Diện tích 5.608ha, chiếm 1,73% tổng diện tích; Đất đỏ
vàng biến đổi do trồng lúa nước (FL): Diện tích 3.059ha, chiếm 0,94% tổng diện
tích; Đất mùn trên núi cao (H): Diện tích 114.668,3ha, chiếm 33,44% tổng diện
tích tồn vùng.
- Về nguồn nước: Hệ thống sông suối tỉnh Quảng Ngãi đều được bắt
nguồn từ những vùng núi cao của các huyện miền núi đổ vào các con sông lớn
như Trà Bồng, Trà Khúc, Sơng Vệ, Trà Câu… Đặc tính của các con sơng này là
ngắn, dốc và lưu lượng dịng chảy lớn, nên thường gây ra lũ lụt vào mùa mưa và
khô hạn vào mùa khơ.
- Về tài ngun rừng: Nhìn chung thực vật rừng khá phong phú, trong
tổng số 560 loài được phát hiện được, có 19 lồi q hiếm được ghi vào Sách đỏ

Việt Nam. Núi rừng Quảng Ngãi là kho tài nguyên phong phú về lâm thổ sản
với nhiều loại gỗ quý như: lim, giổi, sao cát, vênh vênh, chị, trắc, huỳnh đàng,
kiền kiền, gõ. Ngồi gỗ, rừng Quảng Ngãi cịn có nhiều loại cây thuốc như sa
nhân, hà thủ ơ, thiên niên kiện, ngũ gia bì, sâm; các loại cây có sợi, cây có dầu,
trầm hương, cây lấy nhựa và các loại cây lấy nấm. Cây quế là đặc sản nổi tiếng
với diện tích rộng, sản lượng lớn.Về động vật, có trên 478 lồi động vật, trong đó
có 76 lồi thú, 308 lồi chim, 65 lồi bị sát và 29 lồi ếch nhái. Có 55 lồi q


hiếm được ghi vào Sách đỏ Việt Nam.
- Về tài ngun khống sản: Đá xây dựng có ở nhiều nơi, nhất là ở Trà
Bồng; Nước khống Thạch Bích ở Trà Bồng; Wolfram ở Minh Long; vàng,
đồng, kẽm có ở Trà Bồng, Sơn Hà, Ba Tơ...
Khu vực miền núi Quảng Ngãi có nhiều địa danh có thể khai thác phục vụ
du lịch như núi Cà Đam huyện Trà Bồng, Hồ chứa nước Nước Trong, Khu căn
cứ địa cách mạng Ba Tơ và di tích quốc gia Trường Thành…
1.2.2. Dân cư - Dân tộc
Khu vực miền núi có diện tích chiếm 3.245 Km2, dân cư hiện nay có
200.783 người, mật độ dân cư là 61,87 người/km2.
Miền núi Quảng Ngãi có các dân tộc Kinh, Hrê, Cor, Ca Dong sinh sống.
Các dân tộc thiểu số là cư dân bản địa lâu đời, sống theo từng khu vực và có sự
đan xen nhất định, có sự giao lưu, bn bán với nhau và với người Kinh ở miền
xi lên bn bán, khai khẩn. Nói đến dân cư, dân tộc ở miền núi Quảng Ngãi
chủ yếu là các dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong và Kinh.
Người Kinh cư trú chủ yếu ở các thị tứ, thị trấn các huyện miền núi, một
số ít sinh sống đan xen với người dân tộc thiểu số. Khu vực miền núi, dân tộc
Kinh có 50.579 người, chiếm tỷ lệ khoảng 25,2%. Người Kinh ở miền núi
Quảng Ngãi còn giữ khá đầy đủ các hình thức canh tác, phong tục tập quán như
ở miền xuôi.
Người Hrê ở miền núi Quảng Ngãi có 107.171 người, chiếm tỷ lệ 53,4%.

Người Hrê cư trú tập trung ở các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long. Các làng
Hrê đan xen với người Ca Dong ở địa bàn phía Đơng huyện Sơn Tây và sống
đan xen với người Cor ở các xã phía Nam của huyện Trà Bồng.
Người Cor có số dân đơng thứ hai trong các dân tộc thiểu số, sau dân tộc
Hrê. Người Cor ở miền núi Quảng Ngãi có 26.643 người, chiếm tỷ lệ 13,4%.
Dân tộc Cor sống chủ yếu ở các huyện Trà Bồng, Tây Trà.
Người Ca Dong có số dân đông thứ ba trong các dân tộc thiểu số, sau dân
tộc Hrê, Cor. Người Ca Dong ở miền núi Quảng Ngãi có 15.940 người, chiếm tỷ
lệ gần 8,0%. Địa bàn cư trú của người Ca Dong phân bố chủ yếu ở các huyện
Sơn Tây, sau đó là Sơn Hà, Tây Trà.
Các dân tộc thiểu số Quảng Ngãi cùng nằm trong một khu vực lịch sử dân tộc học, có chung một vận mệnh lịch sử lâu đời, đã cùng nhau tham gia vào
những cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột của các triều đại phong kiến và xâm
lược. Đặc biệt, sống trong vùng thiên nhiên phong phú, đa dạng nhưng vô cùng
khắc nghiệt, đồng bào các dân tộc miền núi đã xây dựng nên truyền thống đồn
kết, gắn bó cùng nhau để sinh tồn. Các mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế, văn hóa,
xã hội giữa các dân tộc đã có từ lâu đời. Nhưng mỗi tộc người đều có những đặc
điểm riêng.
Về kinh tế, quan hệ mua bán, trao đổi giữa các dân tộc thực hiện bằng
nhiều hình thức, đã được xác lập từ lâu đời. Đồng bào trao đổi với nhau các
công cụ lao động như dao, rựa, những sản vật từ săn bắt, hái lượm được hoặc
những đặc sản như quế, trầu, cau, chè... Mối quan hệ giao lưu kinh tế đó diễn ra
khơng chỉ trong nội bộ tộc người mà còn diễn ra giữa các tộc người cận cư, đặc
biệt là với người Kinh để trao đổi, mua bán các sản phẩm và nhu yếu phẩm cần


thiết cho cuộc sống.
Về ngôn ngữ, mỗi dân tộc ở miền núi Quảng Ngãi thường khơng chỉ nói
ngơn ngữ mẹ đẻ, mà cịn biết tiếng nói các dân tộc láng giềng. Vì cùng chung hệ
ngơn ngữ Mơn - Khơme nên các dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong rất dễ dàng hiểu
tiếng nói của nhau. Hiện nay, sự giao lưu văn hóa, mối quan hệ giữa các dân tộc

miền núi Quảng Ngãi ngày càng được củng cố và phát triển về mọi mặt, phù
hợp với xu thế thời đại và phù hợp với nguyện vọng chính đáng của bà con các
dân tộc miền núi trên con đường hội nhập đi lên xây dựng cuộc sống mới.
II. THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CÁC HUYỆN MIỀN NÚI
TỈNH QUẢNG NGÃI
1.1. Khái quát chung về thực trạng kinh tế - xã hội
Nhìn chung, kinh tế các huyện miền núi đang trong quá trình thốt ra tình
trạng tự cấp tự túc, từng bước tiếp cận thị trường.
Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 - 2010 chậm, tăng 13,66%,
trong đó N-L-TS tăng 10,25%; CN-XDCB tăng 22,39%; Dịch vụ tăng 18,97%.
Tổng giá trị sản xuất toàn vùng (theo giá 1994) năm 2006 đạt 688.904 triệu
đồng, năm 2010 ước đạt 1.068.552 triệu đồng.
Về cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng
ngành N-L-TS giảm dần. Tỷ trọng CN-TTCN tăng chậm. Dịch vụ chiếm tỷ
trọng thấp nhưng cáo xu hướng tăng dần.
Tổng thu ngân sách của vùng ngày một gia tăng, năm 2010 đạt 27,831 tỷ
đồng, tuy nhiên còn rất nhỏ. Mức thu này chưa thể có tích lũy từ nội bộ nền kinh
tế của các huyện trong vùng mà chủ yếu dựa vào sự hỗ trợ ngân sách của cấp
trên.
Thu nhập bình quân đầu người được cải thiện, năm 2006 là 3.052 ngàn
đồng, đến năm 2009 là 4.384 ngàn đồng; Lương thực bình quân đầu người năm
2006 là 296 kg/người/năm, đến năm 2010 là 327 kg/người/năm.
Đầu tư xây dựng cơ bản của khu vực miền núi được chú trọng, kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội phát triển khá, nhất là hệ thống thủy lợi, đường giao thông,
hệ thống cấp nước sinh hoạt, kè chống xói lở bờ sơng... Đến nay, 100% các
huyện trong vùng có điện lưới quốc gia và mạng lưới bưu chính viễn thơng.
Lĩnh vực văn hoá - xã hội, nhất là giáo dục, y tế, văn hố thơng tin có
những bước tiến triển mới, gắn kết hơn với quá trình phát triển kinh tế - xã hội
chung của toàn tỉnh và trong nội bộ vùng.
Cơng tác xố đói, giảm nghèo được đẩy mạnh, tỷ lệ nghèo năm 2010 là

35,23%, chất lượng cuộc sống có mặt được nâng lên. Đời sống vật chất, tinh
thần của đồng bào các dân tộc được cải thiện đáng kể. Thế trận quốc phòng - an
ninh được giữ vững. Khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được củng cố và tăng
cường.
Tuy nhiên, kinh tế - xã hội các huyện miền núi vẫn cịn chậm phát triển và
nhiều khó khăn.Tính tự phát, manh mún trong sản xuất còn phổ biến. Sản xuất
nông nghiệp chưa đáp ứng đủ nhu cầu lương thực, thế mạnh kinh tế rừng chưa
được phát huy đúng mức; công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng còn nhiều
yếu kém, một số nơi rừng bị tàn phá nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến môi
trường sinh thái. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và hệ thống dịch vụ còn sơ


khai. Tiềm năng du lịch chưa được khai thác. Hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội
còn yếu kém. Các vấn đề thiết yếu như: nhà ở, đất ở, đất sản xuất nông nghiệp,
đất rừng, nước sinh hoạt chưa được giải quyết căn bản. Đời sống của nhân dân
trong vùng còn thấp xa so với các vùng khác trong tỉnh. Trình độ dân trí thấp,
điều kiện phát triển giáo dục, y tế khó khăn, học sinh bỏ học cịn nhiều; tỷ lệ trẻ
em suy dinh dưỡng còn cao. Đồng bào dân tộc vẫn còn tồn tại một số tập tục lạc
hậu.
1.2. Thực trạng về các ngành kinh tế
1.2.1. Nông nghiệp - Lâm nghiệp - Thủy sản
+ Sản xuất Nông nghiệp
- Về trồng trọt:
Cây lúa: Từ năm 2001 đến nay, tuy diện tích có tăng có giảm, nhưng
năng suất bình quân trong vùng tăng đều: từ 26,6 tạ/ha (2001), 31,2 tạ/ha (2005)
lên 40,2 (2010) làm cho sản lượng tăng lên.
Cây ngơ: Sản xuất ngơ có nhiều tiến bộ cả về mở rộng diện tích thâm
canh tăng năng suất. Diện tích ngô lai đang thay thế dần các giống ngô cũ năng
suất thấp. Phương thức trồng ngô thâm canh cũng đang thay thế dần trồng ngơ
quảng canh. Năng suất bình qn trong vùng tăng từ: 18,8 tạ/ha (2001), 21,8

tạ/ha (2005) lên 28,7 tạ/ha (2010).
Cây sắn: Cùng với sự phát triển của hai nhà máy chế biến tinh bột sắn của
tỉnh kéo theo vùng nguyên liệu phát triển không ngừng. Năng suất bình quân
trong vùng tăng từ: 85,8 tạ/ha (2001), 107,9 tạ/ha (2005) lên 134,1 tạ/ha (2010).
Việc phát triển cây sắn hiện nay cần có giải pháp quy hoạch hợp lý và canh tác
khoa học để không dẫn đến phá rừng và huỷ hoại mơi trường.
Ngồi ra, trong vùng cịn có khoai lang, rau đậu các loại: Diện tích có
lúc giảm lúc tăng, nhưng sản lượng và năng suất các năm đều tăng do áp dụng
các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất.
Cây công nghiệp ngắn ngày: Trong vùng có trồng các loại cây cơng
nghiệp ngắn ngày như: mía, lạc, vừng… Diện tích mía có tăng có giảm qua các
năm, năng suất bình qn trong vùng khơng ổn định từ: 372,2 tấn/ha (2001),
449,9 tấn/ha (2005) giảm còn 336,6 tấn/ha (2010). Diện tích và sản lượng cây
lạc tuy có tăng có giảm, nhưng năng suất lại ngày càng tăng. Năm 2001 diện tích
1.340 ha, sản lượng 1.643 tấn, năng suất chỉ đạt 12,3 tạ/ha. Đế năm 2008 diện
tích giảm xuống còn 872 ha, nhưng nhờ năng suất tăng lên 15,7 tạ/ha nên sản
lượng đạt 1.358 tấn. Diện tích trồng cây vừng tuy có tăng có giảm, nhưng năng
suất và sản lượng hàng năm đều tăng. Năm 2001 diện tích 29,0 ha đến 2002 diện
tích tăng lên 74,0 ha, nhưng năm 2008 diện tích lại giảm xuống cịn 63,0 ha.
Năng suất tăng từ 1,7 tạ/ha năm 2001 lên 3,9 tạ/ha năm 2008. Sản lượng tăng từ
5,0 tấn năm 2001 lên 24,3 tấn năm 2008.
Cây công nghiệp dài ngày: Cây quế (Diện tích 2.521 ha, sản lượng 2.255
tấn); Cây cau (Diện tích 620 ha, sản lượng 6.875 tấn); Cây chè (Diện tích 140
ha, sản lượng 252 tấn);
Cây ăn quả: Diện tích 663 ha, sản lượng 3.434 tấn. Trồng phân tán trong
vườn các hộ gia đình.
- Về chăn ni:


+ Đàn trâu, bị: Hình thức chăn ni hiện nay vẫn là chăn nuôi quảng

canh, chưa phát triển thành các trang trại chăn ni tập trung trong khi vùng có
các điều kiện để phát triển. Số lượng đàn trâu, bò có xu hướng ngày càng gia
tăng.
- Đàn lợn: Số lượng đàn lợn tương đối ổn định, tuy có năm tăng, năm
giảm.
+ Đàn gia cầm: Sản lượng thịt gia cầm trong 5 năm trở lại đây có xu
hướng gia tăng, năm 2004 sản lượng thịt gia cầm 290 tấn đến năm 2008 tăng lên
560 tấn.
Nhìn chung, chăn ni chậm phát triển so với trồng trọt, chủ yếu hướng tự
cung, tự cấp, chưa định hướng sản xuất hàng hóa.
- Ngành lâm nghiệp
Diện tích đất lâm nghiệp hiện nay là 175.307,1 ha chiếm 54,18% diện tích
tự nhiên tồn tỉnh. Năm 2006 tổng doanh thu của ngành lâm nghiệp là 56.460
triệu đồng, chiếm 17,02% giá trị ngành Nơng - Lâm - Ngư nghiệp. Ngồi diện
tích rừng tự nhiên đã được khốn bảo vệ, chăm sóc hàng năm. Các huyện miền
núi cịn tiến hành trồng, khoanh ni, tái sinh bảo vệ được diện tích rừng khá
lớn. Công tác trồng rừng và bảo vệ rừng được quan tâm trong những năm gần
đây. Diện tích rừng trồng chủ yếu các cây Sao đen, Lim, Dầu, keo, bạch đàn,
quế… Keo hiện nay chiếm diện tích khá lớn, năng suất bình quân khu vực trong
khoảng từ 70 - 88 tấn/ha và ngày càng đem lại nguồn lợi kinh tế khá cao.
- Thủy sản
Ngành nuôi trồng và đánh bắt thủy sản của vùng miền núi quá nhỏ bé, sản
lượng và giá trị sản phẩm không đáng kể, chủ yếu chỉ đáp ứng một phần nhu cầu
nội vùng. Năm 2008, tổng sản lượng thủy sản toàn vùng đạt 210 tấn. Tiềm năng
khai thác không lớn.
1.2.2. Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp, Xây dựng
Trong những năm qua, ngành Công nghiệp - Tiểu thủ cơng nghiệp và Xây
dựng đã có sự phát triển đáng kể. Hầu hết các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và xây dựng đều nhỏ bé và tập trung ở các thị trấn, trung tâm huyện lỵ và
các trung tâm cụm xã. Tuy nhiên, ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp

vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu giá trị sản xuất của vùng. Năm 2008,
trên tồn địa bàn 06 huyện miền núi có tổng số 1.605 cơ sở thì hầu hết đều thuộc
loại hình hộ kinh doanh cá thể và tư nhân (1.600 cơ sở), chỉ có 02 cơ sở sản xuất
thuộc loại hình nhà nước, 03 cơ sở tập thể.
1.2.3. Thương mại - Dịch vụ và Du lịch
Những sản phẩm hàng hóa của vùng trao đổi với bên ngoài chủ yếu là gỗ
và sản phẩm chế biến từ gỗ, cây mía, cây quế và một số lâm sản khác. Còn các
sản phẩm nhập vào trong vùng là nguyên vật liệu xây dựng, nhiên liệu, phân
bón, lương thực và đồ dùng phục vụ sinh hoạt hàng ngày.
Về dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá, ngày càng chiếm tỷ trọng đáng kể
trong cơ cấu kinh tế. Các hoạt động dịch vụ vận tải, ngân hàng phát triển, có tác
dụng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Tuy nhiên, vận tải trong vùng
chủ yếu là đường bộ, phương tiện chính là xe ô tô và chưa đáp ứng được nhu
cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa trong vùng.


Du lịch trên địa bàn chưa được đầu tư phát triển, cơ sở hạ tầng cịn q
khó khăn, khâu dịch vụ chưa phát triển.
1.3. Thực trạng về xã hội và an ninh quốc phịng
Cơng tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng cho đồng bào dân tộc
trong vùng từng bước khắc phục tình trạng xuống cấp về cơ sở vật chất, đội ngũ
cán bộ y tế được tăng cường. Các chương trình y tế đều đạt kế hoạch đề ra, góp
phần hạ thấp tỷ lệ các bệnh như sốt rét, bướu cổ...Tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh và
tử vong trong vùng còn cao. Cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ y tế hiện nay chưa
đáp ứng được nhu cầu.
Việc xây dựng đời sống văn hóa, nhất là Phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa” và các chính sách phát triển văn hóa của nhà nước
trong vùng tiếp tục được chú trọng thực hiện.
Sự nghiệp giáo dục - đào tạo được các cấp, các ngành quan tâm, hiện nay
tỷ lệ học sinh tới trường đạt 80% so với độ tuổi đi học. Tuy nhiên, chất lượng

giáo dục trên địa bàn vẫn còn thấp, nhất là trong vùng các xã đặc biệt khó khăn.
Hệ thống trường lớp và trang thiết bị còn thiếu, phòng học tranh tre, phòng tạm
vẫn còn. Hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục.
Công tác ứng dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật được triển khai thực hiện
bằng nhiêu mơ hình. Năng lực cán bộ chuyển giao tuy đã có kiến thức và kinh
nghiệm nhưng còn rất thiếu trang thiết bị, phương tiện. Cơ sở vật chất kỹ thuật
tại các huyện còn thiếu nhiều và quá sơ sài.
Về an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội ở các huyện miền núi ln
được ổn định và giữ vững. Thực hiện có kết quả các chủ trương về xây dựng
khu vực phòng thủ, phong trào toàn dân tham gia bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an
ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội.
1.4. Thực trạng kết cấu hạ tầng
Hệ thống giao thông cịn nhiều khó khăn, ảnh hưởng lớn đến việc lưu
thơng kinh tế giữa các địa phương trong vùng, đặc biệt vào mùa mưa. Các tuyến
đường tỉnh lộ, huyện lộ nhìn chung đã được xây dựng tương đối khá, một số
tuyến khác đang có dự án đầu tư. Nhiều tuyến đường liên xã, thơn xóm cịn q
kém, hệ thống cầu cống và hệ thống thốt nước đã có nhưng cịn nhiều hạn chế.
Về thủy lợi: Trong vùng hiện có 279 cơng trình thủy lợi, tổng diện tích
tưới 4.128 ha. Tuy nhiên, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất của người dân.
Về điện năng: Hệ thống điện chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất và sinh
hoạt. Hiện nay số hộ có điện trong vùng chỉ là 34.140 hộ, chiếm 81% tồn vùng.
Hệ thống cấp nước sinh hoạt: Chương trình NS&VSMTNT cùng với các
nguồn từ các chương trình khác đã đầu tư 162 cơng trình với tổng vốn khoảng
53.978 triệu đồng, cấp nước cho khoảng 9.997 hộ, nâng tổng số hộ được cung
cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh đến năm 2010 chiếm khoảng 76,83% dân số tồn
vùng.
Về bưu chính viễn thơng: Nhìn chung đã đáp ứng được u cầu cơ bản
của dịch vụ bưu chính viễn thơng trong vùng. Tồn vùng có 15.167 máy điện
thoại cố định, bình qn 7,63 máy/100 dân, tổng số thuê bao Internet là 786 thuê
bao.

Về văn hóa thơng tin: Đến nay, trong vùng đã có 6 đài truyền thanh - phát


lại truyền hình, tập trung vào tuyên truyền đường lối chủ trương chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị địa phương. Hệ thống văn
hóa thơng tin mới chỉ đáp ứng được ở khu vực trung tâm huyện và các trung tâm
cụm xã, còn đối với các khu vực vùng sâu, vùng xa chưa được đầu tư nhiều để
đảm bảo yêu cầu thiết yếu.
Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thể dục thể thao chưa phát triển.
Tồn vùng hiện có 17 sân vận động, vận động viên chủ yếu chỉ tập trung từ các
xã, thị trấn khi có phong trào thi đấu.
Hệ thống thốt nước và vệ sinh môi trường chưa được chú trọng đầu tư.
Phương thức sản xuất lạc hậu, cơ sở hạ tầng cịn nhiều khó khăn, ảnh hưởng
khơng ít đến đời sống của nhân dân, là mầm mống gây ra các dịch bệnh.
Tóm lại, cả sáu huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi đều là những huyện
nghèo và có sự phát triển không đồng đều theo vùng lãnh thổ và theo lĩnh vực
sản xuất.
Theo vùng lãnh thổ, có huyện có điều kiện phát triển mạnh như Ba Tơ,
Sơn Hà, Trà Bồng; có huyện kinh tế khó phát triển hơn như: Tây Trà, Sơn Tây,
Minh Long. Có huyện cơ sở hạ tầng khá như: Ba Tơ, Sơn Hà; có huyện cơ sở hạ
tầng yếu kém như Tây Trà, Sơn Tây.
Theo lĩnh vực sản xuất, có huyện có hướng phát triển cơng nghiệp vì
ngun liệu dồi dào như: Ba Tơ, Sơn Hà, Trà Bồng, nhưng cũng có huyện ít có
lợi thế phát triển cơng nghiệp mà chỉ phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề,
như Tây Trà, Sơn Tây.
Thực trạng nêu trên là những chỉ báo rất đáng quan tâm trong quá trình
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong những năm
đến.

Chương 2.

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN MỘT SỐ CHÍNH SÁCH,
CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
TẠI CÁC HUYỆN MIỀN NÚI TỈNH QUẢNG NGÃI
I. CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CÁC XÃ
ĐẶC BIỆT
KHÓ KHĂN MIỀN NÚI VÀ VÙNG SÂU VÙNG XA
(CHƯƠNG TRÌNH 135)

1.1. Chương trình 135 giai đoạn I
a. Nội dung của Chương trình là: Quy hoạch bố trí lại dân cư ở những
nơi cần thiết; Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, gắn với chế biến,
tiêu thụ sản phẩm; Phát triển cơ sở hạ tầng nông thơn phù hợp với quy hoạch sản
xuất và bố trí lại dân cư; Quy hoạch và xây dựng các trung tâm cụm xã; Đào tạo
cán bộ xã, bản, làng, phum, sóc.


- Thời gian thực hiện: Từ năm 1999-2005.
- Phạm vi thực hiện trên địa bàn các xã ĐBKK, cụ thể: Năm 1999:22 xã;
năm 2000: 44 xã; từ năm 2001-2005: 57 xã.
b. Đánh giá kết quả
Những kết quả đạt được:
Chương trình đã góp phần xây dựng được hệ thống CSHT quan trọng, là
lực lượng vật chất to lớn làm thay đổi bộ mặt nông thôn, tạo tiền đề cho phát
triển vùng dân tộc và miền núi. Đưa kỹ thuật canh tác mới với những giống cây
trồng, vật nuôi năng suất cao, chất lượng tốt đã dần thay thế những tập quán sản
xuất lạc hậu; diện tích khai hoang ruộng lúa nước và năng lực tưới tiêu tăng lên
giúp ổn định một phần lương thực. Góp phần cải thiện đời sống của đồng bào
trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế và sức khỏe cộng đồng: Về cơ
bản trên địa bàn khơng cịn hộ đói kinh niên, tốc độ giảm nghèo hàng năm khá,
từ 65% (trước khi có Chương trình) xuống cịn 23,84% (cuối năm 2005), bình

qn giảm 4-5%/năm. Hầu hết các xã đều có trường tiểu học và THCS kiên cố,
thu hút trên 95% số trẻ em tiểu học, trên 75 % trẻ em THCS trong độ tuổi đến
trường; nhiều địa phương đã hoàn thành phổ cập giáo dục THCS; có trạm y tế
đã ngăn chặn cơ bản các dịch bệnh; đời sống văn hoá được nâng cao một bước,
văn hoá truyền thống của các dân tộc được tơn trọng, giữ gìn và phát huy. Các
dự án quy hoạch sắp xếp lại dân cư đã góp phần ổn định đời sống, giúp đồng
bào được tiếp cận các hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ xã hội.
Những tồn tại, hạn chế:
- Về tổ chức thực hiện: Chưa sát thực tế nên dẫn đến nhiều biến động về
số xã thuộc Chương trình: Số xã thuộc diện đầu tư đã tăng dần từ 21 đến 57 xã.
Chưa có chính sách khuyến khích các địa phương thốt khỏi Chương trình.Chỉ
có 14/57 xã hoàn thành mục tiêu, đạt tỷ lệ rất thấp 24,56%. Mặt khác, do khơng
có sự đánh giá khách quan và tâm lý khơng muốn thốt khỏi Chương trình.
Cơng tác quản lý, chỉ đạo các dự án chưa được tập trung. Sự phối hợp giữa Ban
chỉ đạo và các Sở, ngành chưa được chặt chẽ, đồng bộ. Công tác tuyên truyền
phổ biến chưa được quan tâm đúng mức. Nhiệm vụ giám sát thiếu chặt chẽ, kém
hiệu lực. Thực hiện đầu tư còn dàn trãi, chưa đồng bộ. Nội dung thiếu mục tiêu
cụ thể cho từng vùng đầu tư. Dự án quy hoạch bố trí lại dân cư chỉ mới thực
hiện được việc hỗ trợ dãn dân, công tác quy hoạch dân cư chỉ dừng ở bước lập
dự án quy hoạch... Trong xây dựng CSHT, cơ cấu đầu tư còn nặng về các cơng
trình giao thơng (chiếm 42,90%); trong khi vốn đầu tư cho thủy lợi (33,75%),
nước sinh hoạt (7,39%), điện (3,6%), trường học (11,35%) và khai hoang
(0,68%) là chưa hợp lý.


- Về quản lý các nguồn vốn đầu tư: Chương trình do UBND các huyện
trực tiếp quản lý, trong khi trình độ cán bộ cịn nhiều hạn chế. Tuy chưa có vi
phạm lớn nhưng cịn biểu hiện những sai sót và lãng phí. Quy trình chọn và
đánh giá nhà thầu thi công chưa tốt. Ở nhiều địa phương chọn nhà thầu không
đủ năng lực. Công tác nghiệm thu thiếu cán bộ có chun mơn phù hợp; một số

cơng trình chưa đảm bảo chất lượng. Một số địa phương có thực hiện huy động
dân khai thác vật liệu xây dựng tại chỗ, tham gia xây dựng cơng trình nhưng tỷ
lệ rất thấp. Hầu hết, các cơng trình CSHT do nhà thầu làm, sự tham gia của
người dân bản xứ là rất thấp. Một số nơi, việc lựa chọn cơng trình ít được thảo
luận rộng rãi với dân, hoặc chỉ là hình thức, nên đầu tư không hợp lý, kém hiệu
quả.
- Về công tác quản lý vận hành, duy tu bảo dưỡng cơng trình: UBND
tỉnh đã ban hành Quy chế quản lý, duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa, nâng cấp và
khai thác các cơng trình cơ sở hạ tầng tại xã miền núi. Tuy nhiên, nguồn lực chủ
yếu để thực hiện là công lao động của nhân dân địa phương và vốn duy tu, bảo
dưỡng của địa phương rất hạn hẹp, việc thực hiện còn nhiều bất cập.
- Về lồng ghép các chương trình, dự án: Có gặp nhiều khó khăn do mỗi
chương trình, dự án đầu tư đều có mục tiêu, cơ quan chủ trì riêng, cơ chế quản
lý và thời điểm thực hiện khác nhau, cùng với những hạn chế trong công tác quy
hoạch và cơ chế lồng ghép không rõ ràng nên hiệu quả chưa cao, chưa phát huy
được sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực đầu tư.
1.2. Chương trình 135 giai đoạn II (2006 - 2010)
a. Nội dung của chương trình là: Hỗ trợ phát triển sản xuất và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản xuất của đồng bào các dân tộc; Phát
triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cơ sở, nâng cao trình độ quản lý hành chính và kinh tế; đào tạo
nâng cao năng lực cộng đồng; Trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức pháp
luật.
- Thời gian thực hiện: Từ năm 2006 - 2010.
- Phạm vi thực hiện trên địa bàn tỉnh: Gồm 43 xã ĐBKK miền núi và 31
thôn ĐBKK thuộc các xã khu vực II.
b. Đánh giá kết quả thực hiện
Những kết quả đạt được:
Chương trình đã đạt được phần lớn các nội dung; về cơ bản, khơng cịn
tình trạng hộ đói thường xuyên; tỷ lệ hộ nghèo của các xã, thôn ĐBKK đã giảm

từ 71,56% đầu năm 2006 xuống còn 44,24% vào giữa năm 2010 (giảm 27,32%,
bình quân mỗi năm giảm khoảng 5,5%).
- Một số chỉ tiêu đạt kế hoạch: Tỷ lệ xã có cơng trình thủy lợi nhỏ đảm
bảo phục vụ cho sản xuất đạt 93,33% (MT 80%); Tỷ lệ thôn bản có điện ở các
cụm dân cư đạt 88,81% (MT 80%); Tỷ lệ học sinh tiểu học trong độ tuổi được
đến trường là 99,53% (MT 95%); Tỷ lệ học sinh THCS trong độ tuổi được đến
trường là 91,17% (MT 75%); Tỷ lệ hộ có hố xí hợp vệ sinh đạt 52,33% (MT
50%); Tỷ lệ người dân có nhu cầu trợ giúp pháp lý được giúp đỡ pháp luật miễn
phí là 100 % (MT 95%).
- Về phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Sản xuất nông nghiệp


đã có bước phát triển đáng kể nhờ áp dụng giống cây trồng, vật nuôi mới và ứng
dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, năng suất cây trồng, vật nuôi tăng lên.
Đồng bào các dân tộc thiểu số đã từng bước thay thế dần tập quán sản xuất lạc
hậu. Tỷ lệ hộ có mức thu nhập bình qn đầu người trên 3,5 triệu đồng/năm của
vùng tăng từ 26,71% năm 2006 lên 44,59% vào năm 2010.
- Về hoàn thiện cơ sở hạ tầng: Hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu tại các địa
bàn ĐBKK đã được quy hoạch và triển khai thực hiện đầu tư từ nguồn vốn của
CT 135-II, cùng với nguồn lực từ các chương trình, dự án khác đã cơ bản phục
vụ được phần lớn những yêu cầu cấp thiết nhất trong sản xuất và sinh hoạt của
người dân tại các địa bàn này.
- Đời sống văn hố, xã hội đã có bước chuyển biến tích cực. Tỷ lệ học
sinh tiểu học và học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi đến trường đều cao; số
hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, số hộ được sử dụng điện đều tăng
và đạt mục tiêu của Chương trình.
- Về nâng cao năng lực: Trình độ, năng lực quản lý CT 135-II cũng như
các chương trình, chính sách khác của cán bộ cấp xã và thôn được nâng lên một
bước; đội ngũ cán bộ cấp xã, thôn đã được trang bị các kiến thức, kỹ năng về
quản lý điều hành, quản lý đầu tư cũng như trình độ chun mơn nghiệp vụ về

xóa đói giảm nghèo. Vì vậy, trong giai đoạn 2006-2010, số lượng xã được giao
làm chủ đầu tư các dự án, chính sách thuộc CT 135-II tăng lên: năm 2006 có
13,95%, đến năm 2010 có 81,3% xã; hợp phần Hỗ trợ sản xuất đến năm 2008 có
100% xã làm chủ đầu tư. Năng lực của cộng đồng được nâng lên, ngày càng có
nhiều hộ biết áp dụng khoa học kỹ thuật và sử dụng loại giống cây trồng, vật ni
có chất lượng và năng suất cao vào sản xuất để tăng thu nhập, nâng cao đời sống
nhân dân.
Những tồn tại, hạn chế:
- Các mục tiêu, chỉ tiêu chưa đạt được: Mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo: Tỷ
lệ hộ nghèo ở các xã, thôn ĐBKK của tỉnh năm 2010 đã giảm 27,32% so với
năm 2006. Tuy nhiên, vẫn còn ở mức khá cao là 44,24% (MT dưới 30%).
- Về phát triển cơ sở hạ tầng: Tỷ lệ xã có đường giao thơng cho xe cơ giới
từ trung tâm xã đến thôn bản chỉ đạt 76,8% (MT 80%); Tỷ lệ xã có đủ trường
học, lớp học kiên cố chỉ đạt 95,34% (MT 100%); Tỷ lệ xã có Trạm y tế kiên cố,
đúng tiêu chuẩn chỉ đạt 51,16% (MT 100%).
-Về phân cấp cho cấp xã làm chủ đầu tư: Chỉ có 81,3% số xã ĐBKK
được giao làm chủ đầu tư các cơng trình CSHT (MT 100%).
Chỉ có 01xã hồn thành mục tiêu chương trình (xã Ba Dinh, huyện Ba
Tơ). Qua điều tra lấy ý kiến nhân dân về Chương trình, có 45,5% ý kiến cho
rằng“chưa hiệu quả lắm” so với 30,6% ý kiến “hiệu quả tốt”.
- Trong chỉ đạo, điều hành: Việc tổ chức triển khai chương trình cịn
nhiều lúng túng, nhiều văn bản hướng dẫn ban hành chậm. Một số nội dung của
văn bản hướng dẫn phải sửa đổi nhiều lần gây khó khăn cho các địa phương.
- Trong tổ chức thực hiện: Việc phân bổ vốn thực hiện Chương trình cịn
chậm, thường phân thành nhiều đợt đã gây khó khăn cho các địa phương trong
việc lập kế hoạch tổ chức thực hiện cũng như giải ngân vốn. Ngun tắc “xã có
cơng trình, dân có việc làm, tăng thêm thu nhập từ việc tham gia lao động công


trình tại xã” chưa được thực hiện tốt. Vai trị và nhiệm vụ của một số cơ quan

cấp tỉnh, huyện trong quá trình tham mưu và tổ chức chỉ đạo thực hiện Chương
trình có lúc, có việc thiếu đồng bộ, chưa kịp thời. Công tác quản lý, tổ chức triển
khai thực hiện của cán bộ xã nhiều nơi còn lúng túng, gặp nhiều khó khăn.
II. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐẤT SẢN SUẤT, ĐẤT Ở,
NHÀ Ở VÀ NƯỚC SINH HOẠT CHO HỘ ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
THIỂU SỐ NGHÈO, ĐỜI SỐNG KHĨ KHĂN (CHƯƠNG TRÌNH 134)
2.1. Nội dung, thời gian, phạm vi chương trình
- Nội dungchương trình: Giao đất sản xuất nương rẫy, đất ruộng lúa; Giao
đất ở tối thiểu cho hộ đồng bào; Hỗ trợ nhân dân xây dựng nhà ở theo phương
châm: Nhân dân tự làm, nhà nước hỗ trợ và cộng đồng giúp đỡ; Hỗ trợ giải
quyết nước sinh hoạt tập trung, phân tán.
- Thời gian thực hiện: Từ năm 2005 - 2008.
- Phạm vi thực hiện: 67 xã, 329 thôn thuộc 9 huyện (trọng tâm là 6 huyện
miền núi). Số hộ thụ hưởng là: 13.907 hộ, được điều chỉnh lên 29.019 hộ.
2.2. Đánh giá kết quả
Những kết quả đạt được: Chương trình bước đầu đã giải quyết cơ bản
tình trạng khó khăn về đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt: Khai thác được tiềm
năng đất đai, lao động và cải thiện đời sống người dân; đảm bảo một bộ phận
đồng bào có điều kiện phát triển sản xuất, tạo cơ hội phấn đấu, nâng cao ý thức
trách nhiệm và nghĩa vụ để vươn lên thoát nghèo. Quy chế dân chủ được phát
huy: Việc hỗ trợ một số chính sách được cơng khai dân chủ từ khâu lập và phân
bổ kế hoạch, đến khâu giám sát thực hiện; cơng tác xã hội hóa trong việc kiểm
tra, giám sát đã được hình thành và rõ nét hơn trong mỗi người dân. Nhiều địa
phương đã chủ động thực hiện tốt các phương thức quản lý dự án: Nhiều xã
thực hiện tốt trách nhiệm ký kết hợp đồng xây nhà cho dân (trường hợp hộ dân
có nhu cầu) và đã làm tốt vai trò chủ đầu tư xây dựng cơng trình nước sinh hoạt
tập trung. Nhận thức của người dân địa phương về chính sách của nhà nước
được nâng lên. Ý thức tương trợ giúp đỡ trong cộng động cũng được nâng cao.
Giải quyết cơ bản vấn đề nhà ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt: Hỗ trợ cho
15.333 hộ có nhà ở được cứng hố khung nhà, 597 hộ có đủ đất sản xuất và đại

bộ phận cư dân trên vùng được dùng nước sạch, cải thiện chất lượng cuộc sống.
Những tồn tại, hạn chế: Công tác điều tra, khảo sát còn hạn chế: Một số
huyện điều tra thiếu chính xác, dẫn đến chỉ tiêu một số chính sách trong Đề án
khơng sát với thực tế. Ngun nhân là lực lượng và điều kiện để điều tra, khảo
sát ban đầu gặp nhiều khó khăn, Trung ương quy định thời gian điều tra, khảo
sát, lập Đề án là quá ngắn. Một số quy định về chính sách chưa phù hợp thực
tế: Đối tượng thụ hưởng ở các xã thuộc các khu vực I, II, III có điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội và khả năng nguồn lực của từng địa phương khác nhau,
nhưng mức hỗ trợ nhà ở, đất sản xuất theo kiểu bình quân là chưa phù hợp; Mức
hỗ trợ khai hoang, đền bù thu hồi đất 6 triệu đồng/ha là quá thấp. Do đó, địa
phương gặp nhiều lúng túng, chưa tạo được cơ hội cho đồng bào có đủ đất sản
xuất. Về cơng tác tổ chức thực hiện còn hạn chế. Chưa ban hành các quy định về
huy động, lồng ghép các nguồn vốn; hướng dẫn cơ chế lồng ghép các nguồn vốn
và cân đối nguồn vốn lồng ghép trên địa bàn nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp
để thực hiện Chương trình đạt hiệu quả cao. Việc phân công cán bộ cấp huyện,


xã cịn phải kiêm nhiệm nhiều chương trình, nhiệm vụ xố đói giảm nghèo, khối
lượng cơng việc nhiều, nên cơng tác chỉ đạo chưa được tập trung. Công tác khảo
sát thiết kế cơng trình tồn tại nhiều yếu kém. Nhiều cơng trình nước sinh hoạt
khơng phát huy hiệu quả do khảo sát nguồn nước; công suất thiết kế không phù
hợp với nguồn nước và nhu cầu sử dụng. Nhiều công trình bảo quản kém nên
chỉ cần hư hỏng nhỏ ở đầu nguồn là cơng trình khơng sử dụng được. Cơng tác sơ
kết rút kinh nghiệm, phổ biến kinh nghiệm cho cộng đồng, nhân rộng điển hình
chưa kịp thời.
III. DỰ ÁN TRỒNG MỚI 5 TRIỆU HA RỪNG (DỰ ÁN 661)

3.1.Nội dung dự án, thời gian, phạm vi Dự án
- Nội dung: Bảo vệ hiệu quả vốn rừng hiện có; Thực hiện ngay từ giai
đoạn đầu việc giao đất, giao rừng cho các tổ chức, hộ gia đình cá nhân gắn với

định canh, định cư, xóa đói giảm nghèo để bảo vệ, khoanh nuôi rừng kết hợp
trồng bổ sung và trồng mới; Trồng 2 triệu ha rừng phòng hộ rừng đặc dụng và
trồng 3 triệu ha rừng sản xuất.
- Thời gian thực hiện: Từ năm 1998 - 2010.
- Phạm vi thực hiện trên địa bàn tỉnh: Trên địa bàn 10 huyện, với quy
hoạch tiềm năng đất trồng rừng đã phê duyệt đến năm 2010 là 46.000 ha (trong
đó: 6 huyện miền núi là 35.100 ha, chiếm 76,30% diện tích).
3.2. Đánh giá tình hình thực hiện
Những kết quả đạt được: Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ
chế, chính sách thực hiện Dự án: Được thực hiện từ Trung ương, đến địa
phương kịp thời và rõ ràng, giúp các cấp chính quyền làm cơ sở triển khai thực
hiện. Công tác chỉ đạo, điều hành: Việc tổ chức, hoạt động của Ban chỉ đạo,
Ban quản lý Dự án 661 được sự chỉ đạo thống nhất và xuyên suốt từ Chính phủ
đến các cấp chính quyền địa phương. Việc đầu tư NSNN, huy động vốn: Việc
đầu tư NSNN và thu hút được nhiều nguồn vốn khác để thực hiện dự án là nỗ
lực lớn nhằm phủ xanh đất trống đồi trọc, cải thiện mơi trường, xóa đói giảm
nghèo cho người dân tham gia nghề rừng. Việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ
cụ thể của Dự án: Đến nay, tỉnh cơ bản thực hiện bằng và vượt so với kế hoạch
được giao: Trồng mới và chăm sóc rừng phịng hộ: 21.132 ha/19.550 ha, đạt
108%; Quản lý bảo vệ rừng: 554.265/382.100 ha, đạt 145,1%; Khoanh ni tái
sinh rừng: 73.271/82.724 ha, đạt 88,6%. Diện tích thành rừng là 66.529 ha. Hiệu
quả về kinh tế - xã hội, môi trường của Dự án: Từ năm 1998 - 2009, diện tích có
rừng tăng từ 126.602 ha lên 234.799 ha, độ che phủ tăng từ 24,6% lên 41,68%.
Kết quả Quy hoạch lại 3 loại rừng tạo điều kiện quản lý chặt chẽ rừng phòng hộ,
giao cho các BQL rừng phịng hộ và chính quyền địa phương quản lý. Dự án đã
đưa gần 80.000 ha đất trống đồi núi trọc để trồng rừng, giao khốn hàng trăm
nghìn lượt ha bảo vệ và khoanh nuôi rừng, tạo việc làm cho gần 10.000 hộ, hình
thành trong cộng đồng dân cư miền núi biết làm nghề rừng, giữ rừng và xóa bỏ
dần tập quán du canh du cư phát rừng làm nương rẫy. Qua điều tra cho thấy
người dân đánh giá cao việc thực hiện chương trình, với 86,1% ý kiến cho là có

hiệu quả.
Những tồn tại, hạn chế: Cơng tác chỉ đạo triển khai chưa kịp thời: Một
số văn bản quan trọng để chỉ đạo thực hiện dự án chưa kịp thời. Trong đó, văn
bản quan trọng nhất để làm căn cứ xây dựng Dự án 661 là Quyết định 154/2004/


QĐ-UB của UBND tỉnh Về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển lâm
nghiệp giai đoạn 2002-2010, đến năm 2004 mới ban hành. Công tác chỉ đạo giai
đoạn 1998-2004 dựa vào Quyết định 2356/QĐ-UB ngày 27/8/1996 Về việc phê
duyệt dự án tổng quan lâm nông công nghiệp giai đoạn 1993-2000. Vì vậy, việc
rà sốt, sắp xếp lại quỹ đất lâm nghiệp, chuyển mục đích sử dụng diện tích vùng
phịng hộ không xung yếu sang đất sản xuất chưa kịp thời, làm nảy sinh tranh
chấp và xâm hại rừng. Việc quản lý và sử dụng đất lâm nghiệp chưa thật chặt
chẽ: Từ năm 2002 trở về trước, người dân địa phương khơng có nhu cầu sử dụng
đất rừng. Để thực hiện Nghị định 02/CP ngày 15/01/1994, chính quyền một số
xã và Lâm trường đã cho tổ chức, cá nhân mượn hoặc thuê đất để trồng cây
nguyên liệu, nhưng chưa được sự cho phép của cấp có thẩm quyền và chưa được
cấp GCNQSDĐ, trong đó có người khơng thuộc hộ khẩu địa phương và tổ chức
khơng có chức năng trồng rừng. Đến nay, khi người dân địa phương có nhu cầu
đất sản xuất và đòi phải trả lại đất để chia cho dân, thì chưa giải quyết được vì
cây trồng chưa đến kỳ khai thác. Việc thực hiện các giải pháp lâm sinh chưa tạo
điều kiện cho cây trồng chính phát triển. Suất đầu tư cho các cơng trình lâm sinh
cịn thấp, từ khốn quản lý bảo vệ rừng, khoanh ni tái sinh rừng, đến trồng
rừng. Tình trạng xâm hại rừng và tranh chấp đất lâm nghiệp diễn ra khá phức
tạp.Nạn khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép diễn ra nhiều nơi.
IV. ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG NÔNG THÔN – MIỀN
NÚI
Đề án được thực hiện theo chủ trương của tỉnh, Đề án phát triển giao
thông nông thôn - miền núi tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2006-2010.
4.1. Mục tiêu, thời gian, phạm vi Đề án

- Mục tiêu: Thực hiện nhựa hóa, cứng hóa ít nhất 1.500 km tuyến đường
huyện, xã, thơn, khối phố, trong đó:
Đường huyện: 500 km, đạt tiêu chuẩn cấp IV, V. Phấn đấu đến năm 2010
nhựa hóa, cứng hóa bình qn ít nhất 70% tuyến; Đường xã, phường, thị trấn
(đường xã): 750 km, đạt tiêu chuẩn đường GTNT loại A, B. Phấn đấu đến năm
2010 cứng hóa mặt đường BTXM bình qn ít nhất 60% tuyến; Đường thôn,
khối phố (Đường thôn): 250 km, đạt tiệu chuẩn GTNT loại A, B. Từng bước
cứng hóa mặt đường BTXM, gạch hoặc cấp phối các tuyến đường thôn, đường
ra đồng ruộng. Riêng đường nội phố, bê tơng hóa 100% các đường hẻm nội
thành.
- Thời gian thực hiện: Từ năm 2006 - 2010.
- Phạm vi Đề án: 13/14 huyện, thành phố (ngoại trừ huyện Lý Sơn).
4.2. Đánh giá tình hình thực hiện
Những kết quả đạt được: Đề án triển khai phù hợp với chủ trương và yêu
cầu thực tiễn. Công tác chỉ đạo được tập trung thực hiệnChính quyền các cấp đã
tích cực chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Các cơ chế, chính sách được quán triệt sâu
rộng trong quần chúng nhân dân, nhất là chủ trương huy động, quản lý và sử
dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng kết cấu hạ tầng ở
xã, phường, thị trấn.
Những tồn tại, hạn chế: Nguồn vốn bố trí và huy động thấp so với nhu
cầu nên khó hồn thành kế hoạch: Nguồn vốn ngân sách bố trí đầu tư mặt


đường nhựa, đường BTXM còn rất thấp so với kế hoạch. Do đó, đến năm 2009,
tổng số Km trong tồn tỉnh được nhựa hoá, cứng hoá đạt thấp: Đường huyện đạt
41,14%; Đường xã đạt 35,11% so với kế hoạch. Từ năm 2008, tỉnh giao kế
hoạch vốn vay tín dụng ưu đãi cho UBND các huyện và khấu trừ vào vốn
XDCB hàng năm. Theo Đề án, đầu tư đường xã thì vốn Ngân sách tỉnh bố trí
(50% ở xã đồng bằng; 80% ở xã miền núi), còn lại ngân sách cấp huyện, cấp xã
và các nguồn huy động của xã. Tuy nhiên, nguồn lực đầu tư tại cấp huyện gặp

khó khăn về vốn ngân sách của huyện, xã và huy động trong dân.
Đề án tập trung phần lớn dự án thực hiện trên địa bàn các huyện miền
núi (chiếm 20/33 dự án giai đoạn 2009-2010) nhưng chủ yếu thực hiện từ các
nguồn: ngân sách tỉnh, Chương trình 30a, Trái phiếu Chính phủ, Giao thơng
nơng thơn 3, cịn nguồn ngân sách huyện, xã và huy động trong dân với tỷ lệ rất
thấp và hầu như không thực hiện được.
Trên địa bàn miền núi, nhiều tuyến đường đạt chất lượng thấp do địa hình
phức tạp, thiết kế và nguồn lực đầu tư thấp. Các tuyến đường ở khu vực miền
núi những năm qua chủ yếu đầu tư nền đường và cơng trình thốt nước, còn mặt
đường chưa được đầu tư nên thường bị hư hỏng sau mùa mưa lũ.
Qua điều tra xã hội học, phần lớn người dân đều nhận thấy vai trò quan
trọng của mạng lưới giao thông và đánh giá mức độ “hiệu quả tốt” chiếm
39,1%. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến cho thấy hiệu quả các Đề án giao thơng
nơng thơn cịn hạn chế, chiếm 33,9% “chưa hiệu quả lắm” và 20% “khơng hiệu
quả”.
V. ĐỀ ÁN KIÊN CỐ HĨA KÊNH MƯƠNG - THỦY LỢI
Đề án được thực hiện theo chủ trương của tỉnh, Đề án Chương trình Kiên
cố hóa kênh mương thủy lợi giai đoạn 2006-2010.
5.1. Mục tiêu, thời gian, phạm vi Đề án
- Mục tiêu: Kiên cố hóa (KCH) 500 km kênh mương, trong đó: Kênh loại
II: 53 km; Kênh loại III: 247 km. Kiên cố hóa được đầu tư từ chương trình, dự
án lồng ghép khác: 200 km.
- Thời gian thực hiện: Từ năm 2006 - 2010.
- Phạm vi thực hiện: 13/14 huyện, thành phố (ngoại trừ huyện Lý Sơn).
5.2. Đánh giá tình hình thực hiện
Những kết quả đạt được: Đề án góp phần nâng cao năng lực tưới tiêu,
phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp. Đồng bào dân tộc miền núi đã bước
đầu tiếp cận, tận nguồn thủy lợi để thâm canh lúa nước, trồng ngô, nuôi trồng
thủy sản. Đề án được sự quan tâm chỉ đạo điều hành của các cấp, các ngành, các
tổ chức chính trị. Được sự đồng tình, hưởng ứng của nhân dân, người dân nhiều

nơi tỏ ra tích cực trong việc tham gia phần vốn 30-40% đóng góp, nhiều HTX
chủ động vận động thu trước khi có vốn hỗ trợ của tỉnh. Góp phần nâng cao
nhận thức của người dân trong xây dựng, khái thác và bảo vệ cơng trình thủy
lợi. Một số huyện miền núi như Sơn Hà, Minh Long nhờ thực hiện lồng ghép
các nguồn vốn từ các chương trình khác triển khai trên địa bàn, nên đã huy động
được nguồn vốn lớn để thực hiện đạt và vượt mục tiêu Đề án.
Những tồn tại, hạn chế: Phương án cân đối nguồn vốn để thực hiện mục
tiêu chưa khả thi. Việc huy động nguồn vốn đóng góp của nhân dân vùng hưởng



×