Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Giải pháp phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.27 KB, 22 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ VI năm 1986, chính sách mở cửa đổi mới
của Nhà nước đã được áp dụng và dần đưa nền kinh tế trong nước phát triển
đi lên, vượt qua cơn khủng hoảng. Thị trường trong nước dần được mở rộng,
tạo điều kiện thuận lợi phát triển sản xuất hàng hoá. Sự kiện Vịêt Nam gia
nhập tổ chức thương mại thế giới WTO là một bước ngoặt quan trọng tạo điều
kiện phát triển thị trường trong nước và trên toàn thế giới. Nền kinh tế Việt
Nam được khôi phục một cách nhanh chóng và có bước tiến bộ, để có được
những thành quả đó phải kể đến sự đóng góp to lớn của công tác phát triển
hàng hoá, dịch vụ.
Với mục tiêu phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN
thì việc đẩy mạnh thị trường hàng hoá, dịch vụ đang là mối quan tâm đặc biệt
của Nhà nước ta. Phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ là một mục tiêu quan
trọng được Nhà nước đặt ra để phát triển nền kinh tế theo định hướng mới
trong thời kì quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội. Những vấn đề mà đề tài giải
quyết sẽ giúp chúng ta hiểu thêm những yếu tố liên quan đến việc phát triển
thị trường hàng hoá và dịch vụ trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Biết rõ thực trạng và những nhân tố chính góp phần xây dựng phát triển thị
trường hàng hoá dịch vụ trong nước để từ đó đưa ra giải pháp cần thiết.
Đề tài gồm có 4 nội dung chính:Những điều kiện phát triển thị trường,
những nhân tố tác động đến thị trường hàng hoá dịch vụ, những nhân tố giúp
phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ; việc phát triển thị trường bị ảnh
hưởng bởi các vấn đề khác.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển thị trường trong nước
và được sự thống nhất của các thành viên, nhóm 11 lớp KTCT 22 đã quyết
định chọn đề tài này để có thể rừ đó đưa ra giải pháp phù hợp.
Chúng em xin chân thành cảm ơn giảng viên Đỗ Thị Kim Thoa đã nhiệt
tình giúp chúng em hoàn thành tiểu luận này.
Giải pháp phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam


Sinh viên : Đào Thị Thuỳ Dương - Nhóm 11
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
NỘI DUNG ĐỀ CƯƠNG SƠ BỘ.
1. Điều kiện xuất hiện thị trường hàng hoá và dịch vụ.
a. Việc chuyển dần từ mua bán hàng hoá với cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp sang mua bán theo cơ chế thị trường.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI diễn ra trong bối cảnh sai lầm của
đợt tổng cải cách giá - lương - tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế Việt Nam
càng trở nên khó khăn (tháng 12 năm 1986, giá bán lẻ hàng hóa tăng 845,3%).
Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình hình
kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi
lớn. Nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Đại hội toàn
quốc lần VI năm 1986 đã đánh dấu bước ngoặt phát tiển trong nền kinh tế của
Việt Nam. Nước ta chuyển hướng phát triển hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng XHCN. Nhận thức rõ vị trí của thị trường trong quá trình chuyển
đổi nền kinh tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương và quyết
sách lớn để thị trường phát triển lành mạnh, đúng hướng. Sự thay đổi về quan
điểm và chính sách kinh tế đã đem lại những tác động tích cực trên thị trường
hàng hoá, dịch vụ. Thị trường hàng hoá, dịch vụ nước ta từ sau năm 1986 đã
có sự biến đổi về chất và phát triển vượt bậc về lượng.
Kế hoạch 5 năm lần thứ 4 (1986-1990) được ủy ban Kế hoạch Nhà nước
tổ chức nghiên cứu ngay từ năm 1982 bằng việc thành lập và tổ chức lại công
tác kế hoạch hóa dài hạn trong nội bộ cơ quan. Tháng 4 năm 1986, trước Đại
hội Đảng lần thứ VI, ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã trình Thường vụ Hội
đồng Bộ trưởng báo cáo "Tư tưởng chỉ đạo xây dựng kế hoạch 5 năm 1986-
1990". Báo cáo đã đánh giá toàn diện việc thực hiện kế hoạch 5 năm 1981-
1985, đồng thời xác định những nội dung, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch 5
năm 1986-1990 là: ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất và văn
hoá của nhân dân; đồng bộ hóa sản xuất và tăng cường một bước cơ sở vật

chất kỹ thuật; xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất mới XHCN, sử dụng tốt
các thành phần kinh tế khác, hình thành cơ chế quản lý mới; và bảo đảm nhu
cầu củng cố quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.Chính phủ đã áp dụng
các biện pháp ổn định tài chính và tiền tệ để chống lạm phát; áp dụng cơ chế
thị trường trong lĩnh vực giá cả, tỷ giá, lãi suất, xoá bỏ cơ chế nhà nước định
giá; xác lập cơ chế giá cả do thị trường định (hiện giá cả hàng hóa và dịch vụ
hầu hết do thị trường định, chỉ còn một số giá như điện, nước, bưu chính, viễn
thông, vận tải, hàng không... do các tổng công ty ấn định); thực hiện tự do hóa
thương mại; bãi bỏ chế độ Nhà nước độc quyền phân phối hàng hóa và dịch
vụ, cho phép mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được kinh
doanh thương mại...Việc phát triển hàng hoá, dịch vụ trở thành một nhiệm vụ
quan trọng trong chính sách thay đổi của Nhà nước.
Sinh viên : Đào Thị Thuỳ Dương - Nhóm 11
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mục tiêu của việc thay đổi chính sách, cơ chế là: tập trung phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa; xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý; ưu tiên 3 chương trình kinh tế mới: chương trình
lương thực- thực phẩm, chương trình hàng tiêu dùng và chương trình hàng
xuất khẩu.
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một trong những nội
dung quan trọng nhất của đường lối đổi mới của Đảng.Chuyển đổi từ chính
sách đơn thnàh phần sở hữu sang nền kinh tế nhiều thành phần với sự tồn tại
của nhiều hình thức sở hữu. Trong GDP, xu hướng chung là tỷ trọng kinh tế
Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể giảm, trong khi tỷ trọng kinh tế tư
nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên. Trước năm 1990, kinh tế
tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gần như chưa có gì, nhưng đến
nay đã chiếm trong GDP tương ứng là 8,9% và 15,9%. Trong khi đó, tỷ trọng
kinh tế Nhà nước đã giảm từ 40,2% năm 1995 xuống còn 38,4% năm 2005;
kinh tế tập thể giảm tương ứng từ 10,1% xuống còn 6,8%; kinh tế cá thể giảm

từ 35,9% xuống còn dưới 30%.
Xu hướng này sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới, do những doanh nghiệp
tư nhân tiếp tục được thành lập nhiều trong những năm qua từ khi Luật Doanh
nghiệp ra đời (trong 5 năm đã gấp 2,6 lần về số doanh nghiệp và trên 6 lần về
số vốn đăng ký so với 10 năm trước đó); quá trình tác cổ phần hóa, giao, bán,
khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh hơn; do năng lực của
khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được gia tăng sẽ tạo thành làn
sóng mới cả về số vốn đăng ký mới, bổ sung vốn và số vốn thực hiện, cả về
cơ cấu nước, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO. Phát triển kinh tế nhiều
thành phần có tác động về nhiều mặt: giải phóng sức sản xuất, huy động và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực; tạo ra cạnh tranh - động lực của tăng trưởng;
thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, huy
động sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế - xã hội; là con đường xây
dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất...
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ đẩy mạnh phát triển thị trường hàng
hoá dịch vụ theo cả chiều rộng và chiều sâu. Cơ cấu thành phần kinh tế đã
tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh
tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Công tác của ủy ban Kế hoạch Nhà
nước đã từng bước được đổi mới theo phương hướng chung của nền kinh tế,
nhất là tập trung vào tăng cường kế hoạch hóa vĩ mô, tiếp tục chuyển từ kế
hoạch hóa tập trung sang kế hoạch hóa định hướng, bảo đảm những cân đối
tổng thể cơ bản của nền kinh tế.. Hoạt động của các Vụ, Viện trong ủy ban đã
chuyển dần sang nghiên cứu các chuyên đề, dự án phân tích... Cơ cấu kinh tế
đã có những chuyển biến tích cực. Từ năm 1990-2003 tỷ trọng nông lâm ngư
nghiệp trong GDP giảm từ 38,7% xuống còn 21,7%, công nghiệp và xây dựng
tăng từ 22,6% lên 40,5%; dịch vụ từ 35,7% lên 40,5%
Sinh viên : Đào Thị Thuỳ Dương - Nhóm 11
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Chính sách đổi mới đặc biệt ưu tiên 3 chương trình kinh tế: chương trình
lương thực- thực phẩm, chương trình hàng tiêu dùng và chương trình hàng
xuất khẩu. Quán triệt các quan điểm đổi mới của Đại hội Đảng, ủy ban Kế
hoạch Nhà nước đã triển khai cụ thể hóa thành các kế hoạch và chương trình
hành động, trong đó nổi bật là ba chương trình kinh tế lớn: chương trình
lương thực, chương trình hàng tiêu dùng và chương trình xuất khẩu. Nền kinh
tế đã thu được một số thành tựu đáng khích lệ như sản lượng lương thực đã đủ
ăn, có dự trữ và còn có phần để xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 2
lần hơn so với kế hoạch 5 năm trước, bước đầu đã giải phóng được lực lượng
sản xuất xã hội, động viên nhân dân tích cực tham gia vào sản xuất kinh
doanh, các mặt xã hội và đời sống dân cư có nhiều tiến bộ.
b. Việc chuyển thị trường từ trạng thái chia cắt , khép kín theo địa giới
hành chính “tự cấp, tự túc” sang tự do lưu thông.
Cùng với nhiều biện pháp khác , Nhà nước đã thực hiện đổi mới các
chính sách về giá cả, tài chính. Về giá cả thì thực hiện chính sách định giá
cứng cho từng loại hàng, duyệt chiết khấu cho từng khâu lưu thông, ấn định
giá bán riêng cho từng đối tượng hưởng thụ, giá cả riêng biệt theo từng chính
sách phân phối cụ thể.
Giá cả được hình thành chủ yếu theo quan hệ cung cầu nhưng đối với
một số vật tư quan trọng để giữ ổn định thị trường, Nhà nước quy định giá
bán lẻ tối đa xăng dầu, xi măng, thép, phân bón, giấy viết, hoá chất, ... và quy
định giá sàn đối với một số nông sản để tránh ép giá gây thiệt thòi cho người
nông dân. Nhà nước còn bảo đảm cân đối vật tư hàng hoá thiết yếu của nền
kinh tế như xăng dầu, lương thực, đường, xi măng, thép, phân bón, để tránh
tình trạng khan hiếm hoặc dư thừa trên thị trường. Việc quy giá trần bán lẻ,
giá sàn thu mua cũng như các cân đối này chỉ mang tính định hướng để các
doanh nghiệp chủ động xác định kế hoạch xuất khẩu, nhập khẩu kinh doanh
chứ không mang tính pháp lệnh như trước đây.
Ngoài ra, các xí nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp có quyền tự chủ trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh, thực hiện hoạch toán độc lập. Đại hội đã chỉ

rõ: đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho các đơn vị kinh tế quốc doanh có
quyền tự chủ, thực sự chuyển sang hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa,
lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Sắp xếp lại sản xuất, tăng
cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật
để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trên cơ sở đó ổn định và từng
bước nâng cao tiền lương thực tế của công nhân, viên chức, tăng tích luỹ cho
xí nghiệp và cho Nhà nước.
Phát triển nhiều chiến lược hướng ngoại ra thị trường khu vực và quốc tế
cũng là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình đẩy mạnh tự do hoá lưu
thông. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, theo hướng đa
phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù
Sinh viên : Đào Thị Thuỳ Dương - Nhóm 11
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hợp với điều kiện của nước ta và đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế song
phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt Mỹ,
tiến tới gia nhập WTO...
Đẩy mạnh phát triển dịch vụ, giao thông vận tải, thông tin liên lạc...sẽ
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc tiếp cận với thị trường trong nước và thế
giới. Ưu tiên phát triển các nghành này là mối quan tâm lớn của nước ta nhằm
phát triển cơ sở hạ tầng,thúc đẩy dao dịch, chuyển đổi hàng hoá. Việc phát
triển giao thông vận tải, thông tin liên lạc có vai trò to lớn thúc đẩy quá trình
lưu thông hàng hoá, không chỉ trong nước mà còn giữa Việt Nam và các nước
khác trong khu vực.
c. Doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại, đội ngũ các nhà quản lý
được đào tạo theo cơ chế mới.
Sau đại hội toàn quốc lần thứ VI đã thực sự mở đầu cho công cuộc đổi
mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước một cách cơ bản, mạnh mẽ và toàn
diện. Từ đây đổi mới doanh nghiệp nhà nước được đặt trong tổng thể đổi mới
nền kinh tế nói chung.Trên cơ sở phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ theo

hướng đa dạng hoá, toàn cầu hoá thì việc phát triển trong chính các doanh
nghiệp, các công ty đang là một mối quan tâm sâu sắc.
Để tạo sức cạnh tranh, phát triển nhiều loại hình hàng hoá,Nhà nước đã
thực hiện sáp nhập khoảng 3.000 doanh nghiệp vào các doanh nghiệp khác
có liên quan về công nghệ, thị trường và giải thể khoảng 3.500 doanh nghiệp.
Nhờ đó đã nâng quy mô vốn bình quân của DNNN từ 3,1 tỷ lên 11,5 tỷ đồng,
giảm bớt tài trợ của ngân sách nhà nước cho doanh nghiệp bị thua lỗ và thúc
đẩy các DNNN phải hoạt động có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp, công ty
đẩy mạnh sản xuất, tạo sản phẩm mới phục vụ nhu cầu người tiêu dùng. Đây
là yếu tố chính để đẩy mạnh phát triển chất lượng cũng như giảm giá thành
của sản phẩm.
Mạng lưới của công ty, doanh nghiệp được mở rộng đến nhiều tỉnh thành
trong cả nước mở rộng hơn thị trường hàng hoá, dịch vụ. Phục vụ tốt hơn nhu
cầu tiêu dùng của người dân, cũng chính vì thế mà số lượng sản phẩm sản
xuất được ngày càng nhiều và chất lượng cũng được khắc phục hơn.Khi đã
phát triển được thị trường trong nước, Nhà nước còn quan tâm nhiều hơn đến
việc phát triển thị trường hàng hoá ở nước ngoài, tạo môi trường cạnh tranh
và thu ngoại tệ. Chính vì vậy cần chú trọng hơn đến việc xây dựng thương
hiệu, đổi mới, quảng bá hình ảnh của sản phẩm.
Để đáp ứng nhu cầu thực tế của người tiêu dùng cũng như chất lượng
của hàng hóa, dịch vụ thì đội ngũ quản lý cũng cần phải được quan tâm chú
trọng hơn nữa. Quản lý được đẩy mạnh, phát triển trình độ theo nhu cầu mới
sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc lưu thông hàng hoá, phát triển dịch vụ.
Sinh viên : Đào Thị Thuỳ Dương - Nhóm 11
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
d. Ngành du lịch, dịch vụ là một nghành chính được đặc biệt quan tâm
đẩy mạnh trong thời kì phát triển CNH- HĐH.
Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi, khí hậu ôn hoà và nhiều danh lam
thắng cảnh đẹp đã tạo điều kiện tốt cho việc phát triển du lịch trong nước. Đổi

mới, quan tâm phát triển, khai thác tiềm năng các điểm du lịch trong nước.
Các nghành hàng không, vận tải , bưu chính viễn thông…cũng được sự
quan tâm phát triển của nhà nước. Nhiều chính sách đổi mới đã được áp dụng
triệt để, nhằm đáp ứng nhu cầu phân phối hàng hoá trong nước, đẩy mạnh
chất lượng dịch vụ.
Nhóm cơ chế và biện pháp chính sách giúp cho các doanh nghiệp, ngành
tăng cường năng lực, khả năng cạnh tranh của sản xuất sản phẩm dịch vụ xuất
khẩu, thông qua đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện hoạt động và
công nghệ, tiền vốn để nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm giá thành sản
phẩm. Về cơ chế tạo nguồn vốn đầu tư phải huy động bằng nhiều nguồn,
nhưng trong đó phải kể đến nguồn vốn từ ngân sách ưu đãi đầu tư của nhà
nước và các nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại, vốn đầu tư nước
ngoài. Có nhiều chính sách tạo điều kiện giảm chi ngoại tệ nhập khẩu đối với
một số ngành dịch vụ có nhập khẩu một số loại trang thiết bị chuyên dụng,
thiết bị, vật liệu rẻ tiền mau hỏng, bằng các chính sách tạo điều kiện sản xuất
để thay thế hàng nhập khẩu để giảm nhập khẩu (hàng không, tàu biển).
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến thị trường hàng hoá và dịch vụ.

a. Thị trường gắn liền với phân công lao động xã hội và sản xuất hàng
hoá.
Để phát triển và mở rộng thị trường hàng hoá thì vấn đề nâng cao chất
lượng hàng hoá được quan tâm chú ý, năng suất lao động được đẩy mạnh.
Nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, cơ hội nhiều
hơn nhưng thách thức cũng không phải là ít. Chính vì vậy mà quá trình
chuyên môn hoá trong sản xuất cần được áp dụng triệt để, tạo chất lượng sản
phẩm cao và đồng bộ. Nhưng thực tế quá trình chuyên môn hoá chưa thực sự
thu được kết quả như mong muốn. Nhà nước vẫn đang nỗ lực để có thể thay
đổi được tình hình trên. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh sản xuất hàng hoá xuất
khẩu cũng được chú ý. Nước ta có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên nên
việc phát triển xuất khẩu hàng nông sản trở thành thế mạnh, đặc biệt là: gạo,

cà phê, hồ tiêu, cá tra, cá ba sa... Xuất khẩu hàng lương thực, thực phẩm của
nước ta ngày càng phát triển, mở ra một thị trường hàng hoá, dịch vụ rộng
lớn. Bên cạnh đó, quá trình xuất khẩu còn gặp một số trục trặc khi các nước
nhập khẩu ngày càng sử dụng nhiều rào cản trong quan hệ thương mại quốc
tế, cạnh tranh thương mại ngày càng gay gắt, dẫn đến sản lượng xuất khẩu
một số mặt hàng giảm xuống. Ngoài ra thị trường giá thế giới biến động phức
Sinh viên : Đào Thị Thuỳ Dương - Nhóm 11
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tạp, tăng giảm thất thường (gạo, dầu thô...), thông tin thị trường thế giới thiếu
và không chính xác đã tác động nhiều tới kim ngạch xuất khẩu.
b. Gắn liền nhu cầu cuộc sống xã hội với nhu cầu của nền kinh tế.
Việc đặt nhu cầu của người tiêu dùng lên hàng đầu là yếu tố quan trọng
nhất giúp phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ. Nhiều mặt hàng mới được
thay đổi hình thức mẫu mã cũng như chất lượng. Đa dạng hoá loại hình dịch
vụ tạo điều kiện cạnh tranh phục vụ nhu cầu cuộc sống.
Quan tâm sản xuất nhiều sản phẩm thiết thực, phong phú hơn, gần gũi
hơn với đời sống của người tiêu dùng. Chính sự cạnh tranh của các sản phẩm
đã đẩy mạnh tiêu thụ trong nước, giá thành sản phẩm cũng được thay đổi treo
chiều hướng tốt cho người tiêu dùng. Chính sự cạnh tranh gay gắt giữa doanh
nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài đã thúc đẩy quá trình xây
dựng quảng bá hình ảnh, thương hiệu, từ đó Marketing ở Việt Nam được quan
tâm chú trọng phát triển.
Quá trình tiếp cận khách hàng được đẩy mạnh, đây là một dấu hiệu tốt
cho quá trình phát triển thị trường hàng hoá trong nước. Dịch vụ du lịch được
mở rộng hơn, gắn liền với nhu cầu thiết thực của xã hội, chất lượng dịch vụ
được đưa lên hàng đầu. Dịch vụ du lịch phát triển góp phần tăng ngoại tệ,
phát triển nền kinh tế trong nước.
c. Công tác quản lý của cơ quan có thẩm quyền ảnh hưởng trực tiếp đến
hàng hoá, dịch vụ.

Quá trình quản lý hàng hoá của nhà nước ảnh hưởng một cách trực tiếp
đến sự phát triển chất lượng sản phẩm trong nước. Hiện nay, sự quản lý và
điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với thị trường và thương mại đã có nhiều đổi
mới. Đổi mới trước hết là cơ chế quản lý thị trường. Từ cơ chế trực tiếp can
thiệp, kiểm tra kiểm soát thị trường là chủ yếu chuyển sang cơ chế tác động
gián tiếp và tạo lập môi trường chính sách cho kinh doanh trên thị trường.
Các chính sách quản lý và công cụ quản lý của Nhà nước đối với thị
trường được nghiên cứu kỹ và thông thoáng hơn. Nhà nước đã tạo lập được
môi trường pháp lý cho các hoạt động trên thị trường. Sự tự do, bình đẳng
giữa các chủ thể hoạt động trên thị trường được đảm bảo bằng pháp luật. Các
thủ tục hành chính cản trở, gây phiền hà cho sản xuất kinh doanh liên tục
được sửa đổi và bãi bỏ.
Dù những đổi mới trên đây còn chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu
nhưng những tác động tích cực cuả những thay đổi đó với thị trường đã thấy
rõ và đặt ra sự đòi hỏi cấp thiết hơn . Vấn đề kiểm soát hàng lậu, hàng trốn
thuế, hàng nhái hành giả, hàng kém chất lượng được chú trọng quan tâm. Có
nhiều biện pháp trong quá trình kiểm tra, thu hồi và sử lý sản phẩm kém chất
Sinh viên : Đào Thị Thuỳ Dương - Nhóm 11
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lượng sẽ tạo điều kiện an toàn thuận lợi hơn cho thị trường hàng hoá trong
nước.
d. Quan hệ kinh tế giữa các cá nhân , giữa các doanh nghiệp trên thị
trường.
Các doanh nghiệp Nhà nước chi phối phần lớn khâu bán buôn, tỷ trọng
bán lẻ giảm xuống trong tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ. Lực lượng
đông đảo nhất trên thị trường là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tư
thương, tiểu thương. Khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
cũng đã tham gia vào thị trường nội địa. Điều đó đã tạo một môi trường cạnh
tranh ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cũng như số lượng hàng hoá.

Nhóm cơ chế và biện pháp chính sách giúp cho các doanh nghiệp, ngành
tăng cường năng lực, khả năng cạnh tranh của sản xuất sản phẩm dịch vụ xuất
khẩu, thông qua đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện hoạt động và
công nghệ, tiền vốn để nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm giá thành sản
phẩm.
Nhóm các chính sách tạo điều kiện giảm chi ngoại tệ nhập khẩu đối với
một số ngành dịch vụ có nhập khẩu một số loại trang thiết bị chuyên dụng,
thiết bị, vật liệu rẻ tiền mau hỏng, bằng các chính sách tạo điều kiện sản xuất
để thay thế hàng nhập khẩu để giảm nhập khẩu. Nhiều loại hình sản xuất,
phân phối được áp dụng hơn trong quá trình lưu thông hàng hoá.
3. Những vấn đề ảnh hưởng đến việc phát triển thị trường hàng hoá
dịch vụ.
a. Bước đầu còn sơ khai, non trẻ nên chưa có sự thống nhất trong toàn
quốc.
Tình hình cơ sở hạ tầng trong nước còn rất thấp kém, rời rạc. Đây chính
là yếu tố kìm hãm sự phát triển của thị trường hàng hoá trong nước cũng như
việc xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. Sản xuất chưa thực sự được quy
hoạch, đầu tư chuyên môn hóa nên chất lượng sản phẩm và cơ sở hạ tầng còn
nhiều yếu kém. Nền kinh tế ban đầu theo cơ chế kinh tế kế hoạch, giao dịch
chỉ là giao dịch chỉ là việc giao và nhận các sản phẩm nhằm thực hiện các
nghĩa vụ có tính pháp lệnh của nhà nước lập kế hoạch.
Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trên thị trường chưa xuất hiện và
gặp nhiều khó khăn trong vấn đề vốn đầu tư.
Trước tình hình đó, việc đầu tư vào các khu trung tâm du lịch, giải trí
cũng chưa được quan tâm phát triển
Việc xây dựng các điểm du lịch, khu du lịch chưa được quan tâm thích
đáng, ngược lại do lợi nhuận trước mắt trong nghề kinh doanh khách sạn dẫn
đến đầu tư và cấp giấy phép xây dựng, nâng cấp khách sạn, nhà khách, nhà
nghỉ tràn lan gây nên tình trạng cung về buồng khách sạn vượt quá cầu, giá
Sinh viên : Đào Thị Thuỳ Dương - Nhóm 11

8

×