Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

TÌM HIỂU QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC HỆ ĐIỀU HÀNH CỦA MICROSOFT DỰA TRÊN CÁC NGUYÊN LÝ SÁNG TẠO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 28 trang )

Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
MỤC LỤC
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 1
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN




























GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 2
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
LỜI NÓI ĐẦU
Sáng tạo có một khuôn mẫu nhất định không? Có những quy tắc nào dành cho
sáng tạo không. Câu trả lời là “có”. Quả thật ai trong chúng ta đều có thể sáng tạo. Để
hiểu rõ các nguyên lý sáng tạo cơ bản TRIZ từ đó chúng ta có thể áp dụng trong thực
tế, chúng ta hãy cùng tìm hiểu quá trình phát triển một số phiên bản tiêu biểu của hệ
điều hành Windows là hệ điều hành phổ biến nhất hiện nay trên thế giới.
Trong phạm vi đề tài này, ta sẽ không nhắc lại các khái niệm của từng nguyên
lý cụ thể mà sẽ thông qua việc phân tích sự khác biệt, cải thiện từng phiên bản so với
những phiên bản trước nó để giúp ta hiểu rõ và có một cái nhìn sâu hơn về những
nguyên lý sáng tạo cơ bản này.
Qua đây em xin gởi lời cám ơn tới GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm đã tận tâm
truyền đạt những kiến thức nền tảng về khoa học, về các phương pháp nghiên cứu
khoa học trong tin học và những kinh nghiệm quý giá từ thực tế. Từ đó giúp em có
được cở sở vững chắc để phục vụ cho việc nghiên cứu sau này.
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 3
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
I. Hệ điều hành là gì?
1. Định nghĩa
Các máy tính ban đầu không có hệ điều hành. Người điều hành sẽ tải và chạy
chương trình một cách thủ công. Khi chương trình được thiết kế để tải và chạy chương
trình khác, nó đã thay thế công việc của con người.
Thuật ngữ "hệ điều hành" được dùng chỉ tới một phần mềm cần thiết để người
dùng quản lý hệ thống và chạy các phần mềm ứng dụng khác trên hệ thống. Nó không
chỉ có nghĩa là "phần lõi" tương tác trực tiếp với phần cứng mà còn cả các thư viện cần
thiết để các chương trình quản lý và điều chỉnh hệ thống.
Sự tương tác của một hệ điều hành với các thành phần khác của máy tính
Hệ điều hành là một phần mềm chạy trên máy tính,

dùng để điều hành, quản lý các thiết bị phần cứng và các
tài nguyên phần mềm trên máy tính. Hệ điều hành đóng
vai trò trung gian trong việc giao tiếp giữa người sử
dụng và phần cứng máy tính, cung cấp một môi trường
cho phép người sử dụng phát triển và thực hiện các ứng
dụng của họ một cách dễ dàng.
Khái niệm hệ điều hành được tách thành ba thành phần: giao diện người dùng
(bao gồm giao diện đồ họa và/hoặc thông dịch dòng lệnh, còn gọi là "shell"), tiện ích
hệ thống cấp thấp, và phần lõi - trái tim của hệ điều hành.
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 4
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
Ba thành phần chính của một hệ điều hành
2. Chức năng chính yếu của hệ điều hành
a. Quản lý chia sẻ tài nguyên
Tài nguyên của hệ thống (CPU, bộ nhớ, thiết bị ngoại vi, ) vốn rất giới hạn,
nhưng trong các hệ thống đa nhiệm, nhiều người sử dụng có thể đồng thời yêu cầu
nhiều tài nguyên. Để thỏa mãn yêu cầu sử dụng chỉ với tài nguyên hữu hạn và nâng
cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, hệ điều hành cần phải có cơ chế và chiến lược thích
hợp để quản lý việc phân phối tài nguyên.
Ngoài yêu cầu dùng chung tài nguyên để tiết kiệm chi phí, người sử dụng còn cần
phải chia sẻ thông tin (tài nguyên phần mềm) lẫn nhau, khi đó hệ điều hành cần đảm
bảo việc truy xuất đến các tài nguyên này là hợp lệ, không xảy ra tranh chấp, mất đồng
nhất.
a. Giả lập một máy tính mở rộng
Hệ điều hành làm ẩn đi các chi tiết phần cứng, người sử dụng được cung cấp một
giao diện đơn giản, dễ hiểu, dễ sử dụng và không phụ thuộc vào thiết bị phần cứng cụ
thể.
Thực tế, ta có thể xem hệ điều hành như là một hệ thống bao gồm nhiều máy tính
trừu tượng xếp thành nhiều lớp chồng lên nhau, máy tính mức dưới phục vụ cho máy
tính mức trên. Lớp trên cùng là giao diện trực quan nhất để điều khiển.

GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 5
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
II. Quá trình phát triển hệ điều hành của Microsoft và các nguyên
lý sáng tạo (TRIZ)
1 MS DOS và các nguyên lý sáng tạo
Windows được phát triển từ hệ điều hành DOS ban
đầu của Microsoft, đây là hệ điều hành được phát hành năm
1981. Hệ điều hành mới này đã được Bill Gates và Paul
Allen phát triển để chạy trên máy tính cá nhân IBM, với
giao diện hoàn toàn bằng văn bản và các lệnh người dùng
giản đơn. Đây là một hệ điều hành có giao diện dòng lệnh (command-line interface).
Gói MS-DOS đầu tiên được tung ra bởi Microsoft
MS-DOS là hệ điều hành đơn nhiệm. Tại mỗi thời điểm chỉ thực hiện một thao
tác duy nhất. Nói một cách khác, MS-DOS chỉ cho phép chạy một ứng dụng duy nhất
tại mỗi thời điểm.
Hệ điều hành đầu tiên của Microsoft - PC-DOS 1.0
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 6
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
Hầu hết người dùng PC thế hệ đầu tiên đều phải học để điều hành máy tính của
họ bằng DOS. Nhưng hệ điều hành này không thân thiện một chút nào; nó yêu cầu
người dùng phải nhớ tất cả các lệnh và sử dụng các lệnh đó để thực hiện hầu hết các
hoạt động hàng ngày, chẳng hạn như việc copy các file, thay đổi thư mục,… Ưu điểm
chính của DOS là tốc độ và tiêu tốn ít bộ nhớ, đây là hai vấn đề quan trọng khi hầu hết
các máy tính chỉ có 640K bộ nhớ.
Vậy hệ điều hành đầu tiên này của Microsoft đã sử dụng nguyên lý sáng tạo gì?
Đó là nguyên lý đảo ngược. Các máy tính ban đầu không có hệ điều hành. Người điều
hành(operator) sẽ tải và chạy chương trình một cách thủ công. Khi chương trình được
thiết kế để tải và chạy chương trình khác, nó đã thay thế công việc của con người. Ta
thấy ở đây thay vì operator sẽ điều kiển toàn bộ tác vụ và quản lý chương trình,
Microsoft đã tạo ra hệ điều hành MS DOS – một chương trình sẽ điều khiển các

chương trình khác qua đó đã giải quyết bài toán bằng cách đảo ngược lối suy nghĩ
thông thường.
2 Windows 1.0 và các nguyên lý sáng tạo
Microsoft tin rằng các máy tính các nhân sẽ trở thành xu thế chủ đạo, chúng phải
dễ dàng hơn trong sử dụng, bảo vệ cho sự tin tưởng đó chính là giao diện đồ họa người
dùng (GUI) thay cho giao diện dòng lệnh của DOS. Với quan điểm đó, Microsoft đã
bắt tay vào thực hiện phiên bản mở đầu của Windows vào năm 1983, và sản phẩm
cuối cùng được phát hành ra thị trường vào tháng 11 năm 1985.
Phiên bản đầu tiên của Windows - Windows 1.0
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 7
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
Windows ban đầu được gọi là Interface Manager, và không có gì ngoài một lớp
vỏ đồ họa đặt trên hệ điều hành DOS đang tồn tại. Trong khi DOS chỉ là một hệ điều
hành sử dụng các lệnh bằng văn bản và gắn chặt với bàn phím thì Windows 1.0 đã hỗ
trợ hoạt động kích vào thả của chuột. Tuy nhiên các cửa sổ trong giao diện hoàn toàn
cứng nhắc và không mang tính xếp chồng.
Không giống các hệ điều hành sau này, phiên bản đầu tiên của Windows
này chỉ có một vài tiện ích sơ đẳng như Windows Paint, bộ soạn thảo văn bản
Windows Write, bộ lịch biểu, notepad và một đồng hồ. Tuy nhiên thời đó
Windows 1.0 cũng có Control Panel, đây là thành phần được sử dụng để cấu
hình các tính năng khác cho môi trường, và MS-DOS Executive - kẻ tiền
nhiệm cho bộ quản lý file Windows Explorer ngày nay.
Từ MS DOS đến Windows 1.0, Microsoft đã vận dụng khá nhiều những
nguyên lý sáng tạo cho việc cải tiến và phát triển Windows. Đầu tiên phải kể đến
nguyên lý chuyển sang chiều khác.Thay vì sử dụng những câu lệnh DOS, nhờ một
lớp vỏ giao diện đồ họa cùng khả năng hổ trợ của chuột máy tính, windows 1.0 đã
mang một diện mạo mới Windows 1.0. Tuy windows 1.0 chỉ có lớp vỏ giao diện
nhưng nó là một sự sang tạo hết sức hữu ích và đã đặt nền móng cho các phiên bản
windows kế thừa sau này.
Nguyên lý thứ hai là nguyên lý đổi màu, từ giao diện đơn điệu, nhàm chán chỉ có

một số ít ỏi màu sắc trên giao diện DOS, Microsoft đã thổi một sức sống mới phiên
bản hệ điều hành qua việc tạo ra lớp đồ họa với nhiều màu sắc hơn. Việc thay đổi màu
trên giao diện còn giúp cho người dùng chú ý đến những thông báo hoặc cảnh báo của
một chương trình ứng dụng hay của bản than hệ điều hành.
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 8
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
Một giao diện notepad với một hộp thoại thông tin
Kế đến Windows 1.0 đã dùng nguyên lý sao chép. Đó là sự sao chép về phần lõi
của hệ điều hành phiên bản trước đó là MS DOS. Windows 1.0 tuy có cải tiến về giao
diện và them các chức năng mới, ứng dụng mới nhưng phần nhân bên trong điều khiển
quá trình xử lý vẫn là bản sao chép của DOS.
Windows 1.0 còn sử dụng nguyên lý vạn năng qua việc thêm vào những ứng
dụng mới so với người anh em MS DOS như Windows Paint, Windows Write, bộ lịch
biểu, notepad và một đồng hồ. Mặt khác nguyên lý tách riêng cũng được áp dụng
thông qua việc tách phần command line “phiền phức”, khó nhớ, cứng nhắt gắn chặt
với bàn phím ra khỏi hệ điều hành và để thay thế bằng giao diện người dùng đồ họa và
hổ trợ kích thả chuột.
Những lệnh DOS đã được thay thế bởi giao diện đồ họa và thao tác trên chuột
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 9
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
Ngoài ra nguyên lý đồng nhất cũng được sử dụng để tạo ra sự thống nhất về hình
dạng, kiểu dáng, màu sắc của cả backgroup nói chung và của từng button, textbox,
lable, form… nói riêng. Điều này nhằm đảm bảo sự tương hợp, đồng nhất cho giao
diện và quá trình xử lý, một vấn đề không thể thiếu để gây ấn tượng với người dùng
lần đầu tiên sử dụng hệ điều hành không dùng lệnh DOS.
3 Windows 2.0, 3.0 và các nguyên lý sáng tạo
Phiên bản thứ hai của Windows được phát hành vào năm 1987, đây là phiên bản
được cải tiến dựa trên phiên bản Windows 1.0. Phiên bản mới này đã bổ sung thêm
các cửa sổ có khả năng xếp chồng nhau và cho phép tối thiểu hóa các cửa sổ để
chuyển qua lại trong desktop bằng chuột.

Các cửa sổ xếp chồng của Windows 2.0
Trong phiên bản này, Windows 2.0 đã có trong nó các ứng dụng Word và Excel
của Microsoft, các ứng dụng của Microsoft cần một giao diện đồ họa để có thể chạy
hợp thức, do đó Microsoft đã tích hợp chúng vào với Windows.
Giao diện một trò chơi, một đồng hồ và một trình soạn thảo văn bản Microsoft word
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 10
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
Lần thứ ba có tiến bộ hơn các phiên bản trước rất nhiều và đánh dấu một mốc
quan trọng trong thương mại. Windows 3.0, phát hành năm 1990, là phiên bản thương
mại thành công đầu tiên của hệ điều hành, Microsoft đã bán được khoảng 10 triệu
copy trong hai năm trước khi nâng cấp lên 3.1. Đây là phiên bản hệ điều hành đa
nhiệm đích thực đầu tiên, thế giới máy tính cá nhân đã sẵn sàng cho một hệ điều hành
đa nhiệm cùng với giao diện đồ họa người dùng.
Phiên bản Windows 3.0
Windows 3.0 là một cải thiện lớn so với các phiên bản trước đây. Giao diện của
nó đẹp hơn nhiều với các nút 3D và người dùng có thể thay đổi màu của desktop (tuy
nhiên thời điểm này chưa có các ảnh nền - wallpaper). Các chương trình được khởi
chạy thông qua chương trình Program Manager mới, và chương trình File Manager
mới đã thay thế cho chương trình MS-DOS Executive cũ trong vấn đề quản lý file.
Đây cũng là phiên bản đầu tiên của Windows có trò chơi Solitaire trong đó. Một điều
quan trọng nữa là Windows 3.0 có một chế độ Protected/Enhanced cho phép các ứng
dụng Windows nguyên bản có thể sử dụng bộ nhớ nhiều hơn hệ điều hành DOS của
nó.
Qua hai phiên bản windows này, ta thấy Microsoft vẫn kế thừa và phát triển thêm
về giao diện và chức năng nhưng vẫn không tách rời mà đã sử dụng nền tảng windows
1.0 trước đó. Khả năng xếp chồng nhau và cho phép tối thiểu hóa các cửa sổ, các nút
bấm 3D đều là sự phát triển một mức cao hơn từ người anh em 1.0. Nguyên lý sao
chép đã được sử dụng ở đây, có thể thấy phiển bản windows về sau sẽ sử dụng lại nền
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 11
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104

tảng của những bản trước đó và có sửa chữa, bổ sung hoặc hoàn thiện thêm một số
tính năng mới.

Sự sao chép giao diện giữ windows 1.0 (trái), 2.0 (phải) và 3.0 (giữa)
Nguyên lý kế tiếp là nguyên lý chứa trong, windows là tập hợp nhiều ứng dụng
trong nó như game, lịch biểu, trình soạn thảo văn bản… nhằm thỏa mản yêu cầu của
người dùng. Windows dóng vai trò là chương trình chạy nền cho các trương trình ứng
dụng khác.
Một nguyên lý khác phải kể đến là nguyên lý phản hồi, ta có thể thấy cùng với
sự phát triển của giao diện người dùng, hệ điều hành ngày càng có khả năng giao tiếp
với người dùng và phản hồi lại các yêu cầu của họ. Dựa vào các input sao khi phản
hồi, windows sẽ dựa vào đó để thực hiện các xử lý tiếp theo. Ví dụ đơn giản khi người
dùng thực hiện tác vụ xóa một file trong hệ thống, windows sẽ xác nhận người dùng
có thật sự muốn thực hiện hoạt động xóa này hay không với một hộp thoại (dialog
box) có hai button Yes/Cancel. Việc này nhằm nhận phản hồi từ người dùng và quá
trình sử lý sẽ tiếp tục sau khi nhận được phản hồi từ người dùng. Tương tự đối với tác
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 12
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
vụ Save file với một hộp thoại xác nhận đường dẫn, tên file save, button OK và
Cancel.
Ngoài ra nguyên lý đổi màu,
nguyên lý đồng nhất, nguyên lý vạn
năng cũng được sử dụng như chúng ta đã
phân tích trong phần trên - Windows 1.0.
4 Windows 95, 98 và các nguyên lý sáng tạo
Phiên bản Windows 95 này có lẽ là phát hành lớn nhất trong số các phát hành
Windows. Có thể khá khó khăn để hình dung lại sau 15 năm, nhưng phát hành
Windows 95 là một sự kiện mang tính lịch sử, với việc đưa tin rộng rãi trên phương
tiện thông tin đại chúng, các khách hàng đã xếp thành những hàng dài bên ngoài các
cửa hàng từ nửa đêm để mua được những bản copy đầu tiên của hệ điều hành này.

Tuy nhiên những gì mới thực sự gây choáng? Windows 95 có diện mạo đẹp hơn
và khả năng làm việc cũng tốt hơn, cả hai thứ đó đều đạt được mong mỏi của người
dùng sau nhiều năm chờ đợi. Đây là một hệ điều hành được viết lại phần lớn và đã cải
thiện được giao diện người dùng và đưa Windows sang nền tảng 32-bit giả mạo.
(Nhân kernel 16-bit vẫn được giữ lại để có thể tương thích với các ứng dụng cũ).
Hình ảnh giao diện màn hình của Windows 95
Windows 95 đã xuất hiện Taskbar, thanh tác vụ này có các nút cho các cửa sổ
mở. Nó cũng là phiên bản đầu tiên của Windows có sử dụng nút Start và menu Start;
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 13
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
các shortcut trên desktop, kích phải chuột và các tên file dài cũng lần đầu tiên xuất
hiện trong phiên bản này.
Một điểm mới nữa trong Windows 95 – mặc dù không có trong phiên bản ban
đầu – đó là trình duyệt web Internet Explorer của Microsoft. IE 1.0 lần đầu tiên xuất
hiện là trong Windows 95 Plus! Với tư cách một add-on; phiên bản 2.0 có trong
Win95 Service Pack 1, gói dịch vụ được phát hành vào tháng 12 năm 1995.
Trình duyệt web đầu tiên của Windows IE 1.0
Windows 98, cũng được lấy tên năm phát hành của nó (1998), là một thay đổi
mang tính cách mạng so với phiên bản trước đó. Diện mạo bên ngoài của nó đẹp hơn
Windows 95 khá nhiều, và thậm chí nó còn có nhiều cải thiện hữu dụng bên trong.
Những cải thiện ở đây như sự hỗ trợ cho USB, chia sẻ kết nối mạng và hệ thống file
FAT32, tuy tất cả đều những cải thiện này rất đáng giá nhưng không làm cho cả thế
giới choáng ngợp như lần ra mắt của Windows 95.
Windows 98
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 14
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
Qua quá trình phát triển của Windows 95 và 98, Microsoft đã vận dụng nguyên
lý vạn năng trong việc thêm vào Windows nhiều chức năng như Taskbar, Start button,
đáng chú ý nhất là trình duyệt IE1.0 cho phép người dùng là đầu tiên kết nối Internet.
Nguyên tác vạn năng được sử dụng xuyên suốt quá trình phát triển của Windows, nó

phản ánh khuynh hướng phát triển và tăng số chức năng mà hệ điều hành có thể thực
hiện được.
Mặt khác, Windows 95, 98 yêu cầu phải chạy được trên các thiết bị phần cứng
khác nhau của các hãng máy tính khác nhau. Điều này dẫn đến sự ra đời của driver.
Nhờ có driver, windows có thể kết hợp hoàn hảo với các thiết bị ngoại vi như máy in,
scanner, card đồ họa… mà không có sự phụ thuộc vào môi trường nào khác. Đây là ví
dụ cho việc sử dụng nguyên lý kết hợp.
Các chức năng đã có trên phiên bản Windows trước đó như giao diện cửa sổ xếp
chồng, các ứng dụng như notepad, MS word, MS Excel, control panel, và phần lõi
điều hành đa nhiệm đều xuất hiện lại trong bản Windows 95, 98. Microsoft đã sử dụng
nguyên lý sao chép.
Ngoài ra nguyên lý phản hồi, nguyên lý đổi màu, nguyên lý chứa trong,
nguyên lý đồng nhất cũng được sử dụng như chúng ta đã phân tích ở trên.
5 Windows XP và các nguyên lý sáng tạo
Windows XP là một dòng hệ điều hành do Microsoft sản xuất dành cho các máy
tính cá nhân chạy trên các bộ xử lý x86 và IA-64. Tên "XP" là cách viết ngắn gọn của
"experience”. Windows XP là hệ điều hành kế tục của cả Windows 95, 98, 2000
Professional và Windows Me, và là hệ điều hành đầu tiên của Microsoft hướng đến
người tiêu dùng được xây dựng trên nhân và kiến trúc của Windows NT bỏ qua cơ sở
mã DOS đã xuất hiện trong các phiên bản khách hàng trước của Windows. XP có sự
pha trộng tốt nhất giữa các phiên bản Windows 95/98/Me với thao tác 32-bit của
Windows NT/2000 và giao diện người dùng được tân trang lại. Windows XP được ra
mắt vào ngày 25 tháng 10 năm 2001, và trên 400 triệu bản đã được dùng trong tháng 1
năm 2006.
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 15
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
Giao diện Windows XP
Với Windows XP, Microsoft đã bắt đầu phân khúc thị trường bằng một số phiên
bản khác nhau, mỗi một phiên bản lại có một tập các tính năng riêng biệt bao gồm XP
Home Edition, XP Professional (cho người dùng khối doanh nghiệp), XP Media

Center Edition, XP Tablet PC Edition, và XP Starter Edition (cho người dùng trong
các nước đang phát triển).
Rõ ràng Microsof đã sử dụng nguyên lý rẽ thay cho đắt để hướng đến nhiều phân
khúc thị trường nhằm thỏa mãn các đối tượng khác nhau. Chia Windows XP thành
nhiều gói khác nhau chứa những chức năng từ cơ bản đến nâng cao với giá tiền từ thấp
thích hợp cho những cá nhân có thu nhập thấp đến những gói Windows với đầy đủ
chức năng với giá cả cao dành cho doanh nghiệp.
Starter: Phiên bản rút gọn các tính năng cao cấp, không cầu kì về giao diện, gọn
nhẹ, thích hợp với các máy netbook, hướng tới đối tượng là người mua mới netbook,
người mới làm quen với máy vi tính, người có thu nhập thấp.
Home Basic: Lược bỏ một số các chức năng giải trí nâng cao (như Media Center)
ở bản Home Premium, thích hợp với các loại netbook, máy tính cá nhân, công ty vừa
và nhỏ, hướng tới đối tượng là người mua mới netbook, gia đình có thu nhập trung
bình.
Home Premium: Các chức năng giải trí, giao tiếp, kết nối ở mức khá tốt, thích
hợp với các máy netbook thế hệ mới, máy tính cá nhân (PC), máy tính xách tay
(Laptop), hướng tới người sử dụng là các hộ gia đình, công ty vừa và nhỏ.
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 16
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
Professional: Tập hợp đầy đủ các chức năng của tất cả các phiên bản kia cộng lại,
giúp người dùng có được một sức mạnh toàn năng trong trao đổi thông tin và giải trí
mọi lúc mọi nơi, hướng tới các cá nhân, tổ chức muốn một giải pháp trọn vẹn cho việc
hoạt động máy vi tính của họ. Các chức năng kết nối mạng văn phòng cũng như kết
nối mạng đầy đủ, hướng tới các công ty lớn, các doanh nhân thường xuyên làm việc
với máy vi tính để trao đổi dữ liệu.
Sử dụng nguyên lý sao chép từ những người anh em trước đó và hoàn thiện hơn,
XP là sự kết hợp của bản Windows 98, 2000 vốn nặng về tính bảo mật và các bản
Windows dành cho người dùng gia đình, kết quả là sản phẩm này ổn định hơn rất
nhiều và giao diện cũng tốt hơn hẳn các đàn anh đi trước, nhiều màu sắc hơn, hiện đại
hơn.

Một điểm đáng chú ý là Microsoft còn áp dụng nguyên lý tách riêng. XP là
Windows đầu tiên không sử dụng DOS như là một kiến trúc nền tảng cũng như hỗ trợ
cả 32 bit và 64bit bằng 2 phiên bản riêng biệt. Microsoft đã mạng dạn tách phần lõi
“phiền phức”, lỗi thời và không còn cần thiết của DOS ra khỏi hệ điều hành.
Một điểm đáng chú ý khác là Microsoft bắt đầu quan tâm đến khả năng dự phòng
của hệ thống khi gặp sự cố trong quá trình xử lý. Áp dụng nguyên lý dự phòng qua
chức năng System Restore, hay còn gọi là tính năng khôi phục hệ thống, là một tính
năng rất hữu dụng mà Windows cung cấp cho người sử dụng. Sử dụng chức năng này,
bạn có thể dễ dàng đưa hệ thống trở về trạng thái tốt nhất trước đó nếu hệ thống của
bạn không làm việc hoặc có vấn đề gì đó xảy ra với máy tính của mình. Điều này sẽ
giúp bạn khôi phục lại hệ thống mà không cần phải cài đặt lại toàn bộ hệ điều hành,
giúp bạn giữ được những dữ liệu cũng như những thiết lập trước đó.
System Restore sẽ ghi nhớ lại những thiết lập trên hệ thống tạo nên
những Restore Points (mốc khôi phục). Những mốc đó sẽ đánh dấu những thiết lập có
trên hệ thống vào thời điểm đó để rồi nếu vấn đề xảy ra, bạn có thể đưa hệ thống của
mình trở lại những thời điểm được Restore points ghi nhận. Bởi vì quá trình lưu sao
lưu hệ thống được tiến hành tự động, còn quá trình khôi phục sẽ diễn ra qua từng bước
hướng dẫn, do đó tính năng System Restore là rất hữu dụng và dễ sử dụng
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 17
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
Chức năng System restore cho phép recover hệ thống tại một thời điểm trước đó
Nguyên lý dự phòng còn thể hiện qua chức năng Driver rollback. Đấy là một tính
năng rất hữu dụng, tính năng này cho phép
bạn “rollback” một driver vào phiên bản đã
cài đặt trước đây của nó. Đây là một tính
năng đặc biệt hữu dụng khi bạn đã cài đặt
một driver mới cho thành phần phần cứng
trên máy tính của mình và gặp phải một số
vấn đề với thành phần phần cứng này hoặc
các ứng dụng hay thiết bị trên máy tính

của bạn. Nếu tình huống như vậy xuất
hiện, bạn hãy nhớ sử dụng Driver Rollback để rollback driver trước đó đã được cài đặt
trước khi nâng cấp.
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 18
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
Automated System Recovery (ASR) là một tính năng phát triển cao được tích
hợp vào tiện ích Microsoft Backup nhằm
cho phép bạn có thể khôi phục trạng thái
hoạt động của Windows XP trong trường
hợp lỗi hệ thống xảy ra. Bằng cách sử dụng
tính năng này hàng ngày, bạn có thể khôi
phục một cách hiệu quả Windows về trạng
thái trước đó. Kiểu backup này sẽ lưu các
thiết lập hệ thống của bạn trên một đĩa
mềm hoặc đĩa Compact Disc (CD), sau đó tạo một back up đơn giản chứa các file mà
bạn đã chỉ định trên máy tính của mình. Sau đó bạn có thể sử dụng ASR disk/CD này
để khôi phục các thiết lập hệ thống khi bạn chọn cài đặt lại Windows XP.
6 Windows 7 và các nguyên lý sáng tạo
Windows 7 đã thay đổi những gì mà người dùng không thích trong Windows cũ.
Phần cứng cũ và phần mềm cũ tương thích nhiều hơn, và thậm chí còn có cả tính năng
Windows XP Mode cho phép chạy các ứng dụng trong thời đại XP trong môi trường
nguyên bản của Windows 7. User Account Control cũng được cải thiện nhiều hơn để
giảm bớt sự gián đoạn gây khó chịu đối với người dùng.
Tiếp đến, Windows 7 còn có một số thay đổi về mặt giao diện. Sidebar bị bỏ đi
và thay vào đó bạn có thể đặt các Gadget trực tiếp lên desktop. Bên cạnh là chế độ
Aero Peek mới cho phép bạn nhìn “đằng sau” tất cả các cửa sổ mở để thấy những gì
bên dưới desktop, cũng như các hoạt động Aero Snaps mới cho phép bạn dễ dàng di
chuyển và cực đại hóa các cửa sổ.
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 19
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104

Mặc dù vậy thay đổi lớn nhất lại rơi vào taskbar,
một dải cố định trên màn hình xuất hiện lần đầu tiên
trong Windows 95. Taskbar mới trong Windows 7
cho phép bạn dock (neo đậu) cả các cửa sổ đang mở
và các ứng dụng lẫn tài liệu ưa thích của bạn. Kích chuột phải vào một nút của taskbar,
bạn sẽ thấy một Jump List các tài liệu gần đây và các hoạt động hữu dụng khác; đưa
chuột qua nút taskbar, bạn sẽ thấy một ứng dụng đang mở và bạn thumbnail của tất cả
các tài liệu. Có thể nói Windows 7 thay đổi cách bạn thực hiện trong nhiều thứ, tuy
nhiên được nhiều người nhận định là những cách mang tính tích cực.
Windows 7 được xem là phiên bản windows thành công nhất của Microsoft cho
đến thời điểm hiện tại. Nguyên lý vạn năng là một trong những nguyên lý được thể
hiện qua các tính năng mới như tính năng nhận dạng chữ viết. Trong Windows 7, độ
chính xác và tốc độ nhận dạng chữ viết được cải thiện trên tất cả các ngôn ngữ được
hỗ trợ. Quan trọng nhất đó là cải thiện việc nhận dạng chữ viết cho tiếng Trung Quốc
giản thể, tiếng Trung Quốc truyền thống, tiếng Nhật và và tiếng Hàn Quốc.
Chức năng nhận dạng chữ viết trong windows 7
Chức năng nhận dạng biểu thức toán học Math Input Panel trong windows 7
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 20
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
Nguyên lý vạn năng còn thể hiện
qua Windows Touch, Với Windows 7
và một màn hình cảm ứng, giờ đây bạn
có thể thao tác với máy tính mà không
cần phải dùng đến chuột và bàn phím.
Windows Touch là những hành động
đơn giản để bạn tương tác với
Windows hoặc một ứng dụng bằng
cách chạm vào nó. Bởi vì những cử chỉ
được xây dựng trên vào những thứ cốt lõi của Windows, chúng được thiết kế để làm
việc với tất cả các ứng dụng, thậm chí những ứng dụng không được thiết kế cho việc

tương tác bằng cách chạm. Microsoft tập trung vào các thiết bị phổ biến và đáng nhớ
nhất của các cử chỉ trong Windows 7, để đảm bảo việc sử dụng chúng một cách tự
nhiên nhất, giúp bạn nhớ những gì họ đang có, để đáp ứng sự mong đợi của bạn về độ
tin cậy.
Một nguyên cũng được Microsoft chú trọng là nguyên lý dự phòng. Trong
Windows 7, System Restore có độ tin cậy và hiệu quả cao hơn. Bạn sẽ thấy một danh
sách các chương trình sẽ bị gỡ bỏ hoặc thêm vào, nó cung cấp cho bạn nhiều thông tin
về điểm phục hồi mà bạn chọn. Các điểm phục hồi hệ thống được lưu trữ trong máy
tính của bạn, cho phép bạn có nhiều điểm phục hồi hơn để chọn thời điểm tốt nhất cho
mình. Cũng giống winXP, trong trường hợp máy bạn có một vấn đề gì đó, bạn có thể
muốn quay lại trạng thái trước đó – lúc mà hệ thống vẫn hoạt động tốt. Tuy nhiên, bạn
vẫn muốn giữ lại tất cả những dữ liệu mới và thay đổi cho tập tin hiện có mà bạn đã
thực hiện kể từ khi quay trở lại trạng thái hoạt động tốt trước đó
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 21
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
Mặt khác Windows 7
giúp bạn cấu hình các thiết
lập cho việc backup chỉ
qua vài cú click chuột,
nhận diện tất cả các tập tin
cá nhân và nếu bạn chọn
các tập tin của hệ thống,
bạn có thể dễ dàng lập lịch
backup tự động, không cần phải làm bằng tay, có thể backup mọi thứ hoặc một tập tin
cụ thể, có thể lựa chọn các tùy chọn backup nâng cao như là backup các tập tin vào
một vị trí trong mạng và từ hệ thống ad-hoc ra đĩa DVD.
Windows 7 cũng cải thiện khả năng phục hồi, cho phép bạn phục hồi những tập
tin đơn lẻ, các thư mục được lựa chọn hoặc là tất cả tập tin cá nhân của bạn. Thậm chí
bạn có thể tạo bản sao cho cả hệ thống để phục hồi khi gặp sự cố về phần cứng hoặc
các phần mềm độc hại.

Một minh họa nữa cho nguyên lý dự phòng là khả năng cho phép người dùng lưu
lại những thông tin đáng quan tâm trên Sticky Notes.
Sticky Notes trong Windows 7 đã hỗ trợ nhập chữ và bút từ. bạn có thể sao chép
một đoạn văn bản rồi dán vào Sticky Notes, thay đổi kích cỡ và màu sắc của chúng
trên desktop.
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 22
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
Microsoft tiếp tục vận dụng sự sáng tạo của mình qua việc áp dụng Nguyên lý
thực hiện sơ bộ để tự động nhận biết vị trí máy in trong Windows 7. Bạn có sử dụng
máy in tại nhà và máy in tại nơi làm việc không? Với Windows 7, bạn không cần phải
lựa chọn vị trí máy in phù
hợp với vị trí của bạn. Thay
vào đó, bạn lựa chọn máy in mặc
định (Default printer) cho mỗi vị
trí mạng, bạn cấu hình và
Windows 7 sẽ tự động sử dụng
máy in khi bạn kết nối vào
mạng. Do đó, khi bạn in ấn tại nơi làm việc, Windows 7 sẽ tự động in tại máy in ở nơi
bạn làm, khi bạn muốn in tại nhà, Windows 7 sẽ tự động lựa chọn và sử dụng máy in
tại nhà của bạn.
Nguyên lý rẻ thay cho đắt cũng được thể hiện qua việc Microsoft tung ra các
phiên bản Windows 7 khác nhau nhằm hướng đến những phân khúc thị trường khác
nhau với giá cả khác nhau tùy mục đích sử dụng.
Windows 7 Starter là phiên bản tối giản và nhẹ nhất của hệ
điều hành mới mà Microsoft sẽ chỉ bán ra cho các nhà sản xuất để
cài đặt cho netbook
Windows 7 Home Basic dành cho các thị trương mới nổi
như Bangladesh, China, India, và Mexico, với các tính năng nằm
giữa bản Starter và Home Premium. Cụ thể, giao diện Aero chỉ
được kích hoạt một phần, hay Windows 7 Enterprise tương tự

bản Ultimate nhưng chỉ được bán theo đơn đặt với số lượng lớn.
Phiên bản cho người dùng phổ thông là Windows 7 Home Premium có giá bán lẻ
264,31 USD. Những tính năng phổ biến của hệ điều hành mới đều có mặt trong bản
này, nổi bật là Aero Peek cho phép xem trước các ứng dụng và làm sạch màn hình
desktop với Aero Shake. Trong khi Aero Snap phóng to, thu nhỏ các cửa sổ làm việc,
Aero skin tạo ra thanh Taskbar không trong suốt nhưng huyền ảo. Ngoài ra, tính năng
tùy chỉnh và chuyển đổi theme cũng được kích hoạt, còn Windows Media Center và
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 23
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104
Windows Media Player đều có sẵn và cho phép người dùng đưa nội dung trình diễn ra
ngoài màn hình desktop
Windows 7 Professional đầy đủ và chuyên nghiệp hơn, giá 389,5 USD. Có tất cả
những tính năng của bản Home Premium, bản Professional được xây dựng cho cả
người dùng cá nhân và đối tượng doanh nghiệp nhỏ.
Windows 7 Ultimate giá bán lẻ 404 USD có tất cả những tính năng kể
trên, thêm tính năng khởi động từ ổ đĩa ảo và hệ điều hành phụ cho các ứng
dụng chạy các ứng dụng nền Unix. Đây là phiên bản dùng cho các đối tượng
cao cấp mang tính quốc tế hay môi trường mạng nghiêm ngặt về bảo mật.
Thin PC: Dành cho máy có cấu hình thấp (nhẹ gần bằng windows XP),
tất nhiên sẽ bị lượt bỏ một số phần không cần thiết lắm trong Windows.
Ngoài ra Tại châu Âu còn có bản Windows 7 "E" không cài trình duyệt web Internet
Explorer và "N" không có Windows Media player.
7 Windows 8 và các nguyên lý sáng tạo
Đây là bản Windows mới nhất cho đến thời điểm hiện tại. Windows 8 là một hệ
điều hành được xây dựng mới hoàn toàn, chứ không phải được xây dựng từ nền tảng
sẵn có của các phiên bản trước đây. Bằng chứng rõ ràng nhất là sự thay đổi giao diện.
Bên cạnh giao diện truyền thống, Windows 8 còn có thêm giao diện Metro với các ứng
dụng được sắp xếp như trên smartphone.
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 24
Sinh viên: Nguyễn Hồ MSSV: CH1201104

Ngoài ra cũng đáng chú ý là Microsoft sẽ ra mắt gian hàng Windows Store dành
cho Windows 8. Tại đây, nhà phát triển giới thiệu và bán các ứng dụng được xây dựng
cho giao diện Metro trên Windows 8.
Một nguyên lý đáng chú ý mà Windows 8 áp dụng là nguyên lý tách riêng.
Microsoft đã tách thành phần “phiền phức” ra khỏi hệ thống đó là nút Start “biến mất”.
Tuy nhiên, ở môi trường Desktop, khi rê chuột vào góc trái phía dưới màn hình, nút
Start vẫn xuất hiện. Song, khi nhấn vào nút Start, người dùng sẽ được chuyển đến màn
hình Metro. Màn hình Metro là sự thay thế cho Start Menu cũ, hiển thị các ứng dụng
thông qua các ô vuông hay chữ nhật. Giao diện Metro khá đẹp và tiện lợi trên màn
hình cảm ứng máy tính bảng, nhưng khi dùng trên PC lại rất bất tiện.
Màn hình Metro là sự thay thế cho Start Menu cũ
Tương tự Windows 7, Windows 8 sử dụng nguyên lý rẻ thay cho đắt bằng cách
đưa ra nhiều phiên bản khác nhau với giá cả khác nhau tùy vào mục đích sử dụng. Các
phiên bản đó là các phiên bản dành cho người tiêu dùng (Windows 8), cho giới doanh
nhân/kỹ thuật hay doanh nghiệp nhỏ (Windows 8 Pro), các doanh nghiệp lớn
(Windows 8 Enterprise) và những người sử dụng thiết bị chạy vi xử lý ARM
(Windows RT).
Kho ứng dụng Windows Store là một thể hiện khác của nguyên lý vạn năng.
Tích hợp trong Windows 8, Windows Store cung cấp các ứng dụng Metro để người
dùng tải hoặc mua về. Sắp tới, Windows Store cũng sẽ cung cấp các ứng dụng cho
GS.TSKH.Hoàng Kiếm Trang 25

×