Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tổng quan về vốn và các hình thức huy động vốn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.52 KB, 13 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mở đầu
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được
thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất-kinh doanh.Vì vậy quản lý
vốn của doanh nghiệp có ý nghỉa quan trọng trong quản trị tài chính doanh
nghiệp.
Việt Nam gia nhập WTO vừa là những lợi thế to lớn đồng thời là
những thách thức không nhỏ với mỗi doanh nghiệp. Sự cạnh tranh khốc liệt
và ngày càng gay gắt đòi hỏi mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
ngoài có biện pháp,chiến lược phù hợp thì họ cần phải chủ động hơn trong
nguồn vốn của mình,cụ thẻ là cách thức huy động vốn.
Trong giới hạn bài viết này em xin được đề cập đến các vấn đề như
sau:
A. Tổng quan về vốn và các hình thức huy động vốn.
B. Tình hình huy động vốn của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
và đánh giá về tình hình đó.
Do nghiên cứu trong một thời gian ngắn, không tránh khỏi sơ xuất,
mong các thày cô cho ý kiến đánh giá để bài tập của em được hoàn thiện
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
- 1 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần A
Tổng quan về vốn và các hình thức huy động vốn
Tùy theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể,mỗi doanh
nghiệp có thể có các cách huy động vốn khác nhau.Trong điều kiện kinh tế
thị trường,các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp được đa dạng
hóa nhằm khai thác mọi nguồn vốn của nền kinh tế.
Có hai nguồn vốn cơ bản
I.Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
II.Nguồn nợ của doanh nghiệp


Trong đó I.Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm:
1.Vốn góp ban đầu:Là số vốn nhất định do các cổ
đông-chủ sở hữu góp khi doanh nghiệp được thành
lập.Tùy theo hình thức của doanh nghiệp mà quyết
định đến tính chất và hình thức tạo vốn của bản than
doanh nghiệp.
2.Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia:Là bộ phận lợi
nhuận được sử dụng tái đầu tư,mở rộng sản xuất-kinh
doanh của doanh nghiệp.
3.Phát hành cổ phiếu:Là nguồn vốn tạo ra từ việc phát
hành cổ phiếu và bán ra thị trướng của các doanh
nghiệp.

II.Nguồn nợ của doanh nghiệp
1.Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương
mại:một là nguồn vốn do vay ngân hang và một là
- 2 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nguồn vốn phát sinh tự nhiên trong quan hệ mua bán
chịu hang hóa,dịch vụ.
Có thể nói đây là một trong những nguồn vốn quan
trọng nhất,doanh nghiệp muốn tồn tại vững chắc trên
thị trường chắc chắn phải vay vốn ngân hàng hoặc sử
dụng tín dụng thương mại.
2.Phát hành trái phiếu công ty:Trái phiếu là một tên
chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn,bao
gồm:trái phieeis chính phủ và trái phiếu công ty.
Mỗi loại trái phiếu có chi phí trả lãi,cách thức trả
lãi,khả năng lưu hành và tính hấp dẫn khác nhau.Vì vậy
đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải cân nhắc kĩ lưỡng

khi phát hành từng loại trái phiếu.
Chúng ta có thể nhận thấy vốn góp ban đầu được hình thành rất sớm và
tương đối cố định,việc huy động nguồn vốn này là rất bất cập và gặp nhiều
khó khăn.Mặt khác nếu huy động nguồn vốn từ lợi nhuận không chia dễ
làm giảm tính hấp dẩn của cổ phiếu trong thời kì trước mắt dẫn đến giá cổ
phiếu có thể bị giảm sút do cổ đông chỉ nhận được cổ tức nhỏ hơn.
Vì vậy có thể nói tại thị trường Việt Nam hiện nay hình thành 4 hình thức
huy động vốn cơ bản sau:
1. Phát hành cổ phiếu
2. Tín dụng ngân hàng
3. Tín dụng thương mại
4. Phát hành trái phiếu công ty
- 3 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần B
Tình hình huy động vốn của các doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay và đánh giá về tình hình đó.
Vốn từ phát hành cổ phiếu mới
Đây là kênh huy động vốn đặc biệt quan trọng đối với bất kỳ doanh
nghiệp cổ phần nào. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, thị trường chứng
khoán đang trên đà phát triển, tuy chưa ổn định, nên việc thu hút nguồn vốn
từ phát hành cổ phiếu mới là rất cần thiết và hoàn toàn có khả năng thực
hiện, doanh nghiệp cũng có thể xây dựng hình ảnh thương hiệu từ phương
thức này, song cần thận trọng, chú ý đề phòng những rủi ro của thị trường.
Theo số liệu của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, tính đến ngày
31/12/2006, trên TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh (HoSTC) có 106 công
ty và 2 chứng chỉ quỹ, trên sàn GDCK Hà Nội (HaSTC) có 87 công ty,
tổng giá trị cổ phiếu niêm yết là 221,156 tỷ, chiếm 22,7% tổng GDP 2006,
và lớn gấp 20 lần năm 2005.
Số lượng công ty niêm yết tăng mạnh vào cuối năm 2006, chỉ riêng

tháng 12/2006 có tới 50 công ty niêm yết mới trên HoSTC, bình quân mỗi
ngày gần 2 công ty. Nguyên nhân chính của tình trạng lên sàn ồ ạt là do từ
01/01/2007, Luật chứng khoán chính thức có hiệu lực, bãi bỏ ưu đãi thuế
Thu nhập doanh nghiệp cho những doanh nghiệp niêm yết trên sàn sau
ngày này.

- 4 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy, thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán đã có
bước phát triển vượt bậc, tạo kênh huy động vốn mới cho doanh nghiệp,
song, thực chất thị trường này còn rất nhiều bất cập.
Đầu tiên, ta điểm qua tình hình phát triển của thị trường chứng khoán
giai đoạn 2005-2007. Một số nét dễ nhận thấy đó là thị trường thường tăng
trưởng nóng trong những tháng cuối năm và đầu năm, còn từ tháng 4 đến
khoảng tháng 7-8 thị trường điều chỉnh giảm. Tình trạng này diễn ra liên
tục cho thấy khả năng tăng trưởng bong bóng và sự mất ổn định của thị
trường. Trong điều kiện tăng trưởng ồ ạt, việc các doanh nghiệp phát hành
cổ phiếu mới là một biện pháp giảm sốt hữu hiệu đối với thị trường, tăng
cung thì thị trường sẽ cân bằng hơn. Song khi thị trường mất ổn định, đi
xuống trong thời gian dài, kế hoạch tăng cung cho thị trường sẽ không khả
thi. Đây là một trong những khó khăn trong việc tăng vốn bằng phát hành
cổ phiếu của các doanh nghiệp.
Một vấn đề khác ta cần lưu tâm, đó là trong hoàn cảnh thị trường
chứng khoán Việt Nam phát triển với tốc độ chóng mặt như hiện nay, các
doanh nghiệp sẽ rất dễ dàng phát hành cổ phiếu mới, và điều này nếu lạm
dụng sẽ tạo ra sự mất cân đối trong cơ cấu tài chính của doanh nghiệp, gây
ra những rủi ro khó lường.Nguyên nhân chính đó là các nhà đầu tư chứng
khoán ở Việt Nam hiện nay còn thiếu tính chuyên nghiệp, họ ít quan tâm
đến lợi nhuận và rủi ro của những kế hoạch đầu tư mà chủ yếu là mua bán
cổ phiếu kiếm lời trong ngắn hạn, do vậy doanh nghiệp sẽ rất dễ gặp rủi ro.

Khi doanh nghiệp đầu tư một dự án, hiệu quả chỉ diễn ra vài năm sau,
nhưng cổ tức vẫn phải trả hàng năm. Nếu không đảm bảo cổ tức cho cổ
đông, cổ phiếu công ty sẽ rớt giá không kìm được. Đây là một vấn đề cần
được quan tâm đúng mức trong điều kiện tình hình thị trường chứng khoán
Việt Nam hiện nay. Thậm chí, có những doanh nghiệp Việt Nam đã lấy tiền
từ phát hành cổ phiếu để trả nợ ngân hàng, đầu tư tài chính,.. tức nằm ngoài
- 5 -

×