Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Mối quan hệ pháp luật giữa người lao động và người sử dụng lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (30.6 KB, 4 trang )

MỞ ĐẦU
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, ngoài việc thiết lập quan hệ pháp
luật với cơ quan quản lí nhà nước và các tổ chức doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế khác, doanh nghiệp còn có các quan hệ pháp luật trong nội bộ doanh
nghiệp, trong đó có các quan hệ pháp luật hình thành trong quá trình sử dụng
và thuê mướn lao động. Để tránh các vấn đề tranh chấp xảy ra giữa người lao
động và sử dụng lao động, chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu về đặc điểm của quan hệ
pháp luật giữa người lao động và người sử dụng lao động.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Trong mối quan hệ pháp luật giữa người lao động và người sử dụng
lao động, người lao động phải tự mình thực hiện công việc.
Điều đó có nghĩa là người lao động phải tự mình thực hiện công việc
bằng các hành vi lao động để thực hiện công việc mà không được chuyển giao
nghĩa vụ đó cho người khác, đặc biệt là người không có quan hệ lao động với
người sử dụng lao động đó. Quan hệ pháp luật giữa NLĐ và NSDLĐ khác hẳn
với quan hệ lao động ở dạng khoán việc dân sự do luật dân sự điều chỉnh hay
quan hệ lao động giữa NLĐ là thành viên của gia đình tiến hành thực hiện công
việc trong quá trình duy trì sinh hoạt gia đình do luật hôn nhân và gia đình
diều chỉnh ( Khoản 4 điều 3 BLLĐ ). Những lí do căn bản dẫn đến việc xác định
nghĩa vụ thông thường nhưng có tính bất di bất dịch đối với người lao động có
thể thấy là:
- Về mặt hình thức, NLĐ đã cam kết với NSDLĐ về việc thực hiện công việc. Sự
cam kết của NLĐ là điều được xác định và không thể thay đổi trừ trường hợp
họ không thực hiện được hoặc quan hệ lao động đó bị chấm dứt
- Về mặt nội dung, NLĐ tham gia quan hệ lao động là với mục đích bán sức lao
động của mình cho NSDLĐ. Sức lao động đó chỉ có và tồn tại trong bản than
NLĐ đó mà không thể tồn tại trong bất kì NLĐ nào khác.
- Về khía cạnh pháp lí, Bộ luật lao động đã quy định về nghĩa vụ bắt buộc của
NLĐ. Do đó, thực hiện công việc theo hợp đồng lao động đã cam kết chính là
tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật trong lĩnh vực
hợp đồng lao động.


2. Người sử dụng lao động có quyền quản lí đối với người lao động
Đặc điểm này nói lên quyền kiểm soát của NSDLĐ đối với quá trình thực
hiện công việc của NLĐ, bao hàm nhiều khía cạnh, có tính chất toàn diện của
NSDLĐ. Nội dung của quyền quản lí lao động gồm quyền tuyển chọn, phân
công, sắp xếp, điều động, giám sát, xử phạt,…..đối với NLĐ.
Tuy nhiên, mọi hoạt động thuộc hành vi quản lí của NSDLĐ phải được
thực hiện trong khuôn khỏ của pháp luật đồng thời NSDLĐ phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về hành vi quản lí của mình.
Sở dĩ NSDLĐ có quyền quản lí đối với NLĐ là vì:
- Họ được thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản;
- Họ thực hiện quyền kiểm soat với tư cách là người mua sức lao động;
- Họ thực hiện quyền năng pháp lí do pháp luật trao cho;
- Xét ở góc độ chung nhất và có tính chất “tự nhiên” là họ phải thực hiên
hành vi quản lí sản xuất, cái không thể thiếu trong quá trình sản xuất-kinh
doanh. Điều này không chỉ đúng với nguyên lí diều khiển mà còn liên quan đến
mục tiêu và quá trình sản xuất, kinh doanh.
Qua đó ta rút ra được tính đặc trưng của quan hệ pháp luật giữa NLĐ và
NSDLĐ, đó là trong quan hệ pháp luật này, NLĐ bị lệ thuộc về mặt pháp lí vào
NSDLĐ. Đó là sự lệ thuộc về mặt pháp lí, bàn về khía cạnh này của NLĐ, có ý
kiến cho rằng đó là vấn đề có xuất phát điểm từ “sự lệ thuộc kinh tế”. Tuy nhiên,
sự lệ thuộc pháp lí có thể xuất phát và có cơ sở kinh tế nhưng không hẳn do “sự
lệ thuộc kinh tế” tạo ra.
3. Trong quá trình xác lập, duy trì, chấm dứt quan hệ pháp luật giữa
người lao động và người sử dụng lao động có sự tham gia của đại diện lao
động
Đây chính là tính đặc thù của quan hệ pháp luật giữa NLĐ và NSDLĐ so
với các quan hệ lao động khác trong xã hội. Sự tham gia của đại diện lao động
vào quá trình xác lập, duy trì, chấm dứt quan hệ lao động giữa NLĐ và NSDLĐ
được thực hiện thong qua nhiều biện pháp gián tiếp (tham gia xây dựng kế
hoạch, quy hoạch, chính sách, pháp luật lao động…) và trực tiếp (giúp đỡ cho

NLĐ trong quá trình kí kết hợp đồng lao động, đại diện và bảo vệ NLĐ trong
quá trình giải quyết tranh chấp lao động…)
Việc tham gia của đại diện lao động, đặc biệt là tổ chức công đoàn có ý
nghĩa rất quan trọng. Bởi vì, với tư cách cá nhân, NLĐ không có nhiều khả
năng đạt được sự bình đẳng thực tế với NSDLĐ, cái về mặt lí thuyết luôn được
nhắc đến. Yếu tố tập thể trong hoạt động của đại diện lao động là một trong
những đảm bảo tốt cho NLĐ trong quan hệ lao động. Sự tham gia của các tổ
chức công đoàn trong lĩnh vực lao động là đòi hỏi tự nhiên xuất phát từ chính
nhu cầu liên kết để bảo vệ quyền lợi cơ bản gắn liền với lao động. Trên thế giới
từ trước đến nay, các hoạt động công đoàn đã trở thành vấn đề có tính truyền
thống trong lao động. Người ta sẽ rất ngạc nhiên nếu như không có hoạt dộng
công đoàn. Tuy nhiên, tương ứng với từng chế độ kinh tế-chính trị-xã hội sẽ có
các biểu hiện khác nhau trong hoạt động của công đoàn phù hợp với công nhận
về mặt chính trị-xã hội vá sự công nhạn của páp luật quốc gia.
Việc tham gia của đại diện nhưng NSDLĐ, mặc dù vẫn tồn tại một cách
cần thiết nhưng không phải là đặc trưng và sánh ngang về mặt tính chất so với
việ tham gia của đại diện lao động, của các tổ chức công đoàn. Các hiệ p hội của
giới sử dụng lao động có thể rất mạnh và có vai trò nhiều mặt trong đời sống
xã hội nhưng về phương diện lao động, sự tham gia của các đại diện lao động,
đặc biệt là tổ chức công đoàn như là điều kiện cho môi trường lao động dân
chủ và công bằng hơn trong xã hội hiện đại.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Qua các phân tích ở trên, ta thấy được phần nào tầm quan trọng của mối
quan hệ pháp luật giữa người lao động và người sử dụng lao động. Qua đó, để
người lao động có đủ hiểu biết để thực hiện đầy đủ các điều kiện cần thiết
trước khi kí kết hợp đồng lao động. Cũng như người sử dụng lao động có thể
thực hiện đầy đủ quyền lợi cho người lao động theo cam kết của pháp luật.

×