Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số điểm hạn chế về di chúc chung của vợ chồng trong BLDS 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.86 KB, 20 trang )

Bài tập lớn học kì Môn Luật Dân sự - Module 1
MSSV: 350543 Lớp N01_nhóm 1
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ……………………………………………………………..2
B. NỘI DUNG …………………………………………………………..........2
I. Quy định về tài sản chung của vợ chồng và lịch sử vấn đề di chúc chung
của vợ chồng………………………………………………………………………2
1. Tài sản chung của vợ chồng…………………………………………2
2. Lịch sử vấn đề di chúc chung của vợ chồng…………………………3
II. Một số điểm hạn chế về di chúc chung của vợ chồng trong BLDS 2005..4
1.Quyền lập di chúc chung của vợ - chồng và nguyên tắc tự nguyện cá nhân
trong việc lập di chúc…………………………………………………………….4
2. Về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng…………… 5
3. Việc thừa kế lẫn nhau giữa vợ - chồng …………………………………11
4. Xâm phạm đến quyền lợi của những người thừa kế bắt buộc…………12
5. Quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung……………...12
6. Vấn đề chấm dứt sự tồn tại của di chúc chung…………………………15
III. Một số kiến nghị……………………………………………………………16
1.1 Cần tách vấn đề di chúc chung của vợ, chồng ra khỏi quy định chung về di
chúc cá nhân và thiết kế thành một mục mới trong BLDS 2005……………….16
1.2 Cần có cách tiếp cận mềm dẻo hơn về vấn đề thời điểm có hiệu lực của di
chúc chung………………………………………………………………………17
1.3 Ngoài việc quy định rõ ràng về các trường hợp cụ thể đặc thù của di chúc
chung, pháp luật cần giải quyết các vấn đề bất cập phát sinh từ việc thừa nhận
các đặc thù đó…………………………………………………………………..18
C. KẾT LUẬN…………………………………………………………………19
1
Bài tập lớn học kì Môn Luật Dân sự - Module 1
MSSV: 350543 Lớp N01_nhóm 1
A.Mở đầu
Nhiều quan điểm và chế định pháp luật ủng hộ cho quyền lập di chúc


chung của vợ, chồng để định đoạt tài sản chung, thay vì mỗi bên chỉ được lập di
chúc cá nhân. Quan điểm ấy không chỉ được bênh vực bởi luân lý mà còn được
thừa nhận cả về mặt pháp lý. Các quy định về di chúc chung của vợ chồng đã
được quy định cụ thể trong BLDS 2005, tuy vậy qua tiếp cận với thực tiễn pháp
lý về di chúc chung của vợ, chồng đã cho thấy, đây là một vấn đề khá phức tạp
mà luật hiện hành chưa qui định đầy đủ, rõ ràng. Còn tồn tại các thiếu sót, bất
cập dễ dàng nhận thấy khiến cho vấn đề trở nên khó giải quyết, tạo nhiều mâu
thuẫn so với các quy định khác có liên quan. Chính vì thế, dưới đây em xin chỉ
ra một số điểm hạn chế, bất cập của các quy định về di chúc chung trong BLDS
2005 và đưa ra một số kiến nghị giải quyết.
B.Nội dung
I. Quy định về tài sản chung của vợ chồng và lịch sử vấn đề
di chúc chung của vợ chồng.
1. Tài sản chung của vợ chồng
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tài sản chung của vợ chồng
thuộc sở hữu chung hợp nhất, bao gồm:
- Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu thập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng
trong thời kì hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung
2
Bài tập lớn học kì Môn Luật Dân sự - Module 1
MSSV: 350543 Lớp N01_nhóm 1
hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa
thuận là tài sản chung.
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có
được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi
vợ chồng có thỏa thuận.
Dựa trên quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng, theo
đó nếu là tài sản chung của vợ chồng thì “ Vợ chồng có quyền và

nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung.” (Khoản 1, điều 28,BLDS 2005) pháp luật cho phép vợ chồng
có quyền lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung.
2. Lịch sử vấn đề di chúc chung giữa vợ và chồng.
Xem xét trong Bộ luật Hồng Đức và Luật Gia Long thì không thấy có qui
định về vấn đề này. Đối chiếu với Luật La Mã cũng như Bộ luật Dân sự Cộng hòa
Pháp thì thấy họ cũng không thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ, chồng.
Tuy vậy, việc lập di chúc chung của vợ - chồng lại được thừa nhận trong tục
lệ của ta từ lâu. Theo Giáo sư Vũ Văn Mẫu, thực tiễn tục lệ của Việt Nam trong
các xã hội trước đây cho thấy, di chúc chung của vợ, chồng là hình thức di chúc
thông dụng và việc vợ - chồng cùng nhau lập di chúc chung, là hiện tượng phổ
biến thời bấy giờ
Quan niệm truyền thống của người Việt Nam vốn rất coi trọng đạo nghĩa vợ
- chồng và luôn muốn củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, nên cũng
khuyến khích việc vợ, chồng cùng nhau lập di chúc chung để định đoạt tài sản
3
Bài tập lớn học kì Môn Luật Dân sự - Module 1
MSSV: 350543 Lớp N01_nhóm 1
chung, và coi đó như là một biểu hiện cao đẹp của sự đoàn kết, yêu thương giữa vợ
- chồng.
Luật thực định thời cận đại cũng đã bắt đầu ủng hộ giải pháp mang tính luân
lý đó. Nghiên cứu các Bộ Dân luật của các chế độ trước, thì thấy các Bộ Dân luật
Bắc và Dân luật Trung đều thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ - chồng. Bộ
Dân luật Sài Gòn 1972 cũng cho phép vợ - chồng cùng lập di chúc chung để định
đoạt tài sản chung.
Pháp luật hiện hành của Nhà nước ta cũng thừa nhận vợ, chồng có quyền
lập di chúc chung. Thông tư 81-TANDTC ngày 24/71981 đã từng nhắc đến di
chúc chung của vợ, chồng. Pháp lệnh Thừa kế 1990( ngày 30/08/1990) có đề
cập đến di chúc chung nhưng không đề cập cụ thể di chúc chung của vợ chồng
tại khoản 1 Điều 28 “….Trong trường hợp di chúc do nhiều người lập chung,

mà có người chết trước, thì chỉ phần di chúc có liên quan đến tài sản của người
chết trước có hiệu lực”. BLDS 1995 và BLDS 2005 quy định vợ chồng có
quyền lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung. Theo đó, điều 663 BLDS
2005 quy định: “ Vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản
chung”.
II. Một số điểm hạn chế về di chúc chung của vợ chồng
trong BLDS 2005.
1. Quyền lập di chúc chung của vợ - chồng và nguyên tắc tự nguyện cá
nhân trong việc lập di chúc.
Điều 646 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 qui định rõ: “Di chúc là sự thể hiện ý
chí của cá nhân nhằm chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi
chết”. Theo đó, di chúc được xem là phương tiện pháp lý để cá nhân định
4
Bài tập lớn học kì Môn Luật Dân sự - Module 1
MSSV: 350543 Lớp N01_nhóm 1
đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Di chúc không thể là giao dịch
dành cho mọi chủ thể hay một cộng đồng chủ thể. Mặt khác, vấn đề thừa kế
di sản là vấn đề pháp lý liên quan tới thân trạng và quyền lợi vật chất của
một cá nhân, được tiến hành sau khi cá nhân chết. Như vậy, Điều 663 qui
định di chúc chung của vợ, chồng đã tạo ra sự mâu thuẫn so với Điều 646
nói trên. Mặt khác, việc thừa nhận di chúc chung của vợ chồng sẽ dẫn đến
các vấn đề pháp lý phức tạp khác rất khó xử lý về mặt kỹ thuật pháp lý. Ví
dụ như xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung, việc sửa đổi, bổ
sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung, chấm dứt di chúc chung.
2. Về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng.
Điều 668 BLDS 2005 quy định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu
lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”.
Giải pháp này đã đơn giản hoá việc thực thi di chúc chung (vì chỉ chia thừa kế
theo di chúc chung một lần), so với giải pháp của BLDS 1995 (Điều 671 BLDS
1995: “Trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết

trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài
sản chung có hiệu lực…”. Theo đó, một di chúc chung phải được thực hiện
nhiều lần, hoặc có thể khởi kiện chia thừa kế nhiều lần).
Mặc dù vậy, việc xác định di chúc chung của vợ chồng phát sinh tại một
thời điểm người sau cùng chết lại phát sinh những vấn đề phức tạp khác sau
đây:
5
Bài tập lớn học kì Môn Luật Dân sự - Module 1
MSSV: 350543 Lớp N01_nhóm 1
* Thứ nhất: việc phải chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ
hay chồng chết trước, sẽ gây khó khăn cho các bên liên quan và cho cả các cơ
quan tiến hành tố tụng.
Thực tế cho thấy, một cá nhân có thể có nhiều sản nghiệp, bao gồm tài
sản riêng của cá nhân và phần tài sản chung với vợ hay chồng, chưa kể có thể
họ còn có nhiều vợ hay nhiều chồng hợp pháp khác. Nếu xác định di chúc
chung chỉ có hiệu lực dựa vào thời điểm “bên sau cùng” chết, thì có thể phải
tiến hành chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ hay người chồng
chết trước. Việc chia thừa kế lần đầu được tiến hành đối với phần di sản là tài
sản riêng của người chết trước hoặc những tài sản chung khác không định đoạt
trong di chúc chung, dựa vào thời điểm mở thừa kế của người đó. Các lần chia
thừa kế sau được áp dụng đối với phần di sản định đoạt trong di chúc chung của
vợ, chồng, khi di chúc chung có hiệu lực (vào thời điểm bên sau cùng chết).
Quyền và nghĩa vụ của người thừa kế đối với di sản do người chết để lại phát
sinh từ thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết trước mà vừa có di sản định
đoạt bằng di chúc chung, vừa có tài sản riêng không lập di chúc hoặc có những
tài sản chung không được đưa vào di chúc chung, hoặc một phần tài sản liên
quan đến phần di chúc chung bị vô hiệu… thì có thể dẫn đến hậu quả là khối di
sản của người đó được chia thừa kế làm nhiều lần.
Điều này dẫn đến hệ quả là người thừa kế của người vợ hay chồng chết

trước sẽ phải kiện xin chia thừa kế nhiều lần, toà án sẽ phải ít nhất hai lần thụ lý
và giải quyết hai vụ tranh chấp khác nhau trên cùng một khối tài sản của người
chết trước. Từ đó không chỉ gây khó khăn cho người thừa kế của người chết
trước, làm phức tạp thêm tính chất của vụ việc, mà còn gây khó khăn cho các
6
Bài tập lớn học kì Môn Luật Dân sự - Module 1
MSSV: 350543 Lớp N01_nhóm 1
cơ quan chức năng trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế (trong việc xác định
di sản của người chết, xác định người thừa kế của người chết trước và việc thực
hiện nghĩa vụ trả nợ, nếu người chết có để lại món nợ đối với người thứ ba…),
thậm chí có thể dẫn đến vi phạm nguyên tắc không thụ lý, xét xử nhiều lần cho
cùng một vụ việc (nhất sự bất tái cứu) theo quy định của pháp luật tố tụng dân
sự (Điểm c, khoản 1, Điều 168 và Điều 193 Bộ luật Tố tụng dân sự 2003.).
* Thứ hai: quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung như luật
hiện hành sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của
những người thừa kế của người vợ hay chồng chết trước.
Quyền thừa kế đối với di sản của người chết trước phát sinh từ thời điểm
mở thừa kế, nhưng cho đến khi di chúc chung chưa phát sinh hiệu lực, những
người thừa kế của người chết trước sẽ không thể yêu cầu phân chia di sản của
người chết đã được định đoạt trong di chúc chung và phần di sản liên quan tới
phần nội dung di chúc chung bị vô hiệu, nếu có; hoặc trong trường hợp người
vợ hay người chồng vẫn còn sống lâu hơn so với tuổi thọ của những người thừa
kế hợp pháp của người chết trước (như cha, mẹ của người chết trước, người
thừa kế là con riêng chưa thành niên đang đau yếu cần có tiền để chữa bệnh…),
làm những người này mất quyền được hưởng di sản. Ví dụ: ông A, bà B lập di
chúc chung để lại di sản cho các con chung của ông A, bà B và cha, mẹ của ông
A. Sau đó, ông A chết. Vấn đề phức tạp phát sinh là cha mẹ của ông A cần
khoản tiền để chữa bệnh, nên muốn được chia thừa kế di sản của ông A. Nhưng
do bà B vẫn còn sống, di chúc chung của A và B chưa có hiệu lực, nên cha mẹ
của ông A không thể xin chia di sản của ông A theo di chúc chung nói trên. Vì

thế, quyền được hưởng thừa kế của cha mẹ ông A không được bảo đảm.
7
Bài tập lớn học kì Môn Luật Dân sự - Module 1
MSSV: 350543 Lớp N01_nhóm 1
Đó là chưa kể các trường hợp di chúc chung có thể bị vô hiệu toàn bộ hay
một phần, nhưng mãi đến hàng chục năm sau mới phát hiện, thì trong nhiều
trường hợp, quyền khởi kiện đòi chia thừa kế của những người thừa kế hợp
pháp của người vợ hay chồng chết trước đã bị bỏ lỡ mà không còn cơ hội để
khắc phục được, nếu người thừa kế đó đã chết. Điều này đã xâm phạm tới
quyền thừa kế hợp pháp – một quyền hiến định cơ bản của công dân, được Hiến
pháp và pháp luật bảo hộ (Quyền thừa kế là một quyền hiến định: xem Điều 58
Hiến pháp 1992 “… Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế
của công dân”; BLDS cụ thể hóa thành quyền dân sự cơ bản của chủ thể: xem
các Điều 15 khoản 2).
* Thứ ba: gây khó khăn cho việc xác định phạm vi những người thừa kế
và tư cách của người được thừa hưởng di sản.
Nếu những người thừa kế (của vợ, chồng đã chết hoặc những người được
chỉ định trong di chúc chung) chết sau thời điểm mở thừa kế, nhưng chết trước
khi di chúc chung có hiệu lực, thì họ có còn được hưởng thừa kế nữa không, có
chia thừa kế thế vị hay thừa kế chuyển tiếp không; hoặc những người trong diện
thừa kế hợp pháp (của người vợ hoặc chồng còn sống), nhưng tư cách thừa kế
của họ được xác định trước khi di chúc chung có hiệu lực (như vợ, chồng tái
hôn hoặc con riêng với người vợ, chồng sau…), thì họ có được thừa kế bắt buộc
đối với phần di sản đã được định đoạt trong di chúc chung hay không. Ngoài ra,
việc xác định tư cách người thừa kế cũng gặp khó khăn ngay cả đối với người
được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc chung, nếu họ chết sau người vợ hoặc
chồng quá cố, nhưng lại chết trước khi di chúc chung có hiệu lực… Đây là
những vấn đề phức tạp, nhưng quy định hiện hành không thể giải quyết được.
Bởi vậy, nếu quy định thời điểm có hiệu lực của di chúc như hiện nay thì cần
8

×