Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Thanh tra tài chính đối với phân bổ vốn đầu tư thuộc ngân sách địa phương (qua khảo sát thực tiễn tại tỉnh Tiền Giang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (952.45 KB, 111 trang )

Trờng đại học kinh tế quốc dân
à

phạm ngọc hng
Thanh tra tài chính đối với phân bổ vốn
đầu t thuộc ngân sách địa phơng
(qua khảo sát thực tiễn tại tỉnh Tiền Giang)
Chuyên ngành: kinh tế chính trị
Ngời hớng dẫn khoa học:
PGS.TS. Vũ Văn Hân
Hµ néi - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa
học, độc lập của tôi. Các sơ liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực
và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Phạm Ngọc Hưng
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
MỤC LỤC 2
MỞ ĐẦU 1
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu: 2
- Theo quy định tại điểm 6, Điều 4, Thông tư số 86/TT-BTC ngày
17/6/2011 của Bộ Tài chính: “Việc phân bổ và giao dự toán ngân sách cho
các dự án phải hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 năm trước” 57
Quy trình thanh tra được ban hành theo Quyết định số 2440/2011/QĐ-
BTC ngày 17 tháng 10 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Tài chính Về việc ban
hành Quy trình thanh tra ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương. Các bước tiến hành thanh tra gồm: 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
DANH MỤC BẢNG BIỂU


LỜI CAM ĐOAN 1
MỤC LỤC 2
MỞ ĐẦU 1
- Theo quy định tại điểm 6, Điều 4, Thông tư số 86/TT-BTC ngày
17/6/2011 của Bộ Tài chính: “Việc phân bổ và giao dự toán ngân sách cho
các dự án phải hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 năm trước” 57
Quy trình thanh tra được ban hành theo Quyết định số 2440/2011/QĐ-
BTC ngày 17 tháng 10 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Tài chính Về việc ban
hành Quy trình thanh tra ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương. Các bước tiến hành thanh tra gồm: 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Hoạt động đầu tư, đặc biệt là hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản có ý nghĩa
quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước cũng như mỗi địa
phương. Thực tế đầu tư xây dựng cơ bản là nguồn lực và phương tiện chủ yếu để
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội khi đất nước đang trong tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ một nền kinh tế ở một xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ
tầng kỹ thuật còn nhiều thiếu thốn, bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhiều
vấn đề cũng đặt ra với đầu tư XDCB. Thời gian qua, nguồn vốn đầu tư XDCB có xu
hướng không ngừng tăng lên tạo nên sự chuyển biến quan trọng trong việc phát
triển hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm thay đổi diện mạo kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy
nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, việc quản lý nguồn vốn cho đầu tư XDCB
vẫn bộc lộ không ít những hạn chế như: Đầu tư dàn trải, quản lý yếu kém, thất thoát
lãng phí, tình trạng tham nhũng có xu hướng gia tăng, đã làm ảnh hưởng đến chất
lượng các công trình, hiệu quả đầu tư thấp và nợ đọng vốn đầu tư ở mức cao gây
nhiều tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
Thực trạng trên cho thấy, việc sử dụng nguồn vốn NSNN cho đầu tư XDCB

cần có sự quản lý, điều hành theo hướng hiệu quả hơn nhằm tránh thất thoát, lãng
phí vốn cũng như nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư. Trên thực tế hoạt động
thanh tra nguồn vốn đầu tư XDCB từ ngân sách nhà nước đã được thực thi trong
những năm qua nhằm chấn chỉnh hoạt động đầu tư xây dựng, chủ động phòng ngừa,
ngăn chặn sự thất thoát, lãng phí vốn và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư Nhà nước.
Việc nghiên cứu, đánh giá, rút ra những bài học kinh nghiệm cũng như đề xuất
những biện pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra là điều cả xã hội cũng
như Nhà nước rất quan tâm. Xuất phát từ thực tế đó, học viên chọn đề tài “Thanh
tra tài chính đối với phân bổ vốn đầu tư thuộc ngân sách địa phương (qua khảo
sát thực tiễn tại tỉnh Tiền Giang)” làm nội dung nghiên cứu của Luận văn Thạc sỹ
kinh tế.
1
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu:
Cho đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề Thanh tra tài
chính. Mỗi đề tài nghiên cứu đều có mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, cách
tiếp cận và mục tiêu cụ thể khác nhau.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trước đây về thanh tra tài chính có
những đối tượng nghiên cứu khác nhau, như là các đơn vị sự nghiệp, các Doanh
nghiệp nhà nước, việc chấp hành dự toán thu, chi ngân sách các cấp, về thanh tra
các dự án đầu tư XDCB từ ngân sách nhà nước… chưa có các nghiên cứu về công
tác phân bổ vốn đầu tư XDCB thuộc ngân sách địa phương. Chính vì vậy, tác giả
thấy rằng nghiên cứu chuyên sâu về công tác thanh tra tài chính công tác phân bổ
vốn đầu tư XDCB thuộc ngân sách địa phương là rất cần thiết nhằm hoàn thiện hơn
thể chế, lực lượng, nội dung, phương pháp thanh tra công tác phân bổ vốn đầu tư
XDCB thuộc ngân sách địa phương trong thời kỳ hội nhập kinh tế và phát triển.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Xác định mục đích, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng của
thanh tra tài chính, cơ sở lý luận và thực tiễn công tác thanh tra tài chính đối với
công tác phân bổ vốn đầu tư XDCB thuộc ngân sách địa phương;
- Đánh giá thực trạng, kết quả và hạn chế của hoạt động thanh tra tài chính

đối với dự công tác phân bổ vốn đầu tư XDCB thuộc ngân sách địa phương;
- Đề xuất, đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra tài
chính đối với công tác phân bổ vốn đầu tư XDCB thuộc ngân sách địa phương, góp
phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, đáp ứng được yêu cầu quản lý vốn đầu
tư XDCB đang đặt ra cũng như phù hợp với nội dung của Luật Thanh tra.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Là hoạt động thanh tra tài chính đối với
công tác phân bổ vốn đầu tư XDCB thuộc ngân sách địa phương.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung vào nghiên cứu một số
vấn đề lý luận cơ bản về thanh tra tài chính đối với công tác phân bổ vốn đầu tư
2
XDCB thuộc ngân sách địa phương và thực tiễn hoạt động thanh tra lĩnh vực này
của Thanh tra Bộ Tài chính trực thuộc Bộ Tài chính.
+ Thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động thanh tra
tài chính từ năm 2009 đến nay, đây là thời điểm mà hoạt động thanh tra tài chính có
nhiều biểu hiện tích cực trước đòi hỏi của việc mở rộng đầu tư các dự án đầu tư
XDCB từ ngân sách nhà nước. Đặc biệt, Luật thanh tra sửa đổi đã được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày
15/11/2010 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2011 khi hoạt động thanh tra cần có sự hoàn
thiện về tổ chức và thực thi nhiệm vụ thanh tra.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp lịch sử kết hợp với logic để rút ra các kết luận có căn cứ khoa
học. Các phân tích được thực hiện trên cơ sở so sánh để đánh giá mức độ phát triển
về qui mô và mang tính lịch sử.
Trong nghiên cứu luận văn còn kết hợp các phương pháp cụ thể khác như:
+ Phương pháp thu thập thông tin
+ Phương pháp biểu đồ, phương pháp bảng thông kê
+ Phương pháp phân tích định tính.
6. Dự kiến những đóng góp của luận văn

- Về mặt khoa học: Luận văn hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề lý luận về
dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước; phân tích những
đặc trưng cơ bản của dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà
nước; làm rõ vai trò quan trọng của hoạt động thanh tra tài chính trong công tác
quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước.
- Về mặt thực tiễn: Nhận diện các nguyên nhân và hạn chế về thực trạng hoạt
động thanh tra tài chính đối với công tác phân bổ vốn đầu tư XDCB thuộc ngân
sách địa phương.
- Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để chỉ ra phương hướng xây dựng và các
giải pháp để nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động thanh tra tài chính đối
với công tác phân bổ vốn đầu tư XDCB thuộc ngân sách địa phương hiện nay.
3
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về thanh tra tài chính đối
với công tác phân bổ vốn đầu tư thuộc ngân sách địa phương.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh tra tài chính đối với phân bổ vốn đầu
tư thuộc ngân sách địa phương.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thanh
tra tài chính với công tác với phân bổ vốn đầu tư thuộc ngân sách địa phương.
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ
THANH TRA TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÔNG TÁC PHÂN BỔ
VỐN ĐẦU TƯ THUỘC NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Cơ sở lý luận về thanh tra tài chính đối với phân bổ vốn đầu tư
từ ngân sách nhà nước thuộc ngân sách địa phương
1.1.1. Ngân sách Nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm NSNN

Khi xuất hiện Nhà nước; Nhà nước cần phải có hệ thống nguồn lực gồm
nhân lực và vật lực để duy trì, bảo vệ Nhà nước; đồng thời thúc đẩy các mặt kinh tế,
chính trị, an ninh, quốc phòng, văn hóa… của nhà nước đó ngày một phát triển. Để
duy trì, bảo vệ và phát triển; Nhà nước đó cần có một nguồn lực kinh tế, nguồn lực
quan trọng đó là NSNN. Vì vậy ở đâu xuất hiện Nhà nước, ở đó tất yếu hình thành
nguồn lực NSNN.
Sự hình thành và phát triển của NSNN gắn liền với sự xuất hiện và phát triển
của nền kinh tế trong các phương thức sản xuất của các thời kỳ. NSNN là một trong
những nguồn lực vô cùng quan trọng, quyết định đến sự thành bại trong quá trình
phát triển nền kinh tế theo định hướng của Đảng và Nhà nước.
NSNN là một phạm trù kinh tế và lịch sử, là một phần trong hệ thống tài chính
quốc gia. Song quan niệm về ngân sách chưa thống nhất, do đó có rất nhiều trường
phái đưa ra các khái niệm khác nhau. Việt Nam, Luật NSNN đã được Quốc hội Việt
Nam thông qua ngày 16/12/2002 đưa ra khái niệm: NSNN là toàn bộ các khoản thu,
chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực
hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
1.1.1.2. Nội dung NSNN
Như vậy, NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hình
thành (Thu NSNN), phân phối – sử dụng (Chi NSNN) quỹ tiền tệ tập trung của Nhà
5
nước khi Nhà nước thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình trên cơ sở pháp luật
quy định.
Thu NSNN: Để có kinh phí cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo luật
định, nhà nước hình thành các khoản thu đó là thuế, phí, lệ phí… Xét về phương diện
pháp lý, thu NSNN bao gồm những khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách để
thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thu NSNN gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ
phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ
chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Vậy xét về bản chất, thu NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để

hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu
của mình. Thu NSNN gồm những khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách; theo
Luật NSNN hiện hành, nội dung các khoản thu NSNN ở Việt Nam bao gồm:
- Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật;
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước;
- Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân;
- Các khoản viện trợ;
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Qua đó ta nhận thấy để tiến hành thu NSNN ta cần phải nhận thức được một
số vấn đề sau:
Một là, thu NSNN cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện các
chức năng nhiệm vụ của nhà nước trên con đường xây dựng và phát triển nền kinh
tế. Song các khoản thu này được thể chế hóa qua chế độ, chính sách và luật pháp
của nhà nước.
Hai là, thu NSNN được căn cứ vào tình hình thực tiễn của nền kinh tế và áp
lực chi tiêu chính phủ; đồng thời là công cụ điều tiết chỉ số giá cả, thu nhập, tổng
sản phẩm quốc nội,… hay chính là công cụ tài khóa để chính phủ điều hành nền
kinh tế.
Ba là, thu NSNN thực hiện trên nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
Bốn là, Thu NSNN phải dựa trên các nguyên tắc đó là: ổn định và lâu dài;
công bằng; đơn giản và rõ ràng, công khai.
6
Chi NSNN: Muốn duy trì hoạt động bộ máy nhà nước; đồng thời hoàn thiện
và phát triển công tác quản lý, điều hành đất nước; cả về mặt kinh tế và mặt chính
trị. Nhà nước phải sử dụng chi tiêu nguồn ngân sách để phục vụ mục tiêu thống trị
của nhà nước. Chi NSNN là các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước;
chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
* Căn cứ vào mục đích và nội dung ta chia chi NSNN theo hai loại đó là:
- Chi cho tiêu dùng chính phủ là những khoản chi làm tăng cơ sở vật chất và

tiềm lực cho nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế; là những khoản chi đầu tư phát triển
và các khoản tích lũy khác.
- Chi cho tích lũy của chính phủ là các khoản chi không tạo ra sản phẩm vật
chất để tiêu dùng trong tương lai; bao gồm chi cho hoạt động sự nghiệp, quản lý
hành chính, quốc phòng, an ninh….
* Căn cứ vào yếu tố thời hạn và phương thức quản lý chia làm bốn loại:
- Chi thường xuyên là các khoản chi nhằm duy trì hoạt động thường xuyên
của nhà nước.
- Chi đầu tư XDCB nhằm làm tăng cơ sở vật chất của đất nước và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
- Chi trả nợ và viện trợ bao gồm các khoản chi để chính phủ thực hiện nghĩa
vụ trả nợ các khoản đã vay trong nước, vay nước ngoài khi đến hạn và các khoản
chi làm nghĩa vụ quốc tế.
- Chi dự trữ là những khoản chi NSNN để bổ sung quỹ dự trữ nhà nước và
quỹ dự trữ tài chính.
Căn cứ vào yếu tố thời hạn và phương thức quản lý đi sâu nghiên cứu chi
đầu tư XDCB nhằm làm tăng cơ sở vật chất của đất nước và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Qua đó có các biện pháp tăng cường kiểm soát chi vốn đầu tư xây dựng cơ
bản của NSNN qua Kho Bạc.
1.1.1.3. Vốn xây dựng cơ bản của NSNN
Khái niệm vốn XDCB của NSNN: Khoản vốn Ngân sách được Nhà nước
dành cho việc dầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội mà
không có khả năng thu hồi vốn cũng như các khoản chi đầu tư khác theo quy định
7
của Luật NSNN.
Đặc điểm vốn XDCB của NSNN: Vốn XDCB của NSNN có một số đặc
điểm như sau:
Thứ nhất Vốn XDCB của NSNN luôn gắn với việc chi đầu tư cơ sở hạ tầng
cho các công trình thuộc sở hữu nhà nước, gắn với bộ máy nhà nước và những
nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà nhà nước đảm đương trong từng giai đoạn,

từng thời kỳ.
- Tất cả các công trình được chi ra từ kinh phí NSNN là thuộc sở hữu nhà
nước. Các công trình đó phục vụ cho mục tiêu quản lý, điều hành của bộ máy quản
lý nhà nước.
- Quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước đều phải thực hiện theo một
lịch trình phát triển nhất định. Lịch trình này diễn ra đều gắn với các nhiệm vụ phát
triển kinh tế, chính trị, xã hội phù hợp với từng giai đoạn và thời kỳ cụ thể gắn liền
với mục tiêu phát triển nền kinh tế do nhà nước đề ra.
- Chi XDCB là một trong các chức năng quan trọng của nhà nước nhằm thiết
lập các hạ tầng cơ sở, tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế, an sinh, xã hội và nhằm
kích thích các thành phần kinh tế phát triển.
Thứ hai chi XDCB của NSNN luôn gắn với quyền lực nhà nước.
Một trong các chức năng quan trọng của nhà nước là chức năng tổ chức, điều
hành nền kinh tế. Chức năng này trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay được
thể hiện bằng vai trò của nhà nước trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Chi
XDCB của NSNN được chi ra từ kinh phí NSNN phục vụ cho việc quản lý điều tiết
vĩ mô nên kinh tế, nên chi XDCB được gắn liền với quyền lực của Nhà nước.
Thứ ba vốn XDCB của NSNN đem lại hiệu quả trên tầm vĩ mô, bao quát trên
nhiều lĩnh vực.
- Vốn XDCB của NSNN được đầu tư cho các công trình thuộc kết cấu hạ
tầng, các công trình kinh tế có tính chất chiến lược, các công trình và dự án phát
triển văn hóa xã hội trọng điểm, phúc lợi công cộng nhằm hình thành thế cân đối
cho nền kinh tế, tạo ra tiền đề kích thích qúa trình vận động vốn của doanh nghiệp
8
và tư nhân nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho người dân.
- Vốn đầu tư XDCB có tầm quan trọng trong việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ
thuật cho nền kinh tế và xã hội, góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý theo định
hướng phát triển nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao
năng suất lao động xã hội.

Thứ tư vốn XDCB của NSNN mang tính chất không khấu hao hoàn trả trực
tiếp như các công trình XDCB khác.
- Các công trình XDCB của NSNN là những công trình phục vụ cho sự
nghiệp phát triển kinh tế lâu dài của đất nước.
- Các công trình XDCB của NSNN phục vị cho an ninh quốc phòng, an sinh
xã hội …
Do đó việc khấu hao hoàn trả các công trình trên không trực tiếp như các
công trình XDCB khác.
Thứ năm vốn XDCB của NSNN có thể kéo dài trong nhiều năm, chi từ
nguồn NSNN qua nhiều thời kỳ.
- Các công trình XDCB của NSNN là những công trình mang ý nghĩa chiến
lược nên thường được xây dựng trong nhiều năm.
- Các công trình XDCB của NSNN kinh phí được lấy từ NSNN; Quỹ NSNN
được hình thành đều dựa vào nguồn thu, các nguồn thu không những dành chi tiêu
về XDCB mà còn dung cho chi thường xuyên, chi trả nợ, chi viện trợ…. phục vụ
cho bộ máy quản lý nhà nước.
- Các công trình XDCB của NSNN thường cần một lượng vốn đầu tư lớn; do
đó việc chi XDCB của NSNN phải kéo dài trong nhiều năm và qua nhiều thời kỳ.
Thứ sáu vốn XDCB của NSNN luôn gắn với sự vận động của các phạm trù
như thu nhập quốc dân, tăng trưởng kinh tế
Như phần trên đã nêu vốn XDCB của NSNN kinh phí được lấy từ NSNN;
Quỹ NSNN được hình thành đều dựa vào nguồn thu; các nguồn thu phụ thuộc từ
thu nhập quốc dân và sự tăng trưởng của nền kinh tế do đó chi XDCB của NSNN
luôn gắn với sự vận động của các phạm trù như thu nhập quốc dân, tăng trưởng
9
kinh tế.
Thứ bảy vốn XDCB của NSNN có những công trình mang ý nghĩa về kinh
tế; song có những công trình mang ý nghĩa an sinh XH, có công trình mang ý nghĩa
an ninh quốc phòng Tóm lại chi XDCB của NSNN mang nhiều sắc thái, ý nghĩa
khác nhau và phụ thuộc theo từng mục tiêu của quản lý nhà nước.

Công tác quản lý của nhà nước, mang ý nghĩa trên tầm vĩ mô và nó ảnh
hưởng đến nhiều mặt của cuộc sống như kinh tế, an sinh, xã hội, an ninh, quốc
phòng, đối ngoại,… do đó việc đầu tư XDCB của NSNN phải đầu tư theo mục tiêu
quản lý nhà nước, nên các công trình được đầu tư về lĩnh vực nào, sẽ mang ý nghĩa
về lĩnh vực đó.
1.1.1.4. Vai trò vốn XDCB của NSNN
Đầu tư XDCB từ NSNN nói chung có vai trò hết sức quan trọng đối với toàn
xã hội, đặc biệt là đối với nền kinh tế đang trên đà chuyển dịch cơ cấu của các nước
đang phát triển:
- Làm tăng tổng cầu trong giai đoạn ngắn hạn của nền kinh tế để kích thích
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đầu tư XDCB từ NSNN làm tăng tổng cầu của nền kinh tế trong ngắn hạn,
qua đó làm tăng nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và đời sống để kích thích tăng
trưởng kinh tế. Mặt khác, do mục đích VĐT phát triển của NSNN là đầu tư cho
duy trì, phát triển hệ thống hàng hóa công cộng và phát triển các ngành, lĩnh vực
kinh tế mũi nhọn có quy mô lớn. Từ đó, khi đầu tư hoàn thành sẽ làm tăng tổng
cung trong dài hạn và tạo tiền đề cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng cho phát triển
kinh tế;
- Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm cho người
lao động .
Đầu tư XDCB từ vốn NSNN là tiềm lực của kinh tế nhà nước, với vai trò chủ
đạo, nó đã định hướng đầu tư của nền kinh tế vào các mục tiêu chiến lược đã định
của Nhà nước, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, sử dụng, bố trí lại hợp lý có
hiệu quả các nguồn lực, tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, giảm tỷ
10
lệ thất nghiệp trong nền kinh tế;
- Phát triển LLSX và củng cố QHSX.
Đầu tư XDCB từ vốn NSNN tạo lập cơ sở vật chất kỹ thuật cho tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, giải
phóng và phân bổ hợp lý các nguồn lực sản xuất. Trên cơ sở đó, làm cho lượng

sản xuất không ngừng phát triển về cả mặt lượng và chất. Đồng thời, lực lượng
sản xuất phát triển đã tạo tiền đề vững chắc củng cố cho quan hệ sản xuất;
- Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với chức năng tạo lập, duy trì, phát triển hệ thống hạ tầng KT-XH và phát
triển kinh tế mũi nhọn, Đầu tư XDCB từ vốn NSNN đã làm phát triển nhanh hệ
thống hàng hóa công cộng, tạo cơ sở vững chắc cho phát triển LLSX…Từ đó cơ sở
vật chất của CNXH sẽ không ngừng được tăng cường, làm nên tiền đề vững chắc cho
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, áp dụng nhanh các thành tựu tiến bộ
khoa học để phát triển đất nước.
Thông qua đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế mũi nhọn có lợi thế
so sánh quốc gia, Đầu tư XDCB từ vốn NSNN đã tạo điều kiện cho nền kinh tế
tham gia phân công lao động quốc tế và áp dụng nhanh các thành tựu tiến bộ khoa
học kỹ thuật của nhân loại thông qua nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ tiên
tiến. Quá trình tham gia phân công lao động quốc tế và áp dụng nhanh tiến bộ khoa
học kỹ thuật làm cho nền kinh tế chủ động trong hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng;
- Phát triển nền kinh tế một cách bền vững.
Đầu tư XDCB từ vốn NSNN một mặt đầu tư cho phát triển kinh tế, một mặt
đầu tư cho sự nghiệp xóa đói nghèo, bảo vệ môi trường sinh thái, giải quyết các vấn
đề xã hội. Dưới giác độ đó, ngoài tác động làm tăng trưởng kinh tế, an ninh xã hội
được duy trì và kiềm chế được phần nào mặt trái của kinh tế thị trường làm cho nền
kinh tế phát triển một cách bền vững.
11
- Không ngừng nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Từ vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, vốn đầu tư của NSNN đã đường
hướng, điều tiết đầu tư của toàn xã hội, tác dụng vào tổng cung và tổng cầu của nền
kinh tế cùng với hiệu ứng phản hồi sau tác động đã cung cấp kịp thời thông tin cho
Nhà nước để điều chỉnh những tác động của mình. Thông qua điều chỉnh tác động

vĩ mô theo yêu cầu thường xuyên biến đổi của thực tiễn làm cho năng lực quản lý
của Nhà nước không ngừng được nâng cao.
Đầu tư XDCB từ vốn NSNN được quản lý theo một định chế thống nhất
chung của Nhà nước TW. Do đó, nghiên cứu về quản lý Đầu tư XDCB từ vốn
NSNN trên địa bàn là nghiên cứu cơ chế quản lý ĐT XDCB từ vốn NSNN gắn với
việc tổ chức thực hiện của địa phương.
1.1.1.5. Phạm vi chi vốn XDCB của NSNN
- Vốn đầu tư XDCB: là khoản chi tài chính nhà nước được đầu tư cho các
công trình thuộc kết cấu hạ tầng, các công trình kinh tế có tính chất chiến lược, các
công trình và dự án phát triển văn hóa xã hội trọng điểm, phúc lợi công cộng….
- Tất cả các chi đầu tư XDCB đều sử dụng từ kinh phí NSNN.
Vì vậy phạm vi chi XDCB của NSNN là toàn bộ các công trình XDCB được
chi từ NSNN (vốn NSNN, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước và vốn hỗ trợ
phát triển chính thức ODA)
1.1.1.6. Nội dung chi vốn XDCB của NSNN
Một trong các chức năng quan trọng của Nhà nước là chức năng định hướng
phát triển và điều tiết nền kinh tế. Chức năng này trong cơ chế thị trường ở nước ta
hiện nay được thể hiện bằng vai trò của Nhà nước trong quản lý và điều tiết vĩ mô
nền kinh tế. NSNN với các vai trò của nó được coi là một công cụ quan trọng trong
việc thực hiện chức năng nói trên của nhà nước.
Vốn đầu tư XDCB của NSNN là những khoản chi mang tính chất tích lũy
phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng gắn với việc xây dựng cơ sở hạ tầng,
nhằm tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho việc bỏ vốn đầu tư của các doanh
12
nghiệp vào các lĩnh vực cần thiết, phù hợp với mục tiêu của nền kinh tế. Hay nói
khác đi, việc chi XDCB của NSNN nhằm mục đích tạo ra một sự khởi động ban
đầu, kích thích quá trình vận động các nguồn vốn trong xã hội để hướng tới sự tăng
trưởng.
Chi đầu tư XDCB của NSNN có tầm quan trọng trong việc tạo ra cơ sở vật

chất kỹ thuật cho nền kinh tế và xã hội, góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý
theo định hướng của Nhà nước, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng
cao năng suất lao động xã hội.
1.1.2. Khái niệm về phân bổ vốn đầu tư XDCB, các dự án đầu tư
XDCB thuộc ngân sách
* Vốn đầu tư
Vốn ĐTXD là toàn bộ các khoản chi phí được sử dụng cho hoạt động đầu tư
xây dựng nhằm đạt được những mục đích nhất định. Đối với một dự án thì vốn
ĐTXD là toàn bộ các chi phí từ khi khởi động dự án đến khi đưa dự án vào khai
thác sử dụng, bao gồm: Chi phí cho việc khảo sát, quy hoạch xây dựng, chuẩn bị
đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án; chi phí xây lắp, mua sắm thiết bị và các chi phí
khác có liên quan đến khi đưa dự án vào khai thác, sử dụng.
* Vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước.
- Vốn ĐTXD nhà nước là vốn ĐTXD do chủ thể Nhà nước tiến hành tạo lập,
sử dụng và thống nhất quản lý theo pháp luật nhằm mục tiêu phát triển đất nước
(gọi ngắn gọn là vốn nhà nước).
- Vốn đầu tư XDCB từ ngân sách nhà nước là một phần của vốn đầu tư phát
triển của nhà nước được hình thành từ sự huy động của Nhà nước dùng để chi cho
đầu tư XDCB nhằm xây dựng và phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật và kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội cho nền kinh tế quốc dân.
* Phân bổ vốn đầu tư:
- Phân bổ vốn đầu tư là việc phân chia tiền và các tài sản hợp pháp khác để
thực hiện các hoạt động đầu tư.
* Khái niệm về đầu tư XDCB, các dự án đầu tư XDCB
13
Đầu tư là hoạt động bỏ nhân lực, vật lực, tài lực để tiến hành một hoạt động
nào đó nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai. Đầu tư có thể phân chia
thành hai loại: Đầu tư phi xây dựng và đầu tư xây dựng.
Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động với chức năng tạo ra tài sản cố định
cho nền kinh tế thông qua các hình thức xây dựng mới, mở rộng, hiện đại hóa

hoặc khôi phục các tài sản cố định và các công việc liên quan khác trên cơ sở tính
toán hiệu quả và theo một kế hoạch đã định nhằm duy trì và tạo thêm các tiềm lực
mới cho nền kinh tế, xã hội. Kết quả hoạt động ĐTXDCB là tạo ra cơ sở vật chất -
kỹ thuật mới, làm thay đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế đất nước.
Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để
tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự
tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm
hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian nhất định.
Hoạt động ĐTXDCB chủ yếu được quản lý theo dự án (một số ít được quản
lý theo chương trình, ví dụ như: Chương trình kiên cố hoá trường, lớp học, Chương
trình đường giao thông nông thôn). Dự án đầu tư để xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp
các công trình, mua sắm và lắp đặt thiết bị vào công trình gọi là dự án đầu tư xây
dựng. Dự án ĐTXD có thể được nhìn nhận trên các khía cạnh sau đây:
- Về mặt hình thức, dự án ĐTXD là một tập hợp những đề xuất có liên quan
đến việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo những công trình xây dựng
nhằm mục đích phát triển, duy trì, nâng cao chất lượng công trình hoặc sản phẩm,
dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định.
- Về mặt nội dung, dự án ĐTXD bao gồm tập hợp các yếu tố và hoạt động có
liên quan với nhau được thực hiện theo một kế hoạch nhằm đạt được các mục tiêu
đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua
việc sử dụng các nguồn lực xác định. Giá trị hay chi phí của các nguồn lực này
chính là vốn ĐTXD dự án. Những kết quả cụ thể do việc thực hiện dự án ĐTXD
mang lại là các công trình xây dựng, nghĩa là sản phẩm của việc thực hiện dự án
14
ĐTXD có thể gồm một hoặc nhiều loại công trình.
- Trên giác độ tài chính, quá trình triển khai dự án ĐTXD có thể hiểu là quá
trình chi tiêu nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật và làm tăng cơ sở hạ tầng kinh tế,
xã hội. Với cách nhìn nhận này, người ta coi các khoản chi phí thực hiện các dự án
ĐTXD là chi cho tích luỹ.

Dự án ĐTXD được xem xét, đánh giá theo một chu kỳ từ khâu chuẩn bị đầu
tư, đến thực hiện đầu tư và kết thúc xây dựng, đưa vào khai thác sử dụng. Việc triển
khai các dự án đầu tư xây dựng thực chất là quá trình chi tiêu về sức lao động, vật
liệu, thiết bị (bỏ vốn đầu tư) theo thiết kế, quy chuẩn và tiêu chuẩn nhất định để tạo
ra công trình xây dựng nhằm mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội
trong dài hạn. Như vậy, sản phẩm của việc thực hiện dự án ĐTXD chính là những
công trình xây dựng. Hay nói khác đi, công trình xây dựng là sản phẩm của quá
trình thực hiện dự án ĐTXD, được tạo thành bởi sức lao động của con người, vật
liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định vị với đất, được xây
dựng theo thiết kế.
Việc phân loại dự án ĐTXD có thể theo nhiều tiêu thức khác nhau. Để thích
ứng với nội dung đối tượng nghiên cứu đề tài, có thể phân theo 3 tiêu thức chủ yếu
sau đây:
Thứ nhất, theo quy mô và tính chất, dự án ĐTXD sử dụng vốn nhà nước
được phân loại thành: Dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội xem xét, quyết định
về chủ tương đầu tư; các dự án còn lại được phân thành 3 nhóm: A, B, C theo
những đặc trưng khác nhau nhằm phục vụ công tác quản lý. Đây cũng là cách phân
loại dự án đầu tư theo quy định hiện hành về quản lý dự án đầu tư xây dựng [34].
Thứ hai, theo nguồn vốn đầu tư, dự án ĐTXD được phân thành:
- Dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước;
- Dự án sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước;
- Dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước;
- Dự án sử dụng vốn khác bao gồm cả vốn tư nhân hoặc sử dụng hỗn hợp
15
nhiều nguồn vốn.
Thứ ba, việc quản lý của Nhà nước về dự án ĐTXD:
- Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước kể cả các dự án thành
phần, Nhà nước quản lý toàn bộ quá trình đầu tư xây dựng từ việc xác định chủ trương
đầu tư, lập dự án, quyết định đầu tư, lập thiết kế, dự toán, lựa chọn nhà thầu, thi công

xây dựng đến khi nghiệm thu, bàn giao và đưa công trình vào khai thác sử dụng;
- Đối với dự án của doanh nghiệp sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh,
vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư phát triển của doanh
nghiệp nhà nước, Nhà nước quản lý về chủ trương và quy mô đầu tư. Doanh
nghiệp có dự án tự chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện và quản lý dự án theo các
quy định của pháp luật có liên quan;
- Đối với các dự án sử dụng vốn khác bao gồm cả vốn tư nhân, chủ đầu tư tự
quyết định hình thức và nội dung quản lý dự án. Đối với các dự án sử dụng hỗn hợp
nhiều nguồn vốn khác nhau thì các bên góp vốn thoả thuận về phương thức quản lý
hoặc quản lý theo quy định đối với nguồn vốn có tỷ lệ phần trăm (%) lớn nhất trong
tổng mức đầu tư.
Trong cơ chế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, dự án
ĐTXD có thể sử dụng một nguồn vốn, cũng có thể sử dụng nhiều nguồn vốn tuỳ
thuộc vào từng lĩnh vực và sự khuyến khích đầu tư của nhà nước. Nghĩa là, một dự
án ĐTXD có thể sử dụng 100% vốn nhà nước hoặc cũng có thể sử dụng một phần
vốn nhà nước hoặc không sử dụng vốn nhà nước.
Cách phân loại này có liên quan trực tiếp đến giới hạn nội dung nghiên cứu
của Đề tài. Các dự án ĐTXDCB sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước là các dự án sử
dụng 100% vốn từ ngân sách nhà nước (thông qua cân đối thu chi ngân sách nhà
nước hàng năm được Quốc hội thông qua); đồng thời chủ đầu tư các dự án này
được Nhà nước trao quyền trực tiếp quản lý, sử dụng vốn (chịu sự quản lý, kiểm
soát trực tiếp của các chủ thể Nhà nước). Các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà
nước được quản lý về tài chính theo nguyên tắc chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả thông
qua việc thực hiện hệ thống quản lý: Định mức, đơn giá, thiết kế, dự toán, đấu thầu,
16
phương án tài chính, hiệu quả đầu tư, v.v cùng với việc thanh tra, kiểm tra quá
trình thực hiện hệ thống quản lý đó.
* Dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước
Theo quy định tại Điều 3, Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của
Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước:

“Điều 3. Chi ngân sách nhà nước gồm :
1. Chi đầu tư phát triển về :
a) Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có
khả năng thu hồi vốn;
b) Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức
tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc
lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật;
c) Chi bổ sung dự trữ nhà nước;
d) Chi đầu tư phát triển thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án
nhà nước;
đ) Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật.”
Dự án ĐTXDCB sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước luôn gắn với quy hoạch,
kế hoạch và thường có quy mô vốn lớn, chi tiêu kéo dài qua nhiều năm ngân sách; có
phạm vi ảnh hưởng sâu rộng đến sự chuyển dịch và phát triển kinh tế xã hội.
1.1.3. Vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách địa phương.
Theo quy định hiện hành vốn đầu tư của ngân sách địa phương bao gồm:
+ Vốn đầu tư thuộc cân đối ngân sách;
+ Vốn đầu tư từ nguồn thu tiền sử dụng đất;
+ Vốn đầu tư từ nguồn thu từ xổ số kiến thiết;
+ Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách trung ương hỗ trợ có mục tiêu;
+ Vốn bổ sung từ ngân sách trung ương thuộc nguồn vốn trái phiếu Chính phủ;
+ Vốn đầu tư từ nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia.
+ Vốn đầu tư huy động theo Khoản 3, Điều 8 Luật Ngân sách Nhà nước.
+ Các nguồn vốn khác.
17
1.1.4. Dự án đầu tư XDCB sử dụng vốn ngân sách địa phương.
- Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có
khả năng thu hồi vốn do địa phương quản lý;
- Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài
chính của Nhà nước theo quy định của pháp luật;

- Phần chi đầu tư phát triển trong các chương trình quốc gia do các cơ quan
địa phương thực hiện;
- Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật.
1.2. Mục đích, vai trò của hoạt động thanh tra tài chính với phân
bổ vốn đầu tư XDCB thuộc ngân sách địa phương
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của Thanh tra tài chính
1.2.1.1. Khái niệm về thanh tra tài chính
1.2.1.1.1. Khái niệm về thanh tra
Thanh tra luôn gắn liền với quản lý nhà nước với tư cách là một chức năng,
một khâu hay một công cụ để quản lý nhà nước. Thanh tra luôn mang tính quyền
lực nhà nước, thực hiện sự tác động của chủ thể quản lý lên các đối tượng bị quản
lý. Thanh tra và kiểm tra là hai phạm trù tương đối gần nhau; hoạt động thanh tra
luôn gắn liền với hoạt động kiểm tra.
Ở nước ta, theo Từ điển tiếng Việt:
+ Thanh tra là “kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan,
xí nghiệp” ;
+ Kiểm soát là “xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định”;
+ Kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét” [11].
Như vậy, thanh tra là hoạt động kiểm soát, xem xét, đánh giá, xử lý của cơ
quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của
cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền được quy định nhằm đưa
ra đánh giá, kết luận đúng, sai, kèm theo các chứng lý, kiến nghị xử lý, khắc phục
và ngăn ngừa các sai phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế chính sách, tăng cường
pháp chế, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà nước, của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
18
Tuỳ thuộc vào hệ thống tổ chức quản lý nhà nước và nhiệm vụ quản lý nhà
nước trong từng lĩnh vực mà nhiệm vụ thanh tra được phân theo những lĩnh vực
khác nhau. Một trong những nhiệm vụ thanh tra đặc biệt quan trọng là thanh tra tài
chính. Thanh tra tài chính là hoạt động thanh tra gắn liền với công tác quản lý nhà
nước về tài chính; là cụ thể hoá một chức năng quan trọng của tài chính nhà nước -

“chức năng điều chỉnh và kiểm soát” [13].
1.2.1.1.2. Khái niệm về thanh tra tài chính:
Từ những phân tích trên, khái niệm về thanh tra tài chính như sau: Thanh tra
tài chính là hoạt động kiểm soát, xem xét, đánh giá của cơ quan quản lý nhà nước
đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ về quản lý tài chính, sử dụng
vốn và tài sản nhà nước của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm
quyền được quy định, nhằm phòng ngừa, phát hiện, xử lý các sai phạm về tài chính;
phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; bảo vệ lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
Để làm rõ thêm khái niệm thanh tra tài chính, chúng ta cần phân biệt hoạt động
thanh tra tài chính với hoạt động kiểm tra tài chính về những nội dung sau đây:
- Giống nhau cơ bản:
+ Về mục đích hoạt động: Thanh tra tài chính và kiểm tra tài chính đều nhằm
phát hiện, phòng ngừa, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, chính sách chế độ về
tài chính góp phần quản lý tốt tài chính, ngân sách nhà nước; bảo vệ lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác và góp phần hoàn thiện cơ
chế, chính sách quản lý kinh tế, tài chính.
+ Về phương pháp hoạt động: Thanh tra tài chính và kiểm tra tài chính đều
căn cứ hồ sơ, tài liệu, báo cáo của các đơn vị và tình hình hoạt động thực tế để so
sánh, đối chiếu, phân tích, đánh giá, nhận xét chính xác, khách quan; đề xuất các
kiến nghị thích hợp.
- Khác nhau cơ bản:
+ Về nguồn gốc xuất hiện và tồn tại: Do kiểm tra xuất hiện trước thanh tra
19
nên có thể nói, kiểm tra tài chính xuất hiện trước thanh tra tài chính. Kiểm tra xuất
hiện và tồn tại trước khi có sự ra đời của nhà nước, từ khi con người biết lao động
một cách có ý thức đã xuất hiện yêu cầu tất yếu là phải kiểm tra; còn thanh tra (như
đã trình bày) xuất hiện và tồn tại gắn liền với nhà nước, khi nhà nước tiêu vong thì
thanh tra sẽ mất đi nhưng kiểm tra sẽ vẫn còn tồn tại với chức năng quản lý đơn

thuần chăm lo đến lợi ích của xã hội.
+Về chủ thể: Giữa kiểm tra tài chính và thanh tra tài chính có một mảng giao
thoa về chủ thể, đó là Nhà nước. Nhà nước tiến hành cả hoạt động thanh tra và kiểm
tra. Tuy nhiên, chủ thể tiến hành kiểm tra tài chính rộng hơn thanh tra tài chính rất
nhiều. Chủ thể tiến hành kiểm tra tài chính cũng có thể là Nhà nước cũng có thể là một
chủ thể phi Nhà nước, chẳng hạn như hoạt động kiểm tra của tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ (Đảng, Công đoàn, Mặt trận, Đoàn thanh
niên, ) hay hoạt động kiểm tra nội bộ trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, v.v
Chủ thể tiến hành thanh tra tài chính là các cơ quan thanh tra của Nhà nước, được giao
nhiệm vụ thanh tra tài chính, hoạt động theo quy định của pháp luật về thanh tra.
+ Về đối tượng (khách thể): Đối tượng của thanh tra tài chính là các cơ quan,
đơn vị quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính nhà nước và chịu sự quản lý của
nhà nước; còn đối tượng của kiểm tra tài chính rộng hơn, bao gồm tất cả các đối
tượng thuộc quyền quản lý của chủ thể kiểm tra tài chính.
+ Về thời gian tiến hành: Thông thường thời gian tiến hành một cuộc thanh
tra tài chính dài hơn thời gian tiến hành một cuộc kiểm tra tài chính, điều này xuất
phát từ mục đích và phương pháp tiến hành của chủ thể.
+ Về tính chất pháp lý: Thanh tra để phát hiện, xử lý sai phạm nên tính chất
pháp lý cao hơn, kết luận yêu cầu phải chặt chẽ hơn; còn kiểm tra chủ yếu để đánh
giá và nhận xét, điều chỉnh các quyết định quản lý nên tính chất pháp lý thấp hơn.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì kiểm tra tài chính bao hàm thanh tra tài chính,
hay nói một cách khác, thanh tra tài chính là một loại hình đặc biệt của kiểm tra tài
chính mà ở đó nó luôn luôn do một loại chủ thể là cơ quan nhà nước tiến hành và
luôn luôn mang tính quyền lực nhà nước. Ngược lại, nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì thanh
20

×