Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Nghiên cứu đặc tính nông sinh hoc của một số giống hoa lily nhập nội và ảnh hưởng của phân bón lá đến giống hoa lily concador tại tỉnh lai châu vụ đông xuân năm 2013 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.21 MB, 129 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM


NGÔ VĂN KỲ




NGHIÊN CỨU ĐẶC TÍNH NÔNG SINH HỌC CỦA MỘT SỐ
GIỐNG HOA LILY NHẬP NỘI VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN
BÓN LÁ ĐẾN GIỐNG HOA LILY CONCAD’OR TẠI TỈNH
LAI CHÂU VỤ ĐÔNG XUÂN NĂM 2013 - 2014





LUẬN VĂN THẠC SĨ







HÀ NỘI, 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM



NGÔ VĂN KỲ



NGHIÊN CỨU ĐẶC TÍNH NÔNG SINH HỌC CỦA MỘT SỐ
GIỐNG HOA LILY NHẬP NỘI VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN
BÓN LÁ ĐẾN GIỐNG HOA LILY CONCAD’OR TẠI TỈNH
LAI CHÂU VỤ ĐÔNG XUÂN NĂM 2013 - 2014




CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC CÂY TRỒNG
MÃ SỐ : 60.62.01.10



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM THỊ HƯƠNG



HÀ NỘI, 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã
được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày …. tháng….năm 2014
Tác giả luận văn






Ngô Văn Kỳ









Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu, tôi luôn
nhận được sự quan tâm của, cơ quan, nhà trường, sự giúp đỡ tận tình của các
thầy cô, các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình.

Nhân dịp hoàn thành luận văn tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
PGS.TS. Phạm Thị Hương đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi thực hiện đề tài
và hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các cán bộ Trung tâm Nghiên cứu và Phát
triển Hoa, Cây cảnh – Viện Nghiên cứu Rau quả, các thầy cô giáo trong Bộ
môn Rau, Hoa, Quả - Khoa Nông học – Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã
tạo điều kiện hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
để hoàn thành luận văn này
Tôi xin trân trọng cảm ơn toàn thể gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện và
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Hà Nội, ngày …. tháng….năm 2014
Tác giả luận văn






Ngô Văn Kỳ











Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC


Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục từ viết tắt vi
Danh mục bảng vii
Danh mục hình viii
1 MỞ ĐẦU 1
1.1 Đặt vấn đề 1
1.2 Mục đích, yêu cầu 2
1.3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 3
2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1 Giới thiệu chung về cây hoa 4
2.2.1 Nguồn gốc, phân bố lily 4
2.1.2 Phân loại 5
2.1.3 Đặc điểm sinh vật học 7
2.1.4 Yêu cầu ngoại cảnh 7
2.2 Tình hình sản xuất và nghiên cứu hoa lily trên thế giới và ở Việt Nam 8
2.2.1 Tình hình sản xuất và nghiên cứu hoa lily trên thế giới 8
2.2.2 Tình hình sản xuất và nghiên cứu hoa lily ở Việt Nam 20
2.3 Giới thiệu về Lai Châu nơi triển khai đề tài 23
2.3.1 Điều kiện tự nhiên 23
2.3.2 Điều kiện kinh tế - xã hội 24
2.3.3 Thực trạng sản xuất hoa lily tại Lai Châu 25
3 VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

3.1 Đối tượng, vật liệu nghiên cứu 26
3.2 Địa điểm và thời gian nghiên cứu 28
3.3 Nội dung nghiên cứu 28
3.4 Phương pháp nghiên cứu 28
3.4.1 Bố trí thí nghiệm 28
3.4.2 Phương pháp theo dõi thí nghiệm 30
3.5 Các chỉ tiêu theo dõi 31
3.6 Tiêu chuẩn phân loại cành hoa 34
3.7 Phương pháp xử lý số liệu 34
4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 35
4.1 Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của một số giống hoa
lily nhập nội từ Hà Lan tại Lai Châu, năm 2013 35
4.1.1 Tỷ lệ sống và thời gian qua các giai đoạn sinh trưởng của các
giống thí nghiệm 35
4.1.2 Đánh giá khả năng sinh trưởng thân lá của các giống thí nghiệm
qua các thời kỳ sinh trưởng. 37
4.1.3 Kích thước thân lá của các giống thí nghiệm 42
4.1.4 Một số đặc điểm hình thái của các giống tham gia thí nghiệm 44
4.1.6 Đánh giá đặc điểm hoa và chất lượng hoa thương phẩm của các
giống 47
4.1.7 Tỷ lệ nhiễm một số bệnh sinh lý trên các giống nghiên cứu 51
4.1.8 Tỷ lệ nhiễm một số loại bệnh hại lily chủ yếu trên các giống
nghiên cứu 53
4.2 Ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh trưởng phát triển, chất
lượng giống hoa lily ConcaD’or 57
4.2.1 Ảnh hưởng của phân bón lá đến tăng trưởng chiều cao cây qua
các thời kỳ của giống hoa lily ConcaD’or 59

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

4.2.2 Ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh trưởng phát triển thân lá
giống hoa lily ConcaD’or 61
4.2.3 Ảnh hưởng của phân bón lá đến tỷ lệ nhiễm một số loại bệnh hại
chủ yếu trên giống hoa lily ConcaD’or. 63
4.2.4 Ảnh hưởng của phân bón lá đến chất lượng hoa giống hoa lily
ConcaD’or 64
4.2.5 Hiệu quả kinh tế trong sản xuất hoa lily giống ConcaD’or khi sử
dụng các loại phân bón lá 67
5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 70
5.1 Kết luận 70
5.2 Đề nghị 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
PHỤ LỤC 75






Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CT Công thức
ĐK Đường kính
TB Trung bình

SST Số thứ tự






Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang

2.1 Nhiệt độ tối thích của một số giống lily qua các thời kỳ sinh trưởng 16

2.2 Yêu cầu về ánh sáng của một số nhóm giống hoa lily 17

2.3 Các yếu tố dinh dưỡng cần thiết cho hoa lily 19

3.1 Các giống hoa lily khảo sát, đánh giá 26

4.1 Tỷ lệ sống và thời gian mọc mầm của các giống 35

4.2 Sinh trưởng thân lá của các giống thí nghiệm qua các thời kỳ 38

4.3 Kích thước thân lá của các giống tham gia thí nghiệm 42

4.4 Một số đặc điểm hình thái của các giống tham gia thí nghiệm 45


4.5 Kích thước và chất lượng hoa của các giồng thí nghiệm 48

4.6 Tỷ lệ nhiễm một số bệnh sinh lý trên các giống nghiên cứu 52

4.7 Tỷ lệ nhiễm một số loại bệnh hại chủ yếu 54

4.8 Hiệu quả kinh tế của các giồng tham gia thí nghiệm 56

4.9 Ảnh hưởng của phân bón lá đến sự tăng trưởng chiều cao cây
giống hoa lily ConcaD’or qua các thời kỳ 59

4.10 Ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh trưởng phát triển thân lá của
giống hoa lily ConcaD’or 61

4.11 Ảnh hưởng của phân bón lá đến tỷ lệ nhiễm một số loại bệnh hại
chủ yếu 63

4.12 Ảnh hưởng của phân bón lá đến chất lượng hoa giống
ConcaD’or 65

4.13 Hiệu quả đầu tư sản xuất hoa lily giống ConcaD’or sử dụng các
loại phân bón lá 68


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC HÌNH

STT Tên hình Trang


3.1 Các giống thí nghiệm 27
3.2 Đặc điểm thời gian ra nụ và ra hoa của các giống thí nghiệm 36
3.3 Động thái tăng trưởng chiều cao cây của các giống nghiên cứu 39
3.4 Động thái ra lá của các giống thí nghiệm qua các thời kỳ 39
3.5 Số nụ hoa/cây của các giống thí nghiệm 48
3.6 Kích thước nụ và hoa của các giống thí nghiệm 49
3.7 Động thái tăng trưởng chiều cao cây ở các công thức phân bón lá 59
3.8 Chất lượng hoa lily giống ConcaD’or ở các công thức phân bón lá 65



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

1. MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Hiện nay hoa lily đã trở thành một loại hoa chủ đạo trong cơ cấu giống
hoa của Việt Nam được nhiều vùng, nhiều địa phương trên khắp cả nước ưu
tiên đầu tư sản xuất và đang là một loại hoa chủ lực vào vụ đông xuân của
Miền Bắc. Trước đây cây hoa lily chủ yếu được nhập về và trồng ở những
vùng có khí hậu mát mẻ như Đà Lạt, Mộc Châu, Sa Pa…., với số lượng củ
giống cũng như diện tích trồng ban đầu rất ít chủ yếu mang tính thử nghiệm,
tuy nhiên đây lại là một giống hoa đẹp có giá trị thương phẩm cao nên nó
nhanh chóng được các cơ quan nghiên cứu, các nhà trồng hoa quan tâm sản
xuất. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ những năm 2001-2003 số lượng củ
giống hoa lily nhập về trồng chỉ khoảng vài nghìn đến vài vạn củ, nhưng từ
năm 2004 lượng củ giống nhập về trồng ở miền Bắc nước ta tăng lên nhanh
chóng, đến năm 2010 đã có khoảng 17 triệu củ giống hoa lily các loại được

nhập về trồng ở nước ta, sang đến năm 2011 con số củ giống nhập về đã tăng
hơn gấp đôi (khoảng 37 triệu củ).
Tuy nhiên, hiện tại bộ giống hoa lily thích hợp để trồng tại miền Bắc
nước ta nói chung và tỉnh Lai Châu nói riêng vẫn còn hạn chế (chủ yếu vẫn là
giống hoa lily Sorbonne, giống đã được Bộ Nông nghiệp & PTNT công nhận
chính thức năm 2009, số lượng củ giống Sorbonne chiếm đến 75% tổng số củ
giống hoa lily hiện nay), trong khi nhu cầu của thị trường luôn đòi hỏi cần
những giống hoa lily mới, đẹp, màu sắc hấp dẫn và đa dạng. Ngoài ra, tại một
số vùng sản xuất hoa lily với số lượng lớn như Tây Tựu, Bắc Ninh, Hải
Phòng, Sơn La, người trồng hoa đã tự nhập giống từ nước ngoài về để bổ
sung vào bộ giống cũ, song việc nhập giống tự phát gây ra nhiều bất cập như:
giá thành củ giống cao, nhiều giống nhập về tỏ ra không thích ứng với điều
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

kiện môi trường nên dẫn đến tình trạng bị động về cung cấp giống, gây thiệt
hại cho người sản xuất.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, nhu
cầu tiêu dùng các loại hoa nói chung và hoa lily nói riêng của tỉnh Lai Châu
tăng lên nhanh chóng. Người dân Lai Châu không chỉ chơi hoa lily trong
những ngày lễ, tết mà còn dùng hoa lily vào những ngày thường, hàng ngày
những người kinh doanh hoa ở Lai Châu phải xuống tận Hà Nội và 1 số tỉnh
khác mua hoa lily về để bán, trong khi ở Lai Châu hoàn toàn có thể sản xuất
được hoa lily. Vì những lý do nêu trên trong những năm qua, một số tổ chức,
cá nhân ở Lai Châu đã tự đầu tư vốn để sản xuất hoa lily. Tuy nhiên, chủng loại
hoa lily sản xuất ở đây còn hạn chế, chủ yếu vẫn là giống Sorbonne chiếm đến
90%. Ngoài ra, những nghiên cứu về hoa lily ở đây chưa có nhiều, các quy
trình chăm sóc còn hạn chế, chưa áp dụng được nhiều các tiến bộ kỹ thuật
trong sản xuất hoa lily, chưa thu thập tuyển chọn được bộ giống mới để thay
thế các giống cũ dẫn đến sản lượng hoa ở đây vẫn còn thấp, chất lượng hoa

chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường.
Xuất phát từ vấn đề nêu trên, chúng tôi đã tiến hành đề tài: “Nghiên
cứu đặc tính nông sinh học của một số giống hoa Lily nhập nội và ảnh
hưởng của phân bón lá đến giống hoa Lily Conca D’on tại tỉnh Lai Châu
vụ đông xuân 2013 - 2014”.
1.2.Mục đích, yêu cầu
1.2.1.Mục đích
Khảo sát đánh giá, tìm ra được các giống hoa lily nhập nội thích hợp
trồng trong vụ đông xuân tại Lai Châu và loại phân bón lá phù hợp cho giống
hoa lily nhập nội ConcaD’or.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

1.2.2.Yêu cầu
- Đánh giá khả năng sinh trưởng phát triển và chất lượng các giống
hoa lily nhập nội trong điều kiện vụ đông xuân tại huyện Tam Đường, tỉnh
Lai Châu.
- Xác định được loại phân bón lá phù hợp cho giống hoa lily ConcaD’or nhập
nội trồng ở huyện Tam Đường – tỉnh Lai Châu.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu trên là những dữ liệu cơ bản về đặc điểm nông
sinh học và khả năng sinh trưởng phát triển, chất lượng các giống hoa lily
nhập nội. Đồng thời cung cấp những dữ liệu khoa học về ảnh hưởng của phân
bón lá đến giống hoa lily ConcaD’or tại Lai Châu.
- Ngoài ra kết quả nghiên cứu trên có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong học tập, giảng dạy về hoa lily.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài làm cơ sở cho việc đề xuất lựa chọn các
giống hoa lily ưu tú, làm đa dạng tập đoàn các giống hoa lily trồng trong điều

kiện vụ đông ở miền Bắc nước ta nói chung và tỉnh Lai Châu nói riêng, đồng
thời đề xuất loại phân bón lá phù hợp góp phần xây dựng quy trình trồng hoa
lily ConcaD’or tại Lai Châu.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Giới thiệu chung về cây hoa
2.2.1. Nguồn gốc, phân bố lily
Cây hoa lily phân bố ở rất nhiều nơi trên thế giới và đã được thần hóa
từ rất lâu để trở thành một cây hoa trang trí và thương mại.
Theo Anderson (1986), Daniels (1986), Haw (1986), Shimizu (1973),
hoa lily đã được nghiên cứu và thuần hoá gần 100 năm nay từ các loài hoang
dại phân bố ở hầu hết các châu lục từ 10
0
- 60
0
vĩ bắc, châu á có 50- 60 loài,
Bắc Mỹ có 24 loài và Châu Âu có 12 loài.
John M. Dole [30] cho rằng lily phân bố chủ yếu ở vùng ôn đới và hàn
đới bắc bán cầu, một số ít ở vùng núi cao nhiệt đới từ 1200 m như Trung
Quốc, ấn Độ, Indonesia. Trung Quốc là nước có nhiều chủng loại lily nhất và
cũng là trung tâm nguồn gốc lily trên thế giới.
Ở châu á, Trung Quốc được coi là nước có rất nhiều loài lily và là một
trong những trung tâm khởi nguyên của lily, ở đây chủng loại rất phong phú
và có rất nhiều loài đặc hữu. Trung Quốc có khoảng 47 giống và 18 biến
chủng chiếm khoảng 1/2 giống trên thế giới trong đó có 36 giống và 15 biến
chủng đặc hữu. Nhật Bản có 15 giống trong đó có 9 giống đặc hữu. Hàn Quốc
có 11 giống trong đó có 3 giống đặc hữu. Các nước châu á khác như Mông

Cổ, ấn Độ, Mianma và châu Âu có 22 giống. Bắc Mỹ có 24 giống.
Cây hoa lily được trồng sớm nhất tại Trung Quốc. Theo sử sách ghi
chép sớm nhất “bản thảo cương mục”, lily có tác dụng nhuận phế, giải nhiệt
chứng tỏ lily sớm được dùng làm thuốc. Thời Nam Bắc Triều (429 – 589) túc
sát Tăng Hoàng đế nhà Lương đã làm thơ về hoa lily chứng tỏ 1400 năm
trước đây hoa lily đã được đưa vào thường ngoạn ở Trung Quốc.
Đến cuối thế kỷ 16 nhà thực vật học người Anh dùng phương pháp
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

phân loại để phân biệt đa số hoa lily có xuất xứ từ Châu Âu. Đầu thế kỷ 17
hoa lily Mỹ bắt đầu nhập vào Châu Âu. Cuối thế kỷ 18 hoa lily Trung Quốc
tiếp tục vào Châu Âu. Cuối thế kỷ 19 do sự lây lan của virus làm cho hoa
lily lâm vào tình trạng tuyệt diệt. Cuối thế kỷ 19 hoa lily vua của Trung
Quốc (L. regale) truyền vào châu Âu được dùng làm bố mẹ để lai tạo và tạo
ra rất nhiều giống mới hoa lily lại thượng vượng trở lại. Sau đại chiến thế
giới thứ 2 các nước Âu Mỹ lại dẫy lên 1 cao trào tạo giống mới các giống và
biến chủng của Trung Quốc trở thành nguồn bố mẹ quan trọng và tạo ra rất
nhiều giống ưu việt.
Trước thế kỷ 19 ở châu Âu hoa lily được sử dụng chủ yếu là loài
nguyên sản. Đến thế kỷ 19 đã xuất hiện nhiều giống lai và đến thế kỷ 20 nhờ
kỹ thuật lai tạo và nhân giống hiện đại đã có hàng nghìn giống lily lai ra đời.
2.1.2. Phân loại
Trong hệ thống phân loại thực vật, cây hoa lily được xếp vào nhóm 1 lá
mầm (Monocotylendoness), phân lớp hành (Liliidae), bộ hành (Liliales), họ
hành (Liliaceae), chi Lilium. Gần đây, các giống hoa lily lai đã được nhập nội
và trồng thử ở Việt Nam (Võ Văn Chi,1978).
Dẫn theo Lim Ki-Byung (2000), chi Lilium có khoảng 85 loài và được
phân thành 7 nhóm: Lilium (Liriotypus), Martagon, Pseudolirium,
Archelirion, Sinomartagon, Leucolirion and Oxypetalum (Comber, 1949; De

Jong, 1974). Hầu hết các loài dại trong mỗi nhóm đều tương đối dễ lai và các
con lai hữu dục (McRae, 1990; Van Tuyl & cs, 2002). Trong đó căn cứ vào
các đặc điểm hình thái, kích thước, màu sắc và kiểu dáng hoa, người ta thấy
có 3 nhóm lily có giá trị kinh tế quan trọng nhất là Archelirion, Sinomartagon,
Leucolirion. Các con lai thuộc các nhóm này, đặc biệt là Asiatic (giống lai
Châu Á), Oriental-hybrids (giống lai Phương Đông) và Longiflorum-hybrids
(giống lai Loa kèn, còn được gọi là Trumpet lilies hoặc Easter lilies) (Beattie
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

và White, 1993) là những giống lai có giá trị kinh tế quan trọng đối với ngành
sản xuất hoa cắt.
1, Giống lai Asiatic (A-genom): có nguồn gốc từ các phép lai khác loài
giữa ít nhất là 12 loài của nhóm Sinomartagon (Leslie, 1982-2005). Khoảng
4000 giống đã được chọn lọc từ những con lai này. Các giống lai Asiatic có
phổ màu rộng (vàng cam, vàng, trắng, hồng, đỏ, màu tía và màu hồng da
cam), ra hoa từ sớm cho đến muộn (Woodcook và Stern, 1950). Một đặc điểm
quan trọng là các loài của nhóm này có khả năng kháng Fusarium và vi rút
(McRae, 1998).
2, Giống lai Oriental (O-genom): là nhóm lily quan trọng nhất hiện nay.
Chúng có nguồn gốc từ việc lai giữa 5 loài của nhóm Archelirion. Trong chọn
tạo giống lily, chúng được sử dụng vào sớm những năm của thập niên 1950.
Khoảng 2.000 giống đã đuợc công nhận từ năm 1990. Nhìn chung, giống lai
Oriental ra hoa muộn, có hoa màu hồng, trắng, hoặc màu vàng với hương
thơm nồng nàn (McRae, 1988). Hầu hết các giống lai Oriental có khả năng
kháng Botrytis elliptica (Barba-Gonzalez & cs, 2005).
3, Giống lai Longiflorum (L-genom): có nguồn gốc từ việc lai cùng loài
hoặc lai khác loài của L.longiflorum Thunb. và L.formosanum Wallace của
nhóm Leucorilion. Khoảng 150 giống đã được chọn lọc từ những con lai
này. Giống Longiflorum có hoa hình loa kèn, màu trắng tinh khiết, hương

thơm đặc trưng và có khả năng ra hoa quanh năm (McRae, 1990).





OT -
hybrids
Oriental -
hybrids
Longiflorum -
hybrids
Asiatic -
hybrids
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

Tuy nhiên, phân loại của chi Lilium hiện nay có thể vẫn được mở rộng
thêm bởi việc lai tạo giữa các giống của 3 nhóm lily quan trọng và cũng bởi
việc khai thác thêm các tính trạng từ các loài khác thuộc chi Lilium.
2.1.3. Đặc điểm sinh vật học
Lily là cây thảo lâu năm gồm thân địa sinh gọi là thân vảy (do lá biến
đổi thành) và thân khí sinh là phần mang lá hoa và quả.
Thân vảy còn gọi là củ: củ lily được coi là mầm dinh dưỡng lớn của
cây. Một củ già gồm: đế củ, vảy già, vảy mới ra, trục thân sơ cấp, thứ cấp và
đỉnh sinh trưởng. Vì vậy, chất lượng phát dục của nó chịu ảnh hưởng ngoại
cảnh, điều kiện trồng và chăm sóc.
Thân khí sinh: trục thân củ hoa lily là do mầm dinh dưỡng co ngắn lại,
vươn lên mặt đất, lá trên bắt đầu mở ra. Khi cây ra nụ thì số lá được cố định,
chiều cao cây quyết định bởi số lá và chiều dài đốt, số lá chịu ảnh hưởng của

chất lượng củ giống, điều kiện và thời gian xử lý lạnh củ giống.
Rễ: là hệ rễ chùm gồm 2 phần: rễ thân và rễ gốc. Rễ thân còn gọi là rễ
trên, do phần thân mọc dưới mặt đất sinh ra, có nhiệm vụ nâng đỡ thân, hút
nước và dinh dưỡng. Rễ gốc sinh ra từ gốc thân vảy, có nhiều nhánh, sinh
trưởng khoẻ, chủ yếu hút nước và dinh dưỡng.
Lá: Lily có nhiều lá mọc, mọc cách, phần dưới lá ôm lấy thân, hình
thon dài, phiến lá thẳng, đầu lá hơi nhọn.
Hoa: hoa lily có nhiều màu sắc khác nhau, mùi thơm dễ chịu, hoa mọc
đơn lẻ hoặc cụm gồm nhiều hoa thường có 1- 6 hoa. Hoa lily có 6 nhị, bao
phấn vàng dài, một nhụy chia làm 3 thuỳ, bầu hoa hình trụ.
Quả: quả lily là loại quả nang, hình tròn dài, mỗi quả có vài trăm hạt,
quả có 3 ngăn, hạt dẹt tròn (Đặng Văn Đông, 2004).
2.1.4. Yêu cầu ngoại cảnh
Nhiệt độ: cây lily là cây ưa khí hậu mát mẻ. Nhiệt độ thích hợp ban
ngày từ 20-28
0
C, ban đêm 13-17
0
C, dưới 5
0
C và trên 30
0
C cây sinh trưởng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

kém, hoa dễ bị mù. Giai đoạn đầu nhiệt độ thấp có lợi cho sinh trưởng của rễ
và sự phân hoá hoa.
Ánh sáng: cây hoa lily là cây ưa cường độ ánh sáng trung bình, khoảng
70-80% ánh sáng tự nhiên là tốt nhất, đặc biệt với cây con. Cường độ ánh

sáng thích hợp từ 12000-15000 lux nhất là thời kỳ cây cao 20-30cm.
Nước: nếu bị thiếu nước hoặc nước quá nhiều đều ảnh hưởng đến sinh
trưởng, phát dục của hoa lily. Thời kỳ đầu cây hoa lily rất cần nước, khi cây
ra hoa lượng nước giảm bớt. Nhiều nước dễ làm cho củ bị thối, rụng nụ. Cây
hoa lily ưa không khí ẩm, thích hợp nhất là 70-85% và cần ổn định. Nếu độ
ẩm biến động lớn dễ dẫn đến hiện tượng thối củ hoặc cháy lá.
Không khí: cây hoa lily là cây khá mẫn cảm với ethylen, cây ưa không
khí thoáng mát có đầy đủ oxy để hô hấp tốt.
Đất: cây hoa lily thích hợp với nhiều loại đất khác nhau, nhưng tốt nhất
là đất cát pha dễ thấm nước, giàu mùn. Hoa lily là cây rất mẫn cảm với muối,
nồng độ muối trong đất cao, cây không hút được nước ảnh hưởng tới sinh
trưởng, ra hoa. Nói chung hàm lượng muối trong đất không được cao quá
1,5mg/cm
2
, lượng hợp chất Clo không được vượt 1,5mmol/lít.
Phân bón: hoa lily cần dinh dưỡng cao nhất là 3 tuần đầu sau khi trồng.
Thời gian này cây con dễ bị độc do muối. Muối trong đất do 3 nguồn: phân
bón, nước tưới và tồn dư sẵn có trong đất. Vì vậy để tránh bị ngộ độc muối,
trước khi trồng 6 tuần cần phải phân tích đất (Đặng Văn Đông, 2004).
2.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu hoa lily trên thế giới và ở Việt Nam
2.2.1. Tình hình sản xuất và nghiên cứu hoa lily trên thế giới
2.2.1.1. Tình hình sản xuất hoa lily trên thế giới
Theo Hoàng Ngọc Thuận, sản xuất hoa cắt và trồng chậu đang nhanh
chóng lan rộng trên toàn thế giới, theo thống kê mới đây có 145 quốc gia
trồng hoa trên toàn thế giới. Diện tích hoa cắt cành và giá trị sản lượng trên
thế giới đang tăng nhanh, dựa trên 17 nước sản xuất hoa quan trọng nhất với
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

diện tích ước lượng hiện nay vào khoảng 60.000 ha.

Sản xuất củ giống lily trên thế giới tập trung ở 10 nước, trong đó Hà
Lan có diện tích sản xuất lớn nhất với 4.280 ha (77%), theo sau là Pháp
(401ha; 0,8%); Chile (205ha; 0,4%); Mỹ (200ha; 0,4%); Nhật Bản (189ha;
0,3%) và New Zealand (110ha; 0,2%) (Đặng Văn Đông, 2010).
Ở Hà Lan, thương mại củ giống hoa bắt đầu có từ thế kỷ XVI và tiếp tục
phát triển cho đến ngày nay. Hà Lan là nước sản xuất củ giống hoa lily quan
trọng nhất trên thế giới. Diện tích sản xuất củ lily đã tăng một cách nhanh chóng
từ 3500ha năm 1995 lên 4500ha năm 2000 (Đặng Văn Đông, 2010).
Ngày nay, củ giống lily được sản xuất ở nhiều nước khác ngoài Hà
Lan. Sản xuất củ lily ở các nước như: Pháp, Nhật, Mỹ, Chile, Australia và
New Zealand cũng có những đóng góp đáng kể (Đặng Văn Đông, 2010).
Thương mại quốc tế hoa cắt tập trung ở các thị trường EU, Nhật Bản và
Mỹ với giá trị bán lẻ tương ứng lần lượt là 955; 6.500 và 3.800 triệu euro. Hà
Lan, Kenya, Israel, Columbia và Ecuador là những nước xuất khẩu hoa cắt
lớn. Đức cũng là nước nhập khẩu hoa cắt lớn nhất thế giới. Các nước sản xuất
mới như: Guatemala, Chile, Uganda, Tanzania, Ấn Độ và Việt Nam cũng
đang là những thị trường mới nổi lên (Đặng Văn Đông, 2010).
Ở Hà Lan, lily xếp vị trí thứ 4 trong số 10 cây hoa cắt quan trọng, chỉ
xếp sau hoa hồng, cúc và tulip. Doanh thu bán lẻ của hoa lily năm 2005 chiếm
7% (164 triệu euro) trong tổng số doanh thu bán lẻ của các loại hoa. Doanh
thu này tăng 3,7% so với năm 2004 (Đặng Văn Đông, 2010).
Ở Italia, lily là một trong những cây hoa cắt có giá trị kinh tế quan
trọng nhất, chiếm diện tích khoảng 280-300ha, với tổng giá trị sản xuất là 71
triệu đô la/năm. Lượng củ giống, ước chừng khoảng 152 triệu/năm, sử dụng
cho sản xuất hoa cắt chủ yếu nhập khẩu từ Hà Lan.
Do nhu cầu tiêu dùng hoa lily trên thế giới ngày càng tăng nên hoa lily
ngày càng trở nên phổ biến hơn. Để đáp ứng nhu cầu này, nhiều nước khác
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10


như: Chile, Kenya, Brazil, Costa Rica… cũng đã mở rộng diện tích trồng hoa
lily với những thuận lợi như có điều kiện chiếu sáng phù hợp, chi phí sản xuất
và nhân công rẻ hơn so với Hà Lan (Đặng Văn Đông, 2010).
Về mặt tiêu thụ củ giống: Nhật Bản là nước mua nhiều nhất với lượng
củ mua mỗi năm khoảng 690 triệu củ tiếp sau đó là Italia, Mỹ, Đức, Trung
Quốc, Hàn Quốc
Ở Nhật hoa lily chỉ đứng sau hoa hồng và hoa phăng với diện tích trồng
hoa lily khoảng 450 km
2
, đứng thứ tư. Có những vùng hoa lily đang lấn át các
hoa khác. Những năm gần đây hoa lily phát triển mạnh, giá cả ổn định và có
phần hạ. Các dòng hoa lily phương đông, giống Casa blanca, các giống của
Châu Âu đang chiếm ưu thế, các giống Châu á vàng, cam, phấn hồng cũng có
ưu thế.
Ở Hàn Quốc, lily là cây hoa cắt có vị trí quan trọng thứ 4. Diện tích sản
xuất đã tăng lên 223 ha năm 1992 so với 32 ha năm 1985. Khoảng 15% củ
giống sử dụng cho sản xuất hoa cắt và các giống mới được nhập khẩu từ Hà
Lan. Năm 1992, 8 triệu củ (1,6 triệu đô la) được nhập khẩu cho sản xuất hoa
cắt trong khi đó xuất khẩu hoa cắt lần đầu là 580.000 cành hoa (1 triệu đô la)
tới Nhật Bản năm 1993 (Kim, 1996).
Kenia là nước sản xuất hoa chủ yếu của Châu Phi và cũng là nước xuất
khẩu hoa tươi sang Châu Âu lớn nhất chủ yếu là các loại: hoa phăng 317 km2;
hoa ly 112 km2; hoa hồng 80 km2. Mỗi năm xuất hoa sang Châu Âu trị giá là
6 tỷ 500 triệu USD.
Những năm 1980 Mỹ bắt đầu trồng hoa lily chậu và họ cho ra được rất
nhiều giống trồng trong chậu. Năm 1997 giá trị hoa lily chậu đạt 3.499 triệu USD
chiếm 5% tổng giá trị hoa chậu cả nước. Ngoài ra vùng Barvede Heredia ở
Petorica do có nhiều đất bazan màu mỡ và nhiệt độ trung bình từ 14-23
o
C là điều

kiện tốt nhất cho hoa lily, cũng là nơi cung cấp 1 lượng lớn hoa lily cho nước Mỹ.
Trung Quốc là nước trồng lily lâu đời song trước đây chủ yếu là trồng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

lily làm thuốc và làm thực phẩm. Hoa lily Lan châu rất nổi tiếng; ở Cam Túc
có diện tích trồng lớn, sau đó là lily dại được trồng nhiều ở Hồ Bắc, Hồ Nam.
Lily làm cảnh có các dòng lily thơm, lily Hồ Bắc, sơn đan, lily làm thuốc…
chủ yếu trồng trong vườn gia đình. Hiện nay, sản xuất hoa lily cắt cành đang
được phát triển mạnh tuy nhiên trình độ và kỹ thuật sản xuất còn lạc hậu hơn
Hà Lan, Nhật Bản và nhiều nước tiên tiến khác.
Vân Nam được mệnh danh là vương quốc hoa của Trung Quốc hiện
nay về diện tích và sản lượng cành cắt đứng đầu cả nước. Đây cũng là nơi có
rất nhiều hoa lily hoang dại. Vì có ưu thế đặc biệt về thiên nhiên nên nhiều
nhà đầu tư trong và ngoài nước đã đầu tư vào đây để trồng hoa. Hiện nay diện
tích hoa ly cắt cành ở đây là 9000 mẫu (450 ha), sản lượng là 2201 triệu cành.
Diện tích trồng củ giống là 1800 mẫu (120 ha), sản lượng 2 tỷ 600 triệu củ.
Hoa lily ở đây đã được xuất khẩu sang Nhật và Đông Nam á.
Công nghệ sản xuất hoa lily cắt cành ở Đài Loan cũng rất tiên tiến.
Năm 2001 nước này đã có 490 ha trồng hoa lily, trong đó xuất khẩu hoa lily
cắt cành đạt 7,4 triệu USD.
2.2.1.2. Tình hình nghiên cứu phát triển hoa lily trên thế giới
Để đáp ứng lại nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao, hiện nay trên thế giới
việc nghiên cứu phát triển hoa lily đang diễn ra rất nhanh và mạnh mẽ, đứng
đầu trong công tác nghiên cứu lai tạo giống và nghiên cứu các kỹ thuật trồng
trọt là Hà Lan, các nước khác như là Pháp, Chi Lê, Niu Di Lân… cũng là
nhưng nơi trồng và sản xuất giống lily rất lớn và hiện đại. Các nước Châu Á
như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc với điều kiện sinh thái thích hợp cho
hoa lily sinh trưởng chính vì vậy việc nghiên cứu phát triển hoa lily ở các nước
này cũng phát triển rất nhanh.

Theo Zaboplant ( công ty chuyên sản xuất các giống hoa trồng củ ở Hà
Lan), để trồng thành công hoa lily cần lưu ý đến rất nhiều vấn đề như điều kiện
sinh thái, đất trồng, nước tưới, dinh dưỡng, sâu bệnh hại…
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

Về đất trồng, hoa lily có thể được trồng trên hầu hết các loại đất. Quan
trọng những người trồng phải đảm bảo là sử dụng những loại đất có kết cấu
tốt cho việc trồng hoa đặc biệt là tầng đất mặt, và nó cũng phải thoát nước tốt
trong suốt quá trình sinh trưởng của cây. Đất có kết cấu nặng nhiều mùn và
đất sét không thích hợp để trồng lily. Bên cạnh nước và dinh dưỡng, khí oxy ở
trong đất cũng cần cho sự sống của cây để hệ thống rễ phát triển khoẻ mạnh
và cây sinh trưởng phát triển khỏe. Để cải tạo tầng đất mặt, tạo cho đất có kết
cấu nhẹ và tơi xốp có thể dùng các vật liệu sẵn có như thân rơm rạ, trấu, cây
thông nhỏ, phân trộn bùn để trộn vào đất.
Bên cạnh việc đảm bảo kết cấu, khi trồng lily cần phải quan tâm đến
pH đất. Để duy trì một lượng pH chính xác cho đất đóng một vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của rễ hoa lily và đối với sự hấp thu dinh dưỡng.
Nếu như pH của đất trồng quá thấp rễ sẽ hút dư thừa các nguyên tố như Mn,
Al và Fe, và nếu như pH quá cao sẽ gây ra sự hút không đủ các chất như P,
Mn và Fe và các loại dinh dưỡng khác. Tốt nhất nên duy trì pH từ 6-7 cho
giống lai Asiatic, nhóm Longiflorum và L/A, đối với giống lai Oriental thì pH
từ 5.5 - 6.5.
Để giảm pH nên sử dụng các sản phẩm than bùn đối với tầng đất mặt.
Khi sử dụng phân, tốt nhất nên sử dụng phân chuồng hoai mục (nước giải),
điều này sẽ làm giảm pH.
Để tăng pH nên sử dụng hỗn hợp vôi bột hoặc vôi trộn với đất trước khi
trồng. Trong trường hợp mà pH rất thấp thì sau khi bón vôi tốt nhất là để ít
nhất 1 tuần trước khi trồng. Trong suốt quá trình sinh trưởng của cây cũng
nên sử dụng phân bón, như là phân nitrat-N, nó cũng tăng độ pH.

Hoa lily thuộc vào nhóm cây mẫn cảm với muối vì thế nồng độ muối
trong đất cao nó hạn chế quá trình hút nước qua rễ, do đó nó làm ảnh hưởng
đến độ dài sinh trưởng các bộ phận của cây.
Nồng độ muối của đất ảnh hưởng bởi 3 nhân tố sau:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

- Nồng độ muối trong phân bón.
- Nồng độ muối của nước tưới.
- Nồng độ dinh dưỡng của vụ trước.
Phải lấy 1 mẫu đất trước khi trồng ít nhất là 6 tuần, để có thông tin về
pH của đất, tổng lượng muối và nồng độ Clo, số lượng dinh dưỡng có trong
đất. Tổng lượng muối không quá 1ms. nồng độ Clo không quá 50mg/l.Nếu
nồng độ muối hoặc Clo cao hơn, thì đất nên ngập nước với một lượng nước
phù hợp. Chúng ta phải chắc chắn một điều đất phải được làm ngập hoàn toàn
trước khi trồng, điều này làm ngăn ngừa (tránh) được sự hư hại tới cấu trúc
của đất.
Khi sử dụng các loại phân mới đảm bảo nồng độ muối không được quá
cao và không được sử dụng lớn số lượng phân nhân tạo cùng một lúc.
Về nước tưới, theo Zaboplant nồng độ muối (EC) của nước tưới bao
gồm tổng nồng độ muối của đất và vì thế nên phải thấp: 0.5ms/cm hoặc thấp
hơn. Với một lượng EC xấp xỉ 0.1, lượng nước mưa tương ứng với nồng độ
EC trên (0.1). Nồng độ muối của các loại nước sông, hồ (nước trên bề mặt)
khi là nguồn sử dụng chung hoặc trong suốt những tháng mùa hè có thể tăng
lên nhiều. Nồng độ Clo cho phép của nước tưới không được vượt quá 50mg.
Như vậy việc kiểm tra thường xuyên nồng độ muối và Clo trong nước
tưới là việc rất quan trọng. Nếu hàm lượng các chất này quá nhiều trong nước
tưới và trong đất trồng thì nên giữ cho đất luôn ẩm để ngăn ngừa sự tập trung
nồng độ quá cao của muối.
Ở Hà Lan công nghệ sản xuất hoa lily rất hiện đại chính vì thế hệ thống

tưới nước được nghiên cứu rất hoàn chỉnh đảm bảo cung cấp nước chính xác
đầy đủ theo nhu cầu của cây. Thiết bị quan trọng nhất là hệ thống tưới phân
phối nước. Sự cần thiết phải tiến hành những kiểm tra dều đặn để đảm bảo
cho sự cân bằng phân phối nước, đối với tất cả cây trồng. Sự thiếu nước hoặc
thừa nước dẫn đến sự không cân bằng và làm chậm quá trình sing trưởng và
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

phát triển của cây. Và thậm chí làm ảnh hưởng đến sự ra nụ của cây.
Hệ thống tưới trên cao này là thích đáng nó cung cấp sự phân phối
nước cân bằng và cả khả năng làm sạch cây hoa. Hơn nữa, trong những điều
kiện độ ẩm tương đối thấp hệ thống này làm cho cây trồng mát mẻ.
Vào giai đoạn tiếp theo của cây hoa, khi cây sinh trưởng nhiều, thì hệ
thống tưới với mức độ thấp hoặc hệ thống tưới trên cao này là những ống tưới
nhỏ giọt có thể được sử dụng để ngăn ngừa sự phát triển quá mức, những cây
quá cao, nặng thì nó bị đổ, đặc biệt là vào mùa đông.
Hơn nữa cây trồng sẽ tiếp tục khô hơn. Điều này sẽ giảm hư hại do
Botrytis gây ra. Điều này đặc biệt quan trọng khi những cây hoa mà bị ảnh
hưởng bởi “Botrytis” và những cây trồng sinh trưởng trong những vùng có độ
ẩm tương đối cao hoặc vào một thời gian chính xác trong năm khi độ ẩm
tương đối cao.
Một hệ thống tưới trên cao cần một số các trang thiết bị kỹ thuật sau:
Chiều cao của hệ thống nên là giữa 1.60 đến 2.15m.
Khoảng cách giữa các ống tưới nên là 2.20 – 3.20cm.
Khoảng cách giữa vòi phun dải ở dọc một ống tưới ít nhất là 1m.
Mỗi vòi phun dải nên cung cấp xấp xỉ 4l nước/1’.
áp lực phun dải nên là 1.5 – 2bar (kg/cm
2
).
Khả năng thấm nước là 1 – 400microns. Chắc chắn là không tốt khi

làm ngập nước trong đất đối với thời gian cây hoa sing trưởng, điều này ảnh
hưởng xấu đến cấu trúc của cây hoa.
Về nhiệt độ, đối với hoa lily một bộ rễ khoẻ là một trong những điều
quan trọng nhất để đạt được một sản phẩm chất lượng cao. Nhiệt độ thích hợp
nhất của hoa lily trong thời gian đầu sẽ dao động trong khoảng 12-13
0
C cho 1/3
chu kỳ sinh trưởng của cây hoặc ít nhất là cho đến khi các bộ phận rễ đã trưởng
thành. Nếu nhiệt độ thấp hơn trong thời gian đầu thì nó sẽ kéo dài thời gian
sinh trưởng không cần thiết và nếu như nhiệt độ cao hơn 15
0
C thì sẽ làm cho
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

chất lượng sản phẩm kém hơn.
Sự mát mẻ của đất là điều rất cần thiết trong những tháng thời tiết nóng
hơn. Sự mát mẻ này sẽ giảm dần rất đều đặn sau khi 1/3 chu kỳ sinh trưởng
thì kết thúc.
Trong suốt thời kỳ nhiệt độ cao, thì nhiệt độ đất có thể được giữ ở một
mức thấp đầy đủ bởi vì sự mát mẻ của đất. Sự mát mẻ của đất có thể được sử
dụng từ lúc trồng cho đến khi hình thành các bộ phận rễ. Hệ thống làm mát
này bao gồm 4 ống dẫn dẻo cho mỗi ống dẫn nó được đặt ở một chiều sâu xấp
xỉ 45cm. Nhiệt độ đất được điều chỉnh và duy trì một nhiệt độ thích hợp bằng
sự sử dụng nước đã được làm mát hoặc nước. Điều này đem lại kết quả tốt
hơn và sự sinh trưởng đồng đều hơn, cây trồng phát triển dài hơn và cứng cáp
hơn với nhiều nụ hơn.
Đối với cây lai Asiatic, để đạt được chất lượng tốt nhất, hàng ngày
phải duy trì nhiệt độ 14-15
0

C cho thời gian còn lại của chu kỳ sinh trưởng.
Trong suốt một ngày, mặt trời chiếu sáng làm cho nhiệt độ tăng lên đến
20
0
C, có thể đến 25
0
C, và ban đêm nhiệt độ có thể hạ xuống trong khoảng
8-10
0
C ( thì phải đảm bảo môi trường không quá ẩm). Để các bộ phận phát
triển dài hơn và ngăn ngừa được sự rụng nụ thì nên hạ thấp nhiệt độ hơn từ
14
0
C/15
0
C giảm từ 1-1,5
0
C, nếu cây trồng phát triển quá ngắn hoặc sản
phẩm mà thiếu ánh sáng.
Đối với cây lai Oriental, sau thời kỳ ra rễ, thì nhiệt độ tối thích hàng
ngày trong nhà kính là từ 15-17
0
C , chú ý rằng chỉ nên tăng nhiệt độ trong
khoảng được chấp nhận là từ 20-22
0
C, có khả năng đến 25
0
C. Nếu nhiệt độ
dưới 15
0

C sẽ gây rụng nụ và làm cho lá vàng.
Cây lai Longiflorum, nhiệt độ thấp nhất trong nhà kính đối với hoa lily
sau thời kỳ ra rễ là từ 14-16
0
C. Mặt trời có thể làm tăng nhiệt độ đối với hoa
lily từ 20-22
0
Cchấp nhận được.
Dưới điều kiện ánh sáng, thì nhiệt độ trong nhà kính có thể giảm 1-

×