Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Nghiên cứu mức xơ trung tính (NDF) thích hợp trong khẩu phần vỗ béo cho bò f1 (droughtmaster x laisind) giai đoạn 18 21 tháng tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 84 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM






NGUYỄN THỊ THƠM




NGHIÊN CỨU MỨC XƠ TRUNG TÍNH (NDF) THÍCH HỢP TRONG
KHẨU PHẦN VỖ BÉO CHO BÒ F1 (DROUGHTMASTER X LAI SIND)
GIAI ĐOẠN 18-21 THÁNG TUỔI






LUẬN VĂN THẠC SĨ





HÀ NỘI - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM






NGUYỄN THỊ THƠM



NGHIÊN CỨU MỨC XƠ TRUNG TÍNH (NDF) THÍCH HỢP TRONG
KHẨU PHẦN VỖ BÉO CHO BÒ F1 (DROUGHTMASTER X LAI SIND)
GIAI ĐOẠN 18-21 THÁNG TUỔI




Chuyên ngành : CHĂN NUÔI
Mã số : 60.62.01.05


Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ THANH VÂN
PGS.TS. BÙI QUANG TUẤN



HÀ NỘI - 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều được thể
hiện rõ địa chỉ, nguồn gốc.
Tôi xin cảm ơn các tác giả đã cho phép sử dụng tài liệu cho mục đích tham khảo, so
sánh với nghiên cứu này.

Hà Nội, ngày tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Thơm







Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page ii

LỜI CẢM ƠN

Khi hoàn thành luận văn, cho phép tôi được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất
đến TS. Đỗ Thị Thanh Vân; PGS.TS Bùi Quang Tuấn, những người hướng dẫn
khoa học đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành
luận văn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Nông nghiệp Hà
Nội cùng các thầy cô trong khoa Chăn nuôi và Nuôi trồng thủy sản đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi trân thành cảm ơn: Lãnh đạo Viện chăn nuôi-Bộ Nông nghiệp & PTNT
cùng tập thể Bộ môn Dinh dưỡng, thức ăn chăn nuôi và đồng cỏ - Viên chăn nuôi đã
giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi nhất về kinh phí, thời gian, nhân lực trong quá
trình thực hiện các thí nghiệm tại hiện trường, trong phòng thí nghiệm và hoàn
thành luận văn này.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn ở bên tôi,
động viên kịp thời để tôi học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
Hà Nội, ngày tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Thơm

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG v
DANH MỤC HÌNH vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT vii
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 3
3. Ý nghĩa của đề tài 3

3.1. Ý nghĩa khoa học 3
3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Đặc điểm sinh lý tiêu hoá của bò 4
1.1.1. Tiêu hóa ở dạ cỏ: 4
1.1.2. Tiêu hoá ở ruột non 8
1.1.3. Tiêu hoá ruột già 10
1.2. Khẩu phần ăn cho bò 11
1.2.1. Yêu cầu khẩu phần ăn của bò 11
1.2.2. Cơ cấu khẩu phần và bổ sung dinh dưỡng cho bò 11
1.2.3. Phương pháp xây dựng khẩu phần 15
1.2.4. Thu nhận thức ăn của bò 17
1.2.5. Năng suất và chất lượng thịt bò 22
1.2.6. Một số yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng thịt bò 27
1.3. Nghiên cứu về nuôi vỗ béo bò thịt tại Việt Nam 32
1.3.1. Nghiên cứu về khẩu phần nuôi vỗ béo bò 32
1.3.2. Sử dụng phụ phẩm nông nghiệp nuôi vỗ béo bò 33
1.3.3. Nghiên cứu độ tuổi, thời gian và giống bò nuôi vỗ béo 34
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page iv

Chương 2 VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 37
2.1. Địa điểm, thời gian và vật liệu nghiên cứu 37
2.1.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 37
2.1.2. Gia súc và thức ăn thí nghiệm 37
2.2. Nội dung nghiên cứu 37
2.3. Phương pháp nghiên cứu 38
2.3.1. Thiết kế và quản lý thí nghiệm 38
2.3.2. Phương pháp xử lý số liệu 41
Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 43
3.1. Xác định thành phần hóa học, giá trị năng lượng trao đổi của một số

nguyên liệu thức ăn và xây dựng công thức thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh
vỗ béo bò 43
3.1.1. Xác định thành phần hóa học, giá trị năng lượng trao đổi của một số
nguyên liệu thức ăn thí nghiệm 43
3.1.2. Xây dựng công thức thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh vỗ béo bò 45
3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của các mức NDF khác nhau trong thức ăn hỗn
hợp hoàn chỉnh đến năng suất và chất lượng thịt của bò thí nghiệm 46
3.2.1. Lượng thức ăn thu nhận hàng ngày 46
3.2.2. Tăng khối lượng và tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng của bò thí
nghiệm 51
3.2.3. Năng suất thịt của bò thí nghiệm 55
3.2.4. Chất lượng thịt của bò thí nghiệm 56
3.2.5. Sơ bộ hạch toán hiệu quả vỗ béo bò 59
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 62
1. Kết luận 62
2. Đề nghị 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
PHỤ LỤC Error! Bookmark not defined.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page v

DANH MỤC BẢNG


STT Tên bảng Trang

Bảng 2.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm vỗ béo bò 38

Bảng 2.2. Nhu cầu dinh dưỡng hàng ngày của bò thí nghiệm 39

Bảng 2.3. Chỉ tiêu và thời điểm đánh giá chất lượng thịt bò 41


Bảng 3.1. Thành phần hóa học và giá trị năng lượng trao đổi của các loại
thức ăn dùng trong thí nghiệm. (n = 3) 43

Bảng 3.2a. Thành phần, tỷ lệ từng loại nguyên liệu thức ăn và giá trị dinh
dưỡng của thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh vỗ béo bò 45

Bảng 3.2b. Công thức phối trộn thức ăn cho các nhóm bò thí nghiệm (4
bò/ngày) 46

Bảng 3.3. Lượng thức ăn thu nhận hàng ngày của bò thí nghiệm (n=4) 47

Bảng 3.4. Tăng khối lượng và tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng của bò
thí nghiệm (n=4) 51

Bảng 3.5. Kết quả mổ khảo sát bò thí nghiệm (n=4) 56

Bảng 3.6. Kết quả đánh giá chất lượng thịt bò vỗ béo (n=4) 57

Bảng 3.7. Giá thức ăn thí nghiệm 59

Bảng 3.8. Sơ bộ hạch toán hiệu quả vỗ béo bò 60



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page vi

DANH MỤC HÌNH

STT Tên hình Trang



Hình 3.1. Tổng vật chất khô thu nhận của bò thí nghiệm 50
Hình 3.2. Tổng protein thu nhận của bò thí nghiệm 50
Hình 3.3. Tổng năng lượng trao đổi thu nhận của bò thí nghiệm 51
Hình 3.4. Tăng khối lượng của bò thí nghiệm 53
Hình 3.5. Tiêu tốn VCK/kg tăng khối lượng của bò thí nghiệm 54
Hình 3.6. Tiêu tốn protein/kg tăng khối lượng của bò thí nghiệm 54
Hình 3.7. Tiêu tốn ME/kg tăng khối lượng của bò thí nghiệm 55
Hình 3.8. Chênh lệch giữa thu và chi trong vỗ béo bò cho 1 tháng 61




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page vii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ABBH Axit béo bay hơi
ADF Xơ trong dung môi Axit
Bra Brahman
BBB Blanc Blue Belge
Char Charolais
CP Protein thô
Cs Cộng sự
KL Khối lượng
KTS Khoáng tổng số
ME Năng lượng trao đổi
NDF Xơ trung tính
NLTĐ Năng lượng trao đổi

VCK Vật chất khô
TĂ Thức ăn
TTTĂ Tiêu tốn thức ăn
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TMR Hỗn hợp thức ăn hoàn chỉnh
P Mức ý nghĩa thống kê
SEM Sai số chung của số trung bình

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 1

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Việt Nam là nước nông nghiệp, dân số sống chủ yếu ở nông thôn. Nguồn thu
nhập chính của nông dân là sản phẩm của chăn nuôi và trồng trọt. Chăn nuôi trâu bò
đã và đang góp phần quan trọng làm tăng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, đồng
thời nâng cao nguồn thu nhập cho người chăn nuôi. Cùng với sự phát triển kinh tế-
xã hội, đời sống của nhân dân ngày một nâng cao, nhu cầu của người dân về thịt,
sữa tăng là cơ hội thúc đẩy ngành chăn nuôi trâu bò phát triển. Việc nâng cao năng
suất, chất lượng đàn bò thịt nhằm không ngừng thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng thịt bò
chất lượng cao trong nước và xuất khẩu là một vấn đề đang được Đảng và Chính
phủ quan tâm. Năm 2010, tổng đàn bò cả nước ước khoảng 6,4 triệu con, trong đó
tỷ lệ bò lai và lai chuyên thịt chiếm tương đối thấp, khoảng 38-40% tùy theo vùng
(Cục Chăn nuôi, 2010). Quyết tâm của Chính phủ trong việc phát triển đàn bò thịt
nước ta cả về số lượng và chất lượng được thể hiện trong quyết định số
10/2008/QĐ-TTg, ngày 16 tháng 01 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó
đến năm 2020, đàn bò thịt cả nước đạt khoảng 12,5 triệu con, trong đó tỷ lệ bò lai
và lai chuyên thịt đạt trên 50%, sản lượng thịt bò ước đạt 200.000 tấn, chiếm tỷ lệ
4% trong tổng sản lượng thịt xẻ các loại.
Hiện thực hóa mục tiêu trên nước ta đã tiến hành nhập một số giống bò

chuyên thịt như bò BB, Droughtmaster, Brahman, Limosine, Red Angus , đã tiến
hành một số chương trình nhằm phát triển đàn bò thịt, đặc biệt là các chương trình
lai giống bao gồm chương trình cải tạo tầm vóc bò địa phương (chương trình Sind
hoá) và chương trình lai kinh tế bò thịt. Trong chương trình Sind hoá, bò Lai Sind
tạo ra có năng suất thịt tinh cao gấp 2 lần so với bò Vàng trong khi vẫn sinh sản tốt
và dễ nuôi; hiện nay bò Lai Sind chiếm khoảng 30% tổng đàn bò của cả nước, một
số tỉnh như Hà Nội, Vĩnh Phúc tỷ lệ bò Lai Sind đã chiếm trên 70%. Trong chương
trình nghiên cứu lai kinh tế bò thịt, tinh của một số giống bò chuyên thịt trên thế
giới đã được sử dụng để phối với cái nền Lai Sind tạo con lai F1 chuyên thịt, kết
quả bước đầu cho thấy tất cả các con lai F1 đều dễ nuôi, ít bệnh tật trong điều kiện
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 2

nóng ẩm và thức ăn nghèo dinh dưỡng; khối lượng, khả năng tăng khối lượng và
khả năng cho thịt con lai F1 đều cao hơn so với bò Lai Sind.
Bên cạnh công tác cải tiến giống bò, nhiều nghiên cứu về dinh dưỡng đã
được triển khai nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn phụ phẩm nông, công
nghiệp trong nuôi dưỡng và vỗ béo bò thịt (Trương La và cộng sự, 2009; Phạm Thế
Huệ, 2010; Văn Tiến Dũng, 2012 ). Tuy nhiên, các thí nghiệm về dinh dưỡng này
chủ yếu được tiến hành trên bò Lai Sind, khẩu phần vỗ béo chỉ tập trung vào nghiên
cứu sử dụng hiệu quả nguồn phụ phẩm tại chỗ mà chưa chú trọng đến việc nghiên
cứu xây dựng khẩu phần vỗ béo bò thích hợp dựa trên nền nhiều loại thức ăn sẵn có,
giá rẻ tại địa phương; các thí nghiệm về vỗ béo bò lai F1 chuyên thịt với khẩu phần
cao thức ăn tinh còn rất ít; đặc biệt các nghiên cứu về xác định mức NDF thích hợp
trong khẩu phần vỗ béo cho từng đối tượng nhóm giống có sức sản xuất thịt khác
nhau chưa được thực hiện tại Việt Nam nên hiệu quả chăn nuôi bò lai F1 chuyên
thịt chưa cao, chưa khuyến khích được người chăn nuôi đầu tư, phát triển nhóm giống
bò này.
Tiềm năng di truyền của các nhóm bò chuyên thịt, lai chuyên thịt trên rất
khác nhau dẫn đến nhu cầu dinh dưỡng của chúng cũng khác nhau nhiều. Mặt khác
điều kiện thời tiết khí hậu của nước ta có nét đặc thù riêng, đặc trưng bởi khí hậu

nóng và ẩm. Cho đến nay khi xây dựng khẩu phần ăn cho các nhóm bò trên chúng ta
thường sử dụng tiêu chuẩn ăn của các nước có nền chăn nuôi phát triển, có tham khảo
thêm tiêu chuẩn ăn của các nước có điều kiện khí hậu tương tự. Sự vay mượn tiêu
chuẩn ăn và tham khảo này cũng không thống nhất giữa các vùng miền (Bắc, Trung,
Nam), giữa các cơ sở nghiên cứu và đào tạo (các viện nghiên cứu, các trường đại học
nông nghiệp). Hiện tại chúng ta chưa có tiêu chuẩn ăn cho nhiều loài gia súc, gia cầm
riêng của Việt Nam và nhóm bò chuyên thịt cũng nằm trong số đó. Cung cấp các chất
dinh dưỡng thừa so với nhu cầu của vật nuôi không những gây lãng phí thức ăn, giá
thành sản phẩm chăn nuôi cao mà còn gây ô nhiễm môi trường. Nhưng cung cấp các
chất dinh dưỡng thấp hơn so với nhu cầu của vật nuôi sẽ dẫn đến không khai thác hết
tiềm năng di truyền của vật nuôi, năng suất chăn nuôi thấp, hiệu quả chăn nuôi cũng
không cao. Việc nghiên cứu ảnh hưởng của mức NDF trong khẩu phần của bò vỗ béo
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 3

sẽ giúp cho người chăn nuôi có biện pháp sử dụng thức ăn thô tốt hơn trong khẩu
phần bò vỗ béo. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên
cứu mức xơ trung tính (NDF) thích hợp trong khẩu phần vỗ béo cho bò F1
(Droughtmaster x Lai Sind) giai đoạn 18-21 tháng tuổi”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đưa ra được mức NDF thích hợp trong khẩu phần vỗ béo cho bò F1
(Droughtmaster x Lai Sind) giai đoạn 18-21 tháng tuổi để đạt năng suất, chất lượng
thịt cao, nâng cao hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Số liệu thu được của đề tài là tài liệu tham khảo cho việc xây dựng quy trình vỗ
béo bò F1 (Droughtmaster x Lai Sind) giai đoạn 18-21 tháng tuổi.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp người chăn nuôi vỗ béo bò thu được
tăng khối lượng cao, nâng cao được năng suất thịt, mang lại hiệu quả kinh tế cao
trong vỗ béo bò.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 4

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Đặc điểm sinh lý tiêu hoá của bò
1.1.1. Tiêu hóa ở dạ cỏ:
Dạ dày của bò là dạ dày kép gồm có 4 túi: Dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách, dạ
múi khế. Dạ cỏ to nhất trong 4 túi, là nơi chứa thức ăn tạm thời, lên men nhờ vi sinh
vật làm mềm cỏ để dễ tiêu hoá. Dạ tổ ong là túi nhỏ nằm dưới túi trái dạ cỏ, phía
trước thông với dạ cỏ, phía sau thông với lá lách, sàng lọc ngoại vật, ợ đẩy thức ăn
lên miệng nhai lại. Dạ lá sách túi lớn thứ 2, nằm bên phải dạ tổ ong, trước túi phải
dạ cỏ, chức năng nghiền ép thức ăn sau khi nhai lại thành những lớp mỏng nhuyễn
đưa xuống dạ múi khế. Dạ múi khế là dạ tiêu hoá hoá học có nhiều nếp gấp trong để
tăng thêm diện tích hấp thu và có tuyến tiêu hoá như dạ dày đơn của lợn. Cả bốn túi,
quan trọng nhất là túi dạ cỏ. vì dạ cỏ có một quần thể vi sinh vật rất lớn, sống cộng
sinh mà nhờ đó loài nhai lại có khả năng độc đáo so với các gia súc khác, đó là khả
năng tiêu hoá xơ. Dạ cỏ chiếu 80% dung tích dạ dày, dạ tổ ong 5%, dạ lá sách và dạ
lá khế đều chiếu 7-8%.
Dạ cỏ được coi như “một thùng lên men lớn” với chức năng lên men tiêu hóa
thức ăn (thức ăn thô xanh và thức ăn tinh). Tiêu hóa ở dạ cỏ chiếm 1 vị trí rất quan
trọng trong quá trình tiêu hóa của gia súc nhai lại: dạ cỏ có môi trường thuận lợi cho
VSV lên men yếm khí, nhiệt độ tương đối ổn định khoảng 38-42
0C
, pH từ 6,5-7,4.
Có khoảng 50-80% các chất dinh dưỡng của thức ăn được lên men ở dạ cỏ. Sản
phẩm lên men chính là axit béo bay hơi (ABBH), sinh khối VSV và khí mêtan. Sự
nhu động của Dạ cỏ yếu nên thức ăn dừng lại lâu trong dạ cỏ. Sinh khối VSV và các
thành phần không lên men được chuyển xuống phần dưới của đường tiêu hóa.
- Hệ VSV trong dạ cỏ là một hệ phức tạp. Chúng sống chủ yếu dựa vào
nguồn năng lượng sinh ra từ quá trình lên men thức ăn. Với các điều kiện thuận lợi

do môi trường dạ cỏ tạo ra, nên hệ VSV dạ cỏ phát triển mạnh về số lượng và đa
dạng về chủng loại. Kể từ khi công trình nghiên cứu của Hungate về VSV dạ cỏ
được công bố năm 1941 đến nay, đã có hơn 200 loài VSV được phát hiện có mặt
trong dạ cỏ (Dorou và Fance, 1996). Hệ VSV dạ cỏ gồm 3 nhóm chính: Vi khuẩn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 5

(bacteria), nấm (fungi) và động vật nguyên sinh (protozoa).
- Nấm (Fungi)
Nấm trong dạ cỏ thuộc loại yếm khí. Nấm là vi sinh vật đầu tiên xâm nhập
và tiêu hoá thành phần cấu trúc thực vật bắt đầu từ bên trong. Những loài nấm được
phân lập từ dạ cỏ cừu gồm: Neocallimastix frontalis, Piramonas communis và
Sphaeromonas communis. Chức năng của nấm trong dạ cỏ là: Mọc chồi phá vỡ cấu
trúc thành tế bào thực vật, làm giảm độ bền chặt của cấu trúc này, góp phần làm tăng
sự phá vỡ các mảnh thức ăn trong quá trình nhai lại. Sự phá vỡ này tạo điều kiện cho
bacteria và men của chúng bám vào cấu trúc tế bào và tiếp tục quá trình phân giải
xenluloza. Mặt khác, nấm cũng tiết ra các loại men tiêu hoá xơ. Phức hợp men tiêu
hoá xơ của nấm dễ hoà tan hơn so với men của vi khuẩn. Chính vì thế nấm có khả
năng tấn công các tiểu phần thức ăn cứng hơn và lên men chúng với tốc độ nhanh
hơn so với vi khuẩn. Như vậy sự có mặt của nấm giúp làm tăng tốc độ tiêu hoá xơ.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với việc tiêu hoá thức ăn xơ thô bị lignin hoá.
- Động vật nguyên sinh (Protozoa)
Protozoa xuất hiện trong dạ cỏ khi gia súc bắt đầu ăn thức ăn thực vật thô.
Sau khi đẻ và trong thời gian bú sữa dạ dày trước không có protozoa. Protozoa
không thích ứng với môi trường bên ngoài và bị chết nhanh. Trong dạ cỏ protozoa
có số lượng khoảng 10
5
-10
6
tế bào/g chất chứa dạ cỏ. Có khoảng 120 loài protozoa
trong dạ cỏ. Mỗi loài gia súc có số loài protozoa khác nhau. Protozoa trong dạ cỏ

thuộc lớp Ciliata có hai lớp phụ là Entodiniômrphidia và Holotrica. Phần lớn động
vật nguyên sinh dạ cỏ thuộc nhóm Holotrica có đặc điểm là ở đường xoắn gần
miệng có tiêm mao, còn tất cả chỗ còn lại của cơ thể có rất ít tiêm mao. Protozoa có
một số tác dụng chính như sau: Tiêu hoá tinh bột và đường. Tuy có một vài loại
protozoa có khả năng phân giải xenluloza nhưng cơ chất chính vẫn là đường và tinh
bột, vì thế mà khi gia súc ăn khẩu phần nhiều bột đường thì số lượng protozoa tăng
lên. Xé rách màng tế bào thực vật. Tác dụng này có được thông qua tác động cơ học
và làm tăng diện tích tiếp xúc của thức ăn, do đó mà thức ăn dễ dàng chịu tác động
của vi khuẩn. Tích luỹ polysaccarit. Protozoa có khả năng nuốt tinh bột ngay sau
khi ăn và dự trữ dưới dạng amylopectin. Polysaccarit này có thể được phân giải về
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 6

sau hoặc không bị lên men ở dạ cỏ mà được phân giải thành đường đơn và được hấp
thu ở ruột. Điều này không những quan trọng đối với protozoa mà còn có ý nghĩa
dinh dưỡng cho gia súc nhai lại nhờ hiệu ứng đệm chống phân giải đường quá
nhanh làm giảm pH đột ngột, đồng thời cung cấp năng lượng từ từ hơn cho nhu cầu
của bản thân VSV dạ cỏ trong những thời gian xa bữa ăn. Bảo tồn mạch nối đôi của
các axit béo không no. Các axit béo không no mạch dài quan trọng đối với gia súc
(linoleic, linolenic) được protozoa nuốt và đưa xuống phần sau của đường tiêu hoá
để cung cấp trực tiếp cho vật chủ, nếu không các axit béo này sẽ bị làm no hoá bởi
vi khuẩn. Tuy nhiên gần đây nhiều ý kiến cho rằng protozoa trong dạ cỏ có một số
tác hại nhất định : Protozoa không có khả năng sử dụng NH3 như vi khuẩn. Nguồn
nitơ đáp ứng nhu cầu của chúng là những mảnh protein thức ăn và vi khuẩn. Nhiều
nghiên cứu cho thấy protozoa không thể xây dựng protein bản thân từ các amit
được. Khi mật độ protozoa trong dạ cỏ cao thì một tỷ lệ lớn vi khuẩn bị protozoa
thực bào. Mỗi protozoa có thể thực bào 600-700 vi khuẩn trong một giờ ở mật độ vi
khuẩn 10
9
/ml dịch dạ cỏ. Do có hiện tượng này mà protozoa đã làm giảm hiệu quả
sử dụng protein nói chung. Protozoa cũng góp phần làm tăng nồng độ amoniac

trong dạ cỏ do sự phân giải protein của chúng. Protozoa không tổng hợp được
vitamin mà sử dụng vitamin từ thức ăn hay do vi khuẩn tạo nên nên làm giảm rất
nhiều vitamin cho vật chủ.
- Vi khuẩn (Bacteria)
Vi khuẩn xuất hiện trong dạ cỏ loài nhai lại trong lứa tuổi còn non, mặc dù
chúng được nuôi cách biệt hoặc cùng với mẹ chúng. Thông thường vi khuẩn chiếm số
lượng lớn nhất trong VSV dạ cỏ và là tác nhân chính trong quá trình tiêu hóa xơ. Tổng
số vi khuẩn trong dạ cỏ thường là 10
9
vi khuẩn/1gam chất chứa dạ cỏ. Trong dạ cỏ vi
khuẩn ở thể tự do chiếm khoảng 30%, số còn lại bám vào các mẩu thức ăn, trú ngụ ở
các nếp gấp biểu mô và bám vào protozoa. Trong dạ cỏ có khoảng 60 loài vi khuẩn đã
được xác định. Sự phân loại vi khuẩn dạ cỏ có thể được tiến hành dựa vào cơ chất mà
vi khuẩn sử dụng hay sản phẩm lên men cuối cùng của chúng. Sau đây là một số nhóm
vi khuẩn dạ cỏ chính: Vi khuẩn phân giải xenluloza. Vi khuẩn phân giải xenluloza có
số lượng rất lớn trong dạ cỏ của những gia súc sử dụng khẩu phần giàu xenluloza.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 7

Những loài vi khuẩn phân giải xenluloza quan trọng nhất là Bacteroides succinogenes,
Butyrivibrio fibrisolvens, Ruminoccocus flavefaciens, Ruminococcus albus,
Cillobacterium cellulosolvens. Vi khuẩn phân giải hemixenluloza. Hemixenluloza khác
xenluloza là chứa cả đường pentoza và hexoza và cũng thường chứa axit uronic.
Những vi khuẩn có khả năng thuỷ phân xenluloza thì cũng có khả năng sử dụng
hemixenluloza. Tuy nhiên, không phải tất cả các loài sử dụng được hemixenluloza đều
có khả năng thuỷ phân xenluloza. Một số loài sử dụng hemixenluloza là Butyrivibrio
fibrisolvens, Lachnospira multiparus và Bacteroides ruminicola. Các loài vi khuẩn
phân giải hemixenluloza cũng như vi khuẩn phân giải xenluloza đều bị ức chế bởi pH
thấp. Vi khuẩn phân giải tinh bột. Trong dinh dưỡng carbohydrat của loài nhai lại, tinh
bột đứng vị trí thứ hai sau xenluloza. Phần lớn tinh bột theo thức ăn vào dạ cỏ, được
phân giải nhờ sự hoạt động của VSV. Tinh bột được phân giải bởi nhiều loài vi khuẩn

dạ cỏ, trong đó có những vi khuẩn phân giải xenluloza. Những loài vi khuẩn phân giải
tinh bột quan trọng là Bacteroides amylophilus, Succinimonas amylolytica,
Butyrivibrio fibrisolbvens, Bacteroides ruminantium, Selenomonas ruminantium và
Steptococcus bovis. Vi khuẩn phân giải đường. Hầu hết các vi khuẩn sử dụng được các
loại polysaccharid nói trên thì cũng sử dụng được đường disaccharid và đường
monosaccharid. Celobioza cũng có thể là nguồn năng lượng cung cấp cho nhóm vi
khuẩn này vì chúng có men bêta- glucosidaza có thể thuỷ phân cellobioza. Các vi
khuẩn thuộc loài Lachnospira multiparus, Selenomonas ruminantium đều có khả
năng sử dụng tốt hydratcacbon hoà tan. Vi khuẩn sử dụng các axit hữu cơ. Hầu hết các
vi khuẩn đều có khả năng sử dụng axit lactic mặc dù lượng axit này trong dạ cỏ thường
không đáng kể trừ trong những trường hợp đặc biệt. Một số có thể sử dụng axit
succinic, malic, fumaric, formic hay acetic. Những loài sử dụng axit lactic là
Veillonella gazogenes, Veillonella alacalescens, Peptostreptococcus elsdenii, Propioni
bacterium và Selenomonas lactilytica. Vi khuẩn phân giải protein. Trong số những loài
vi khuẩn phân giải protein và sinh amoniac thì Peptostreptococus và Clostridium có
khả năng lớn nhất. Sự phân giải protein và axit amin để sản sinh ra amoniac trong dạ cỏ
có ý nghĩa quan trọng đặc biệt cả về phương diện tiết kiệm nitơ cũng như nguy cơ dư
thừa amoniac. Amoniac cần cho các loài vi khuẩn dạ cỏ để tổng hợp nên sinh khối
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 8

protein của bản thân chúng, đồng thời một số vi khuẩn đòi hỏi hay được kích thích bởi
axit amin, peptit và isoaxit có nguồn gốc từ valine, leucine và isoleucine. Như vậy cần
phải có một lượng protein được phân giải trong dạ cỏ để đáp ứng nhu cầu này của vi
sinh vật dạ cỏ. Vi khuẩn tạo mêtan. Nhóm vi khuẩn này rất khó nuôi cấy trong ống
nghiệm, cho nên những thông tin về những VSV này còn hạn chế. Các loài vi khuẩn
của nhóm này là Methano baccterium, Methano ruminantium và Methano
forminicum. Vi khuẩn tổng hợp vitamin. Nhiều loài vi khuẩn dạ cỏ có khả năng tổng
hợp các vitamin nhóm B và vitamin K.
1.1.2. Tiêu hoá ở ruột non
Thức ăn sau khi tiêu hóa ở dạ dày sẽ lần lượt xuống ruột non. Ở ruột non

thức ăn chịu tác động của dịch tụy, dịch ruột và dịch mật sẽ được phân giải đến sản
phẩm cuối cùng để phân giải được dễ dang, do đó tiêu hóa ở ruột non chiếm 1 vị trí
vô cùng quan trọng. Sự tiêu hoá thức ăn bắt đầu ở miệng và dạ dày sẽ được hoàn tất
trong lòng ruột và trong các tế bào niêm mạc ruột non. Sau đó các sản phẩm tiêu
hoá được hấp thu cùng với các vitamin, các chất điện giải và nước.
a) Dịch tụy
Do các tế bào tuyến ngoại tiết của tuyến tuỵ tiết ra dưới tác dụng của 2 cơ
chế thần kinh và thể dịch. Sau khi ăn 5 phút, tiết dịch tuỵ kéo dài 6 - 14 giờ, lượng
dịch tuỵ và lượng men, thời gian tiết tuỳ thức ăn. Ăn tinh bột dịch tuzỵ tiết nhiều
vào giờ thứ nhất, ăn thịt tiết nhiều vào giờ thứ hai. Mỗi ngày dịch tuỵ được tiết
khoảng 800 ml.
Cơ chế thần kinh gây bài tiết dịch tuỵ: Thần kinh X chỉ huy tiết dịch tuỵ,
ngoài dây X, Pavlov nhận thấy trong dây tạng (dây giao cảm) cũng có những sợi
gây tiết dịch tuỵ. Các chất hoá học cường phó giao cảm như urocholin, pilocarpin
tăng tiết dịch tuỵ Các chất hoá học nhược phó giao cảm như atropin ức chế tiết dịch
tuỵ. Khi người và vật nhìn thấy thức ăn thì ngoài dịch vị tâm lý còn có dịch tuỵ tâm
lý cũng được chế tiết, nhưng chỉ trong mấy phút. Dịch tuỵ tâm lý chứa nhiều men, ít
nước và ít muối bicarbonate.
Cơ chế thể dịch điều hòa gây bài tiết dịch tuỵ: Bayliss và Starling làm thí
nghiệm cắt đứt tất cả các dây thần kinh của tuỵ và buộc thắt môn vị không cho vị
trấp xuống tá tràng, dịch tuỵ liền tiết ra. Nếu buộc thắt các mạch máu của ruột và
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 9

tuỵ thì bơm acid vào tá tràng không gây tiết dịch tuỵ.
b) Dịch mật
Gan bài tiết mật một cách liên tục, tập trung ở túi mật. Từ túi mật được
chuyển vào tá tràng từng đợt tuỳ theo bữa ăn. Khi thức ăn có mỡ chạm vào niêm
mạc tá tràng, túi mật co bóp tống mật ra và cứ thế co bóp liên tục 2 đến 3 giờ. Dây
X và trong tinh chất của niêm mạc ruột non có chất gây co bóp túi mật là
Cholecystokinin, chất này được niêm mạc tá tràng tiết ra khi thức ăn có mỡ chạm

vào và được chuyển sang máu đến kích thích túi mật.
Thành phần: Là dịch kiềm, hơi quánh, pH= 7- 7,7. Thành phần chính gồm:
muối mật, cholesterol (chỉ là chất bài xuất), sắc tố mật (Hb của hồng cầu, dạng đào
thải làm phân có màu vàng), nước (89%). Muối mật là thành phần duy nhất có tác
dụng tiêu hoá: taurocholatnatri (acid taurocholic), glycocholatnatri (acid
glycocholic).
Có 3 tác dụng chính:
− Hoạt hoá lipase trong ruột, làm tăng khả năng tiêu hoá mỡ.
− Giảm sức căng bề mặt của mỡ nhũ tương trong ruột làm cho các hạt cầu
mỡ được ổn định ở những kích thước rất nhỏ làm tăng diện tiếp xúc với men lipase.
− Tăng cường cử động ruột Chương 1. loạn hấp thu mỡ.
Làm hòa tan và hấp thu một số chất hòa tan trong lipid, vì thế trong bệnh gan
có thể thấy biểu hiện thiếu vitamin (sinh tố tan trong dầu, cholesterol, acid stearic,
là những chất không tan trong nước, phản ứng với muối mật thành hợp chất gọi là
acid choleic hòa tan trong nước. Đó là tác dụng giúp hòa tan của muối mật.)
c) Dịch ruột non: Là dịch thể không màu, có phản ứng kiềm pH= 8,2 – 8,7,
nước chiếm 99 – 99,5 % và chất khô 0,5 – 1%.
Sự bài tiết dịch ruột: Khác với các dịch tiêu hóa đã nói trên, phần lỏng của
các dịch ruột do các tuyến ruột bài tiết nhưng enzym tiêu hóa lại được tổng hợp ở
các tế bào niêm mạc ruột, gắn với phần riềm bàn chải và chỉ được giải phóng khi tế
bào niêm mạc ruột bong ra và tan vỡ. Dịch ruột có thể tiết ra do kích thích tại chỗ
và do ảnh hưởng của hệ thần kinh thể dịch: tiêm secretin hoặc tinh chất niêm mạc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 10

ruột vào máu sẽ gây tiết dịch ruột. Dây X: gây tiết dịch ruột; Dây giao cảm: ức chế.
Tuy vậy, tác dụng này không rõ rệt lắm.

Thành phần và tác dụng của dịch ruột: Thành phần, chức năng chính của
dịch ruột là những nhóm enzym tiêu hóa:
Nhóm enzym phân giải prôtêin:

− Aminopeptidase: Hoạt động trong môi trường kiềm, pH tối thuận =8, cắt
rời acid amin đứng ở đầu N của những chuỗi peptid, cho những acid amin riêng lẻ
(tác dụng cắt acid amin có mang NH2 tự do ở đầu mạch các polypeptid).
− Iminopeptidase: Cắt những acid imin (prolin, oxyprolin) khỏi chuỗi peptid.
− Dipeptidase: Phân giải các dipeptid cho các acid amin.
− Carboxypeptidase: căt chuỗi polypeptid bắt đầu từ acid amin tự do ở cuối
C của mạch polypeptid.
Nhóm phân giải lipid:
Phân giải glycerid phức tạp thành glycerid đơn giản, acid béo và glycerol.
Lipase, phospholipase giống dịch tụy.
Nhóm phân giải glucid:
Amylase, mantase giống dịch tụy. Saccharase: Phân giải saccharose cho
glucose và fructose. Lactase: Phân giải lactose cho glucose và galactose.
Enterokinase: Hoạt hóa trypsinogen.
Phosphatase kiềm: Phân giải các liên kết phospho, kể cả vô cơ lẫn hữu cơ.
Có tác dụng trong quá trình hấp thu đường và mỡ.
1.1.3. Tiêu hoá ruột già
Ruột già gồm có manh tràng, đại tràng lên, đại tràng ngang, đại tràng xuống,
đại tràng sigma và trực tràng. Quá trình tiêu hóa ở ruột già không quan trọng, bởi vì
khi xuống đến ruột già, chỉ còn lại những chất cặn bả của thức ăn, được ruột già tích
trữ tạo thành phân và tống ra ngoài. Các hình thức hoạt động cơ học của ruột già
tương tự ruột non với mục đích làm niêm mạc ruột tăng tiếp xúc với các chất chứa
để hấp thu thêm một ít nước và điện giải, đồng thời có tác dụng đẩy phân xuống
trực tràng gây nên động tác đại tiện để tống phân ra ngoài. Hoạt động bài tiết dịch.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 11

Ruột già chủ yếu bài tiết một chất nhầy kiềm tính có tác dụng làm trơn để phân dễ
di chuyển. Khi viêm ruột già, chất nhầy tăng tiết làm phân nhầy mũi.

Tiêu hoá tinh bột: Số lượng tinh bộ ở manh tràng và kết tràng phụ thuộc vào

số lượng thức ăn chưa lên men ở dạ cỏ hoặc tiêu hoá ở ruột non.
Tiêu hoá xenlluloza: Thành phần vách tế bào như xenlluloza và hemicelluloza tránh
sự lên men ở dạ cỏ và tiêu hoá ở ruột non sẽ trở thành cơ chất cho tiêu hoá ở manh
tràng. Sự lên men ở đây tạo thành các axit béo bay hơi, sau đó được hấp thu theo
kiểu thẩm thấu đơn giản dọc theo niêm mạc manh tràng. Tốc độ lên men ở manh
tràng rất cao, đặc biệt khi gia súc ăn khẩu phần có giá trị dinh dưỡng thấp.
Phân giải protein: Hoạt tính phân giải protein ở manh tràng được biểu thị ở
hàm lượng amoniac cao, william (1965); Faicney (1968).
Amoniac giải phóng được hấp thu và chuyển hoá thành ure ở gan và có thể sử
dụng được, các aminoacid hầu như không được hấp thu ở giai đoạn này.
1.2. Khẩu phần ăn cho bò
1.2.1. Yêu cầu khẩu phần ăn của bò
- Định nghĩa khẩu phần ăn của gia súc: Khẩu phần là tổ hợp các loại thức ăn
để thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng cho gia súc trong một ngày đêm.
- Yêu cầu của khẩu phần ăn của bò: Khi phối hợp khẩu phần ăn cho bò cần
đáp ứng được những yêu cầu cơ bản sau:
+ Khẩu phần phải đảm bảo cho con vật ăn hết và đủ no.
+ Khẩu phần phải cung cấp đủ dinh dưỡng cho cả vi sinh vật dạ cỏ và vật chủ.
+ Khẩu phần phải đảm bảo an toàn về vệ sinh thú y và an toàn thực phẩm
cho sản phẩm thu hoạch (thịt, sữa).
+ Khẩu phần phải bao gồm những loại thức ăn có thể khai thác tiện lợi và
khả thi.
+ Khẩu phần phải đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất (rẻ nhất).
1.2.2. Cơ cấu khẩu phần và bổ sung dinh dưỡng cho bò
1.2.2.1. Cơ cấu khẩu phần
Khẩu phần ăn của trâu bò nên chia thành hai phần: khẩu phần ăn cơ sở và
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 12

thức ăn bổ sung. Để tận dụng lợi thế sinh học của bò, khẩu phần cơ sở nên bao gồm
tối đa các loại thức ăn xơ thô sẵn có, kể cả phụ phẩm rẻ tiền. Tuy nhiên, khẩu phần

cơ sở (thức ăn xơ thô) thường không cân đối dinh dưỡng. Khi đó cần phải có thêm
các thức ăn bổ sung tối thiểu để cân đối dinh dưỡng nhằm tối ưu hóa tiêu hóa vi
sinh vật ở dạ cỏ. Khẩu phần sau khi đã bổ sung tối thiểu này được gọi là khẩu phần
cơ sở đã hiệu chỉnh. Khẩu phần cơ sở này thường thỏa mãn được các nhu cầu dinh
dưỡng cho duy trì và đáp ứng một phần nhu cầu sản xuất. Phần sản xuất này phụ
thuộc vào thành phần và chất lượng các loại thức ăn trong khẩu phần cơ sở.
Đối với gia súc cao sản khẩu phần cơ sở đã hiệu chỉnh cũng không đáp ứng đủ
nhu cầu dinh dưỡng cho sản xuất. Trong trường hợp này cần có thêm thức ăn để bổ
sung sản xuất. Khẩu phần cơ sở đã hiệu chỉnh và thức ăn bổ sung sản xuất sẽ tạo thành
khẩu phần hoàn chỉnh ( Vũ Duy Giảng và cs., 2008).
1.2.2.2. Mục đích và nguyên tắc bổ sung dinh dưỡng
Khi xây dựng khẩu phần điều cốt yếu là làm trâu bò ăn được càng nhiều thức
ăn thô càng tốt nhưng vẫn đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu về dinh dưỡng cho vi sinh
vật dạ cỏ và vật chủ, do đó cần phải bổ sung dinh dưỡng. Các chất dinh dưỡng trong
thức ăn thô chỉ có thể được phân giải và chuyển hóa có hiệu quả trong dạ cỏ nếu
như các vi sinh vật cộng sinh trong đó được cung cấp đầy đủ và cân đối các chất
dinh dưỡng cần thiết. Hơn nữa, các sản phẩm lên men cuối cùng trong dạ cỏ (
Protêin vi sinh vật và Axít béo bay hơi) chỉ có thể trở thành các chất dinh dưỡng
cho vật chủ và làm tăng năng suất của gia súc nếu như chúng cân bằng với các chất
dinh dưỡng được tiêu hóa và hấp thu ở ruột non. Do vậy, bổ sung dinh dưỡng cho
khẩu phần cơ sở là thức ăn thô, đặc biệt là thức ăn thô chất lượng thấp, phải đảm
bảo được những nguyên tắc sau:
- Bổ sung tối thiểu, tức là bổ sung để tối ưu hóa hoạt động của vi sinh vật dạ
cỏ bằng cách cung cấp các chất dinh dưỡng bị thiếu trong khẩu phần cơ sở so với
nhu cầu của vi sinh vật cộng sinh, nhằm giúp cho tiêu hóa khẩu phần cơ sở ở trong
dạ cỏ đạt tới mức tối đa, tăng thu nhận khẩu phần thức ăn cơ sở, tăng tuối đa protêin
vi sinh vật của dạ cỏ.Các chất bổ sung trong trường hợp này chủ yếu là nitơ ở dạng
dễ phân giải cùng một ít các yếu tố kích thích sinh tổng hợp vi sinh vật dạ cỏ như
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 13


khoáng, vitamin, peptít/axít amin và một lượng nhỏ năng lượng dễ lên men. Hình
thức bổ sung này có thể được coi là bổ sung xúc tác.

Việc bổ sung để tối ưu hóa hệ sinh thái dạ cỏ cho phép làm tăng tốc độ và tỷ
lệ tiêu hóa xơ cũng như tăng sinh khối protêin vi sinh vật đi xuống dạ cỏ. Cả hai ảnh
hưởng này kích thích con vật tăng lượng thu nhân khẩu phần cơ sở và cuối cùng sẽ
cải thiện tình trang dinh dưỡng của nó.
- Bổ sung sản xuất, tức là bổ sung thêm các chất dinh dưỡng, đặc biệt là
những thức ăn có khả năng thoát qua sự phân giải ở dạ cỏ, nhằm cân bằng các chất
dinh dưỡng hấp thu và đáp ứng nhu cầu sản xuất của gia súc.
Các chất dinh dưỡng cần cung cấp trong trường hợp này là các axít amin,
axít béo không no mạch dài( không thay thế), tiền chất của glucose. Những chất
này thường lấy từ thức ăn protêin, lipit và bột đường. Các loại thức ăn bổ sung này
phải được phối hợp theo tỷ lệ phù hợp sao cho chúng không cản trở hoạt động phân
giải xơ trong dạ cỏ và đảm bảo cân bằng giữa các sản phẩm lên men dạ cỏ với sản
phẩm tiêu hóa ở ruột nhằm đạt được mức sản xuất đề ra.
1.2.2.3. Các hình thức bổ sung thức ăn
- Bổ sung thức ăn giàu năng lượng: Đối với thức ăn thô năng lượng chủ yếu
có trong hydratcarbon của vách tế bào và được giải phóng trong quá trình lên men
bởi vi sinh vật dạ cỏ. Năng lượng này được giải phóng rất chậm do quá trình phân
giải chậm. Chính vì thế mà khi gia súc nhai lại chỉ được cho ăn các thức ăn xơ thô
chất lượng thấp như ( rơm rạ) quá trình tăng sinh và hoạt động của vi sinh vật dạ cỏ
bị hạn chế do thiếu ATP và khung carbon. Do vậy cần thiết phải bổ sung thêm các
loại thức ăn chứa các nguồn năng lượng để lên men để cung cấp các nhu cầu này
cho vi sinh vật dạ cỏ.
Khi bổ sung năng lượng vào khẩu phần cơ sở là thức ăn thô cần chú ý đảm
bảo sao cho hoạt lực phân giải xơ trong dạ cỏ bị giảm càng ít càng tốt. Các loại thức
ăn bổ sung năng lượng sử dụng càng giàu xơ dễ tiêu càng tốt như các loại cỏ xanh
chất lượng cao, bã bia, bỗng rượu. Các loại thức ăn này có thể chiếm 50% VCK của
khẩu phần. Phương thức cho ăn càng đều càng tốt, tức là nên cho ăn làm nhiều lần

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 14

hay tốt hơn là trộn đều với khẩu phần cơ sở. Cho ăn như vậy sẽ tránh giảm pH dạ cỏ
một cách đột ngột ảnh hưởng không tốt đến vi sinh vật phân giải xơ. Đối với gia súc
cao sản ta nên bổ sung dưới dạng thức ăn thoát qua dạ cỏ để được tiêu hóa và hấp
thu ở ruột, đáp ứng nhu cầu cần cung cấp nhiều năng lượng của gia súc.
- Bổ sung Protein: Thông thường gia súc nhai lại phải phụ thuộc chủ yếu vào
Protein vi sinh vật dạ cỏ để thỏa mãn nhu cầu protein. Tuy nhiên, ngay cả trong điều
kiện thuận lợi nhất khả năng tổng hợp protein của vi sinh vật dạ cỏ là có giới hạn.
Vì vậy, protein vi sinh vật, đặc biệt là khi nuôi bằng thức ăn thô, không thể đủ để
thỏa mãn nhu cầu sản xuất. Do vậy, đối với thức ăn thô ngoài việc bổ sung nguồn
Nitơ dễ phân giải ở dạ cỏ việc bổ sung thêm các loại thức ăn Protein ở dạng khó
phân giải ở dạ cỏ sẽ rất có lợi, bởi vì những thức ăn protein này sẽ đi thẳng xuống
dạ múi khế và ruột để được tiêu hóa nhằm cung cấp axít amin trực tiếp cho vật chủ
để thỏa mãn các nhu cầu sản xuất.Việc bổ sung một số loại thức ăn protein phân
giải chậm ở trong dạ cỏ còn có tác dụng tốt đối với quá trình phân giải xơ ở dạ cỏ
thông qua việc cung cấp trực tiếp một số axít amin và một số axít béo mạch nhánh
cần thiết cho quá trình sinh tổng hợp protein của vi sinh vật dạ cỏ. Do vậy việc bổ
sung những protein phân giải chậm này sẽ vừa làm tăng sinh khối protein vi sinh
vật vừa tăng axít amin trực tiếp ở ruột.
Ngoài một số thức ăn bổ sung protein như khô dầu hay protein động vật có tỷ
lệ phân giải thấp ở dạ cỏ thì hầu hết protein thu nhận đều bị phân giải ở trong dạ cỏ.
Vì vậy để bổ sung protein người ta sử dụng nguồn protein thoát qua để bổ sung cho
gia súc.
- Bổ sung khoáng và vitamin: Thức ăn xơ thô thường không chứa đủ các loại
khoáng và vitamin cần cho quá trình sinh tổng hợp và hoạt động của vi sinh vật dạ
cỏ. Các loại khoáng thiếu thường lá Ca, P,Cu, Zn, Mn, Fe và S. Trong đó P và S có
ảnh hưởng rất lớn đến sinh tổng hợp vi sinh vật dạ cỏ. Khoáng và vitamin thường
được bổ sung dưới dạng bột hỗn hợp, đá liếm, hay bánh dinh dưỡng tổng hợp.
- Bổ sung cỏ xanh hay phụ phẩm: Bổ sung vào khẩu phần cơ sở là thức ăn

thô chất lượng thấp như rơm rạ với một lượng nhỏ ( 10-30% VCK) các loại cỏ có
chất lượng tốt sẽ kích thích tiêu hóa và tăng lượng thu nhận khẩu phần cơ sở và do
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 15

đó mà tăng năng suất của gia súc. Đó là do cỏ xanh đã cung cấp một lượng xơ dễ
tiêu nên làm tăng sinh khối và hiệu lực phân giải xơ của vi sinh vật dạ cỏ. Một
nguyên tắc quan trọng để tối ưu hóa quá trình phân giải rơm trong dạ cỏ là làm tăng
số lượng vi sinh vật bám vào thức ăn và việc cung cấp xơ dễ tiêu đảm bảo cho việc
nhân nhanh quần thể vi sinh vật phân giải xơ. Nếu cỏ xanh bổ sung là cỏ họ đậu thì
ngoài xơ dễ tiêu ra còn có thể cung cấp thêm Nitơ và axít béo bay hơi mạch nhánh
là những chất dinh dưỡng thiết yếu cho vi khuẩn phân giải xơ.
Có nhiều loại cỏ xanh khác nhau có thể dùng làm thức ăn bổ sung như cỏ cắt
hay chăn thả, lá từ các loại thân cây bụi hay cây họ đậu dùng làm bờ rào.
Các phụ phẩm dễ tiêu hóa và giàu protein rơm cũng có thể dùng làm chất bổ
sung rất tốt cho khẩu phần cơ sở là rơm. Rơm họ đậu, cám ngũ cốc, hạt bông, bã
bia, bỗng rượu, bột cá thường có tác dụng kích thích tiêu hóa rơm rất tốt.
- Bổ sung thức ăn tinh: Thức ăn tinh hỗn hợp hay hạt ngũ cốc có thể dùng để
bổ sung vào khẩu phần cơ sở là thức ăn thô để cân bằng dinh dưỡng cho vi sinh vật
dạ cỏ và vật chủ nói chung. Tuy nhiên, việc bổ sung này chỉ nên áp dụng khi khẩu
phần cơ sở không đủ đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng, đặc biệt đối với gia súc cao sản.
Cần lưu ý khi sử dụng thức ăn tinh: Không bổ sung thức ăn tinh quá nhiều vì không
có lợi về kinh tế cũng như dinh dưỡng. Bổ sung quá nhiều thức ăn tinh sẽ làm tăng
tốc độ sinh axít béo bay hơi trong dạ cỏ, làm giảm pH và ức chế các loại vi sinh vật
phân giải xơ và thường gây ra hiên tượng thay thế ( giảm thu nhận thức ăn thô).
Hơn nữa việc lên men dạ cỏ sẽ làm mất nhiều năng lượng của thức ăn tinh qua sinh
nhiệt trong quá trình lên men và sinh khí mêtan.
1.2.3. Phương pháp xây dựng khẩu phần
Việc lập khẩu phần cho bò bắt đầu bằng việc tính toán khẩu phần ăn lý thuyết
cho bò. Khẩu phần này được dùng để cho bò ăn trong một thời gian thử nghiệm.
1.2.3.1. Phương pháp cổ điển ( Kearl, 1982)

Các bước xây dựng khẩu phần ăn theo phương pháp cổ điển (Kearl,1982)
gồm những bước sau:
Việc xây dựng khẩu phần bắt đầu bằng việc tính toán toán nhu cầu dinh
dưỡng của bò về lượng vật chất khô thu nhận, năng lượng (ME), Protein (CP), Ca, P
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 16

và vitamin A.
Chọn một số loại thức ăn săn có và lấy thông tin về thành phần dinh dưỡng
của các loại thức ăn đó. Thành phần dinh dưỡng của các loại thức ăn bắt buộc phải
tra theo bảng có sẵn hay dựa vào kết quả phân tích thành phần dinh dưỡng cụ thể
cho các lại thức ăn được sử dụng của cơ sở.
Tính giá thành đơn vị của các loại dinh dưỡng chính (thường chỉ là năng lượng và
protein) để quyết dịnh chọn phương án rẻ tiền nhất.
Tính toán khẩu phần thường dựa trên cơ sở tính theo thành phần dinh dưỡng trong
vật chất khô, sau đó tính chuyển về khối lượng các loại thức ăn theo nguyên trạng
lúc cho ăn.
1.2.3.2. Phương pháp bổ sung từng bước
Theo quan niệm mới về cấu trúc khẩu phần và bổ sung dinh dưỡng thì
phương pháp phối hợp khẩu phần lý thuyết cho bò gồm các bước sau:
Tính nhu cầu năng lượng và protein cho duy trì và cho sản xuất (tính theo công thức
hoặc tra bảng).
Lập khẩu phần cơ sở từ những loại thức ăn thô sẵn có trên cơ sở khai thác tối
đa và đa dạng các loại thức ăn thô nằm trong giới hạn thu nhận vật chất khô cho
phép và theo nguyên tắc ưu tiên gia súc cao sản, gia súc non, bò mới đẻ cần ưu
tiên thức ăn thô xanh chất lượng cao.
Tính giá trị năng lượng và protein của khẩu phần cơ sở cung cấp.
Tính phần năng lượng và protein còn lại của khẩu phần cơ sở sau khi đã trừ đi nhu
cầu duy trì.
Bổ sung tối thiểu cho khẩu phần cơ sở bằng một ( hoặc vài) loại thức ăn giàu
năng lượng hoặc protein (tùy trường hợp) để cân bằng năng lượng và protein (phần dư

trên duy trì). Khẩu phần cơ sở đã điều chỉnh này sẽ đáp ứng được nhu cầu duy trì và
nhu cầu cho một mức sản xuất nhất định. Bổ sung sản xuất khi nhu cầu của con vật
vượt trên mức mà khẩu phần thức ăn cơ sở đã điều chỉnh cho phép bằng cách dùng
thức ăn tinh hỗn hợp. Cân đối lượng khoáng và vitamin có trong khẩu phần trên, nếu
thiếu so với nhu cầu thì phải bổ sung dưới dạng khoáng hỗn hợp hay đá liếm.
1.2.3.3. Phối hợp khẩu phần ăn bằng chương trình máy tính

×