Tải bản đầy đủ (.doc) (207 trang)

Nghiên cứu sự biến đổi văn hóa của các cộng đồng nông nghiệp nông thôn trong quá trình phát triển các khu công nghiệp (thông qua nghiên cứu trường hợp tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.65 MB, 207 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>---NGUYỄN VĂN QUYẾT</b>

<b>NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HĨA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG NƠNG NGHIỆP-NƠNG THƠN TRONG Q TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC KHU CƠNG NGHIỆP </b>

(Thơng qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Đồng Nai)

<small> </small>

<b>LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

<b>VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM</b>

<b>---NGUYỄN VĂN QUYẾTVăn Quyết</b>

<b>NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG NƠNG NGHIỆP-NƠNG THƠN TRONG Q TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC KHU CƠNG NGHIỆP </b>

(Thơng qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Đồng Nai)

<b>Chuyên ngành: Văn hóa họcMã số: 62 31 70 01</b>

<small> </small>

<b>LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC</b>

<small>Người hướng dẫn khoa học: </small> <b><small>PGS.TS. ĐẶNG VIỆT BÍCH</small></b>

<b><small>PGS.TS. LƯƠNG HỒNG QUANG</small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b><small>LỜI CAM ĐOAN</small></b>

<i><small>Tôi xin cam đoan luận án là do tôi viết và chưa công bố. Các cứ liệu nêu ratrong luận án là trung thực, khách quan. Tôi xin hồn tồn chịu trách nhiệmvề lời cam đoan của mình.</small></i>

<i><small> Hà Nội, ngày tháng năm 2013</small></i>

<b><small> Nghiên cứu sinh</small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b><small>Chương 1. PHÁT TRIỂN CÁC KHU CƠNG NGHIỆP TRONG TIẾN TRÌNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH ĐỒNG NAI...24</small></b>

<small>1.1. Các cơ sở lý thuyết về biến đổi văn hóa...….. ….24</small>

<small>1.2. Vài nét về tỉnh Đồng Nai...30</small>

<small>1.3. Thành tựu kinh tế văn hóa xã hội...37</small>

<small>1.4. Mô tả các cộng đồng được khảo sát...40</small>

<b><small>Tiểu kết...66</small></b>

<b><small>Chương 2. CÁC BIẾN ĐỔI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ KHU CÔNG NGHIỆP...68</small></b>

<small>2.1. Từ bình diện cộng đồng - sự tham gia của người dân vào các nghi lễ cộng đồng...68</small>

<small>2.2. Các nghi lễ tại gia đình...90</small>

<small>2.3. Từ bình diện cá nhân - các hưởng thụ văn hóa trong đời sống hàng ngày.100</small> <b><small>Tiểu kết...112</small></b>

<b><small>Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HĨACHO CÁC CỘNG ĐỒNG NƠNG THƠN TRONG CÁC KCN...115</small></b>

<small>3.1. Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa cho các cộng địng nơng thôn trong các KCN...115</small>

<small>3.2. Xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách ở tầm vĩ mơ...123</small>

<small>3.3. Xây dựng các mơ hình phát triển văn hóa...126</small>

<small>3.4...Các biện pháp tăng cường phát triển văn hóa tại các cộng đồng dân cư có KCN ở bình diện tỉnh Đồng Nai...140</small>

<b><small>Tiểu kết...146</small></b>

<b><small>KẾT LUẬN...148</small></b>

<b><small>DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN...153</small></b>

<b><small>TÀI LIỆU THAM KHẢO...154</small></b>

<small>PHỤ LỤC...169</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b><small>DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT</small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU</b>

<small>Bảng 1:</small> <sup>Quy hoạch phát triển một số KCN lớn của tỉnh Đồng Nai</sup> <small>32Bảng 2: Tổng diện tích đất bị thu hồi qua các năm 44</small>

<small>Bảng 4: Thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ 45Bảng 5: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ45Bảng 6: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ46Bảng 7: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư46Bảng 8: Diện tích đất bị thu hồi xã Thạnh Phú48</small>

<small>Bảng 11: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ50Bảng 12: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ50Bảng 13: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư51Bảng 14: Thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ52Bảng 15: Tổng diện tích đất bị thu hồi qua các năm53Bảng 16: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ53Bảng 17: Thống kê dân nhập cư qua các thời kỳ54Bảng 18: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ54Bảng 19: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư55Bảng 20: Tổng diện tích tự nhiên bị thu hồi để xây dựng các KCN ở 3 xã57Bảng 21: Diện tích đất dành cho nhà trọ trên tổng quỹ đất của hộ ở 3 xã58Bảng 22: Lương công nhân qua các thời kỳ 3 xã59Bảng 23: Khoản tiền trung bình chi cho thuê nhà một năm của người lao động 60Bảng 24: Thu nhập trung bình của chủ nhà trọ qua các năm 62Bảng 25: So sánh thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ64Bảng 26: Mức độ đi chùa/nhà thờ trong thời gian rảnh rỗi68Bảng 27: Người tham gia sinh hoạt tơn giáo, tín ngưỡng tại địa phương69Bảng 28: Người tham gia vào các thiết chế văn hóa: Cư dân địa phương 70Bảng 29: Người tham gia vào các thiết chế văn hóa: Người dân nhập cư71</small>

<small>Bảng 31: Chương trình hoạt động của các giáo xứ trong một năm87</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<small>Bảng 33: Hình thức tổ chức tang lễ94</small>

<small>Bảng 36 Tổ chức đám cưới cho người lao động gần nơi ở99Bảng 37 Tham gia các hoạt động sinh hoạt văn hóa tại nhà máy102Bảng 38 Nhà máy của anh chị có tổ chức bất kỳ hoạt động văn hóa nào dưới đây 103Bảng 39 Tỷ lệ những người biết đến các hoạt động văn hóa do nhà máy tổ </small>

<small>chức và có tham gia các hoạt động này</small>

<small> 104</small>

<small>Bảng 40 Mức độ thường xuyên trong các hoạt động giải trí dưới đây105Bảng 41 Mức độ thường xuyên trong các hoạt động giải trí phân theo giới tính106Bảng 42 Mức độ thường xuyên trong các hoạt động giải trí của nhóm chưa </small>

<small>lập gia đình phân theo giới tính</small>

<small>Bảng 43 Số lần bình qn/người/lần đến các điểm văn hóa dưới đây108Bảng 44 Các trang thiết bị chủ yếu trong các gia đình cư dân tại chỗ xã Long </small>

<small>Bảng 46 Các trang thiết bị chủ yếu trong các gia đình cư dân tại chỗ xã Thạnh Phú110Bảng 47 Khu sinh hoạt văn hóa, giáo dục, thông tin111</small>

<small>Bảng 50 Tổ chức các hoạt động văn hoá trong các dịp lễ, các sự kiện131Bảng 51 Tổ chức các hoạt động văn hoá thường xuyên133Bảng 52 Tổ chức các hoạt động can thiệp từ trên xuống133Bảng 53 Tổ chức tại Trung tâm VHTT xã/phường135Bảng 54 Tổ chức tại các khu dân cư có cơng nhân sinh sống136Bảng 55 Các hoạt động can thiệp từ trên xuống137Biểu đồ số 1: So sánh thu nhập bình quân đầu người của ba xã63</small>

<b>MỞ ĐẦU</b>

<b>1. Tính cấp thiết của đề tài</b>

Quá trình CNH, HĐH đất nước với sự đầu tư của các đối tác nước ngồi đã hình thành ở nước ta các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

cao (gọi chung là KCN), trong đó tập trung vào các tỉnh Đơng Nam Bộ vốn đã có những tiềm lực cơng nghiệp trước 1975 như Bình Dương, Tp. HCM, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. Từ các mơ hình này, các KCN đã được mở rộng ra các khu vực Trung và Bắc Bộ [77]. Các KCN đã tạo nên một nguồn lực phát triển mới về sức sản xuất, góp phần đưa nước ta tham gia vào q trình phân cơng lao động quốc tế. Phương thức CNH bằng việc phát triển các KCN đã cho phép khai thác tốt tài nguyên, nguồn lực lao động, sử dụng vốn, khoa học công nghệ, trình độ tổ chức quản lý,... của các nước tiên tiến vào quá trình sản xuất kinh doanh, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có giá trị thương phẩm trên thị trường. Ở bình diện các tỉnh, việc quy hoạch và phát triển các KCN trên các địa phương đang được xem như một phương thức nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện CNH, HĐH trên địa bàn.

Về mặt xã hội và văn hố, việc hình thành các KCN đã tạo nên những luồng di cư mới từ nông thôn ra đô thị, từ các tỉnh có nền kinh tế chậm phát triển đến các vùng nơng thơn của các tỉnh có nền kinh tế phát triển hơn. Từ đó hình thành ở các địa phương có KCN những vấn đề văn hóa, xã hội mới: tốc độ đơ thị hố tăng vọt, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội được tăng cường hơn nhiều so với trước, mức sống dân cư được cải thiện thích đáng. Bên cạnh đó, q trình này cũng tạo ra những phức tạp trong quản lý xã hội, một số tệ nạn xã hội phát triển, đời sống văn hoá tinh thần của các cư dân vốn cư trú trong các cộng đồng làng xã nay bị các luồng di cư làm xáo trộn... Đó là một thực tiễn phát triển đa diện và phức tạp hơn nhiều của những cộng đồng nông nghiệp – nông thôn và nơng dân khi một phần diện tích đất đai của mình bị chuyển đổi mục đích sử dụng, một bộ phận dân cư phải chuyển dịch nghề, dân nhập cư xuất hiện, mức sống gia tăng, kèm theo đó là các biến đổi về mặt đời sống tinh thần.

Cùng với các chuyển đổi kinh tế xã hội là một phần của những biến đổi

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

văn hoá của các cộng đồng nông thôn khi bị lấy đất làm KCN. Đó là sự thay đổi trong lối sống, từ nếp ăn, ở, mặc cho đến các sinh hoạt văn hoá như hưởng thụ các tác phẩm văn hoá, sáng tạo văn hoá, rồi đến tư duy, hệ giá trị, chuẩn mực, các phong tục tập quán như tang ma, cưới xin, giỗ chạp, hệ thống niềm tin và tôn giáo… Một q trình chuyển đổi cơ cấu văn hóa tinh thần đang diễn ra do những biến đổi kinh tế xã hội, với sự xuất hiện của các KCN.

Trong bối cảnh này, việc nghiên cứu thực trạng đời sống của các cộng đồng có tính chất nơng nghiệp – nơng thơn khi chuyển sang các cộng đồng có tính chất cơng nghiệp, đơ thị sẽ có ý nghĩa góp phần nhận diện thực trạng đời sống văn hoá nước ta hiện nay trong bối cảnh đất nước có những chuyển đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hố, đồng thời góp phần vào việc đưa ra các luận cứ khoa học cho việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cho việc đưa ra các căn cứ thực tiễn và phát triển chính sách cho ngành văn hoá ở trung ương và các tỉnh.

<b>2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu</b>

Nghiên cứu này lấy thực trạng biến đổi trong đời sống văn hóa của các cộng đồng dân cư vốn là các cộng đồng nông nghiệp – nông thôn được chuyển thành các cộng đồng mang tính đơ thị do những áp lực của quá trình CNH, HĐH ở Đồng Nai là việc xây dựng các KCN, làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu của mình.

Do chọn khái niệm văn hố theo nghĩa rộng nên một số vấn đề sau đây sẽ là đối tượng nghiên cứu chủ yếu, đó là:

- Sự biến đổi kinh tế - xã hội của các cộng đồng nông nghiệp - nông thôn sang cộng đồng đô thị - công nghiệp vừa là cơ sở của các biến đổi đời sống văn hoá, vừa là biểu thị của sự biến đổi đời sống văn hoá cộng đồng;

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

- Các biến đổi trong đời sống tơn giáo tín ngưỡng, thể hiện qua các tơn giáo như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài; các tập tục thờ cúng tại miếu, đình, đền…;

- Các biến đổi trong sinh hoạt văn hố cộng đồng thơng qua nghiên cứu các lễ hội cộng đồng, các nghi lễ mang tính cộng đồng;

- Các biến đổi trong đời sống văn hố tại gia đình từ đời sống tâm linh cho đến các lễ tục liên quan đến nghi lễ vòng đời người; nếp ăn, ở, mặc…

- Các xu hướng hưởng thụ/tiêu dùng văn hoá và những biến đổi của nó dưới tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội như mức sống, học vấn…;

- Các biến đổi trong hệ thống giá trị chuẩn mực, lối sống, nếp sống. - Các điều kiện và yếu tố tác động đến quá trình biến đổi đời sống văn hố; trong đó, đặc biệt chú ý đến các yếu tố về kinh tế, chính trị, xã hội, sự giao lưu và tiếp biến văn hố giữa nơng thơn và đô thị, giữa các vùng miền, giữa nước ta với các nước trên thế giới…;

- Các vấn đề về quản lý và chính sách phát triển văn hố có liên quan trực tiếp đến sự phát triển các KCN, đến việc xây dựng đời sống văn hố cơ sở vùng dân cư có KCN, đặc biệt là các xã nông thôn đang chuẩn bị chuyển nhanh thành thị trấn.

Phạm vi nghiên cứu của luận án lấy tỉnh Đồng Nai như một trường hợp

<i>nghiên cứu. Thời gian nghiên cứu là từ 1990 trở lại đây, sau khi Luật Đầu tư</i>

<i>nước ngoài ban hành tháng 12 – 1987. Trên thực tế phải đến đầu những năm</i>

90 tốc độ và quy mô đầu tư công nghiệp của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào Việt Nam mới gia tăng, trước hết là các tỉnh Đơng Nam Bộ, trong đó có tỉnh Đồng Nai, nơi có nhiều điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư của xã hội vào các KCN.

Do đây là vấn đề mang tính tổng hợp và trải rộng trên nhiều địa bàn, trong luận án này, chúng tôi chỉ tập trung vào nghiên cứu 3 xã là Hiệp Phước

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

và Long Thọ (huyện Nhơn Trạch) và xã Thạnh Phú (huyện Vĩnh Cửu), với các mức độ bị ảnh hưởng khác nhau. Đây là 3 cộng đồng dân cư bị lấy đất nông nghiệp, đất thổ cư ở những mức độ khác nhau, để xây dựng các KCN, có làn sóng dân nhập cư lớn, có q trình biến chuyển cơ cấu kinh tế - xã hội ở những mức độ khác nhau, phù hợp với chủ đề nghiên cứu của luận án. Tuy nhiên, 3 cộng đồng này lại phản ánh q trình biến đổi khơng đồng đều nhau, với mức độ phát triển khác nhau, trong đó Hiệp Phước là xã có tốc độ ĐTH, CNH mạnh nhất, tiếp đến là Thạnh Phú, cuối cùng là Long Thọ, thể hiện ở các chỉ báo: mức độ chuyển đổi mục đích sử dụng đất, mức độ chuyển đổi cơ cấu dân cư, mức sống, tiện nghi sinh hoạt và phương thức tiêu dùng.

<b>3. Về lịch sử nghiên cứu vấn đề</b>

Đối với chủ đề nghiên cứu của luận án, có 3 nhóm cơng trình có liên quan: các nghiên cứu lý thuyết về sự biến đổi văn hóa chung và ở Việt Nam; các nghiên cứu về tỉnh Đồng Nai và cuối cùng là nhóm các nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài luận án.

<i>Ở bình diện lý thuyết chung, lịch sử nghiên cứu về biến đổi văn hóa đã</i>

cung cấp những lý thuyết rất quan trọng cho các nghiên cứu thực địa về sự biến đổi của các xã hội đang chuyển đổi, trong đó đáng lưu ý là cơng trình

<i>Hiện đại hóa, biến đổi văn hóa và sự duy trì những giá trị văn hóa truyềnthống của Ronald Inghart và Waye E. Baker [83], đã cung cấp một cái nhìn</i>

tổng quan và các lý thuyết về sự biến đổi văn hóa trong các xã hội đang trong tiến trình HĐH.

<i>Biến đổi văn hố đã được đề cập đến từ khá sớm bởi những nhà khoa</i>

<i>học khởi xướng ủng hộ thuyết tiến hoá văn hoá như E. Taylor (1891) hay L.</i>

Morgan (1877) khi họ phân chia xã hội theo thứ bậc đơn tuyến và có chung một mẫu hình biến đổi xã hội và biến đổi văn hố. Theo mơ hình phát triển tiến hóa đơn tuyến này, những nền văn hố ngồi phương Tây được nhìn nhận

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

là “kém văn minh”, con người sống trong sự ràng buộc chặt chẽ của phong tục, và vì vậy sự biến đổi diễn ra rất chậm chạp,… đối ngược lại với văn hoá phương Tây “văn minh”, năng động và biến đổi nhanh. Mơ hình tiến hóa luận đơn tuyến về sự phát triển và biến đổi của văn hóa này bị phản đối rộng khắp trong giới Nhân học và đây cũng là tiền đề để khá nhiều lý thuyết mới về biến đổi văn hoá ra đời và phát triển vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX: Thuyết

<i>Truyền bá văn hoá (đại diện là G.Elliot Smith 1911, W.Rivers 1914,…) cho</i>

rằng vấn đề mấu chốt của biến đổi văn hoá là sự vay mượn hoặc sự truyền bá

<i>của các đặc trưng văn hoá từ xã hội này sang xã hội khác; Thuyết Vùng văn</i>

<i>hoá (đại diện là C.L.Wissler 1923, A.L.Kroeber 1925,…) đưa ra các khái</i>

niệm cơ bản về vùng văn hố, loại hình văn hố, trung tâm văn hố, tổ hợp văn hoá, sự biến đổi văn hoá diễn ra rất đa chiều và nhiều cấp độ tuỳ thuộc vào việc cộng đồng đó là trung tâm hay ngoại vi hay vùng chuyển tiếp, môi

<i>trường và sự chuyên môn hố của cộng đồng đó là gì? Thuyết Tiếp biến văn</i>

<i><b>hoá (đại diện là Redfield 1934, Broom 1954,...) chỉ ra sự biến đổi văn hoá</b></i>

trong bối cảnh những xã hội phương Tây và ngoài phương Tây đã trải qua mối quan hệ lâu dài, đặc biệt là sự ảnh hưởng của những xã hội có ưu thế đối

<i><b>với người dân bản địa. Thuyết Chức năng (đại diện là Brown 1952,</b></i>

Malinowski 1944,…) nhìn nhận xã hội như một dạng cơ cấu trong đó từng bộ phận đều có chức năng cụ thể, mỗi chức năng đó có thể xác định được nhằm để duy trì hệ thống xã hội tổng thể. Vì vậy xã hội và văn hố thường có sự hội nhập tốt và ổn định, nếu văn hố thay đổi thì phần lớn là do tác động từ bên ngoài,... Cùng với các trường phái trên là hàng loạt những luận điểm lý thuyết

<i>về thích nghi văn hoá, hội nhập văn hoá, sinh thái học văn hoá,…</i>

Ở phạm vi Việt Nam, các nghiên cứu của các học giả nước ngoài nghiên

<i>cứu về Việt Nam như Lương Văn Hy, với các cơng trình Việt Nam thời hậu</i>

<i>chiến: động thái của một xã hội đang chuyển đổi (2003), Cuộc cách mạng</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<i>trong làng: Truyền thống và biến đổi của một xã hội đang chuyển đổi ở BắcViệt Nam, từ 1925 đến 1988 (1992)[49]. Các cơng trình nghiên cứu của</i>

Lương Văn Hy đã có những gợi ý về mặt mơ hình nghiên cứu về sự biến đổi các cộng đồng nông thôn, phù hợp với đặc điểm văn hóa và lịch sử phát triển của Việt Nam.

<i>Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Giảm nghèo, di dân, đơ thị hóa tại Tp. HCM</i>

<i>trong tầm nhìn so sánh [64] được tổ chức trên cơ sở các kết quả nghiên cứu</i>

của Chương trình nghiên cứu được tiến hành từ năm 1997 đến 2003 bởi Viện Khoa học Xã hội tại Tp. HCM hợp tác với Hội đồng Khoa học Xã hội Hoa Kỳ (SSRC), với sự tài trợ của Quỹ Ford, đã cung cấp nhiều nghiên cứu sâu về các cộng đồng cư dân ven đơ dưới góc độ di dân – chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp và biến đổi văn hóa và lối sống, giúp cho tác giả luận án có những tham khảo hữu ích.

Cùng hướng nghiên cứu này, các biến chuyển văn hóa xã hội của các cộng đồng nơng thơn khi tiến trình CNH được đẩy mạnh, đã được nhiều học giả trong nước và quốc tế quan tâm, trong đó có một số cơng trình đăng trong

<i>tuyển tập Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: những cách</i>

<i>tiếp cận nhân học [50], do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp. HCM ấn hành</i>

năm 2010.

Các nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học Xã hội Tp. HCM trong chương trình giảm nghèo của Tp. Hồ Chí Minh, từ 1995 đến 2005 đã có những nghiên cứu sâu về các cộng đồng nông thôn ven đô khi trở thành các thị trấn, thị tứ hoặc bị đô thị tác động mạnh. Các nghiên cứu của Tôn Nữ Quỳnh Trân về chủ đề này cũng cho chúng ta thấy được tiến trình phát triển của các làng xã ven đô, khi bị mất đất cho các nhu cầu ĐTH, họ đã phải đối mặt với “sức hút” của đô thị, đã chuyển đổi cơ cấu lao động nghề nghiệp như thế nào, phát triển được cái gì, đang bắt gặp những khó khăn nào? [118].

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<i>Năm 2011, Nguyễn Văn Dân đã cơng bố cơng trình Con người và văn</i>

<i>hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập [20] đã nghiên cứu về con</i>

người và văn hóa Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới, phân tích các nhân tố tác động, dự báo những xu hướng phát triển. Cơng trình này đã cung cấp cho luận án một cái nhìn tổng qt về văn hóa thời kỳ đổi mới.

Các cơng trình này đặc biệt chú trọng nghiên cứu đến các tác động của nhiều yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội đến văn hố của các cộng đồng dân cư, chỉ ra các xu hướng phát triển của văn hoá trong bối cảnh kinh tế thị trường và mở cửa. Các nghiên cứu này chủ yếu được triển khai trên cách tiếp cận xã hội học hay nhân học văn hoá - xã hội, với các nghiên cứu của Viện Xã hội học (Tô Duy Hợp, Trịnh Duy Luân, Bùi Thế Cường…), Viện Văn hoá

<i>-Thông tin, bao gồm các cơng trình Văn hố nơng thơn trong phát triển(Lương Hồng Quang, 1997 - 1999) [79], Vai trò hệ thống truyền thơng đại</i>

<i>chúng trong việc phát triển nền văn hố Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắcdân tộc (Bùi Quang Thắng - 1999) [98]. Gần đây, cơng trình của Nguyễn</i>

<i>Phương Châm về Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay (trường hợp làng</i>

<i>Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đình Bảng thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) [13]</i>

<i>hay cơng trình Câu chuyện làng Giang (các khuynh hướng, giá trị và khuôn</i>

<i>mẫu trong một xã hội đang chuyển đổi) của nhóm tác giả do Lương Hồng</i>

Quang làm chủ biên [82], đã cho thấy các động thái biến đổi của các cộng đồng nông thôn vùng châu thổ sông Hồng trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh CNH, HĐH, từ đời sống tơn giáo tín ngưỡng, các quan hệ xã hội cho đến các biểu hiện văn hóa cụ thể. Đây là các cơng trình khơng chỉ là mơ tả các biến đổi mà đã chỉ ra các xu hướng, các mối liên hệ hữu cơ giữa các nhân tố phát triển của các cộng đồng dân cư vốn là nơng nghiệp đang trong tiến trình HĐH. Các cơng trình này là một tham khảo tốt cho đề tài luận án về định hướng nghiên cứu, về việc cần phải gắn biến đổi văn hóa với tiến trình biến

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

đối cơ cấu kinh tế - xã hội, đặc biệt là xu hướng biến đổi văn hóa có tính hai mặt: vừa phụ thuộc vào sự biến đổi kinh tế xã hội, vừa có tính độc lập và đơi khi, độc lập với tiến trình biến đổi kinh tế.

Liên quan tới những hiểu biết chung của đề tài, là các cơng trình nghiên

<i>cứu mang tính tổng hợp về tỉnh như Địa chí Đồng Nai, do nhà xuất bản Đồng</i>

Nai ấn hành vào 2000 và 2001 [114], cung cấp một cái nhìn tổng quát về địa lý, sinh thái, lịch sử, phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa của tỉnh, trong đó có mơ tả những nét khái quát về các cộng đồng nông thôn và nông dân trên mảnh đất Đồng Nai trong hơn 300 năm lịch sử.

Liên quan tới các cộng đồng nông dân - nông thôn trên tỉnh Đồng Nai sau 1975 là các cơng trình nghiên cứu của Diệp Đình Hoa viết về các làng cổ

<i>của tỉnh Đồng Nai, đó là các cuốn Làng Bến Gỗ xưa và nay [38], xuất bảnnăm 1995, Làng Bến Cá xưa và nay [39], xuất bản năm 1998. Hai cơng trình</i>

này đều là ấn phẩm của nhà xuất bản Đồng Nai. Cơng trình của Diệp Đình Hoa cung cấp một bức tranh mơ tả về những cộng đồng nông thôn Việt phương Nam, với tất cả thăng trầm của nó trong lịch sử, với các biểu hiện văn hóa vật chất và tinh thần của các cộng đồng cư dân Việt trong một vùng dân cư mang tính hỗn dung văn hóa. Đây là những mô tả dân tộc học rất công phu, chi tiết, có thể làm cơ sở tư liệu đầu vào khi các nghiên cứu về biến đổi văn hóa làng xã Việt tỉnh Đồng Nai trong thời kỳ CNH, HĐH.

Về nhóm tài liệu liên quan trực tiếp đến đề tài, có thể kể tới cơng trình nghiên cứu của nhóm tác giả do Lương Hồng Quang (chủ biên). Năm 1998, Viện Văn hóa Thơng tin đã nghiên cứu về làng Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch - một làng trong đối tượng khảo sát của đề tài. Đây là một nghiên cứu nhỏ, chỉ tập trung vào một xã, do đó chưa thể đại diện được tính đa dạng của sự phát triển ở Đồng Nai, nhất là tính đến thời điểm hiện nay. Nhưng vào thời điểm đó, làng Hiệp Phước là một làng thuần nông nghiệp, với tất cả những

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

biểu hiện của một văn hóa nông nghiệp - nông dân và nông thôn, đã là một tư liệu đầu vào quan trọng để có thể thấy được bức tranh của sự biến đổi văn hóa của một làng quê thuần nông.

Đầu những năm 2000, trong khn khổ chương trình khoa học cơng nghệ cấp nhà nước về phát triển văn hoá - con người và nguồn nhân lực, đề

<i>tài KX 05.03 về Đời sống văn hoá và xu hướng phát triển văn hoá vùng đơ</i>

<i>thị và KCN trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá được triển khai ở Hà</i>

Nội, Đà Nẵng, Tp. HCM và tỉnh Bình Dương, đã cung cấp những phương pháp luận và cách tiếp cận vấn đề trong nghiên cứu đời sống văn hố KCN và đơ thị, nhất là từ góc độ nghiên cứu phát triển chính sách quản lý đời sống văn hoá. Đây là đề tài liên quan trực tiếp đến nội dung nghiên cứu của luận án, song góc tiếp cận của nó là nghiên cứu trực tiếp về KCN và đời sống văn hóa tinh thần của công nhân KCN, chưa phải là nghiên cứu vào các cộng đồng nông dân – nông thôn dưới tác động của KCN.

Trong phạm vi đề tài nhà nước KX.05.03, nhóm tác giả do Đình Quang

<i>chủ biên đã xuất bản cơng trình Đời sống văn hóa của các đô thị và KCN Việt</i>

Nam [77], do nhà xuất bản Văn hóa Thơng tin ấn hành năm 2005, trong đó có những nghiên cứu tại tỉnh Đồng Nai. Đây là một nghiên cứu có một phần đi chuyên sâu về đời sống văn hóa tinh thần của cơng nhân KCN hai tỉnh Bình Dương và Đồng Nai, gắn với các cộng đồng nông thôn bị mất đất cho KCN, cung cấp một bức tranh khá toàn diện về đời sống văn hóa tinh thần của cơng nhân các KCN, trong đó thiên về sự tiêu dùng văn hóa của người dân.

Cùng với Bình Dương, Đồng Nai cũng có những vấn đề tương tự trong quá trình CNH, HĐH. Cách đây 5 năm, vào các năm 2005 và 2006, Sở VHTT Đồng Nai có kết hợp với Viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật đã xây dựng

<i>đề tài Khảo sát về Đời sống Văn hóa Cơng nhân các KCN ở Đồng Nai [81],</i>

nghiên cứu trên nhiều huyện của tỉnh, tập trung vào các KCN trên địa bàn

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

tỉnh. Đề tài đã chỉ ra nhiều tồn tại trong việc tổ chức đời sống văn hóa tinh thần cho cơng nhân các KCN, khuyến nghị các chính sách về tổ chức đời sống văn hóa tinh thần cho cơng nhân KCN với hai mơ hình: Mơ hình tại các cộng đồng dân cư và Mơ hình tại các doanh nghiệp. Nghiên cứu này là một cơ sở tham khảo hữu ích cho nghiên cứu của chúng tơi khi muốn mở rộng diện khảo sát và nghiên cứu.

Năm 2010, cơng trình hợp tác giữa Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam

<i>và Viện Văn hóa và Du lịch Hàn Quốc về Nghiên cứu các giải pháp nhằm</i>

<i>giảm thiểu xung đột giữa chủ Hàn Quốc và công nhân Việt Nam tại Việt Nam</i>

<i>[138], cũng lấy địa bàn Đồng Nai làm đối tượng khảo sát, đã cho thấy một</i>

phần đời sống văn hóa tinh thần của cơng nhân KCN sinh sống trong các cộng đồng ven KCN. Đó chưa phải là các nghiên cứu trực tiếp về các cộng đồng nông nghiệp – nơng dân khi các KCN hình thành trên mảnh đất của mình mà là nghiên cứu trực tiếp vào người cơng nhân các KCN.

Về các đề tài có liên quan tới công nhân KCN, đặc biệt là các vụ đình cơng của cơng nhân nhập cư và cơng nhân tại các cộng đồng địa phương tại chỗ. Vấn đề này gắn liền với các cộng đồng dân cư nông thơn có đất, được trưng dụng vào việc xây dựng các KCN, tiêu biểu là các cơng trình của Chang

<i>Hee Lee xuất bản năm 2006 về Quan hệ lao động và giải quyết tranh chấp</i>

<i>lao động tại Việt Nam [146]; của Jang Jung Min Sunoo: Một số giải phápphòng ngừa đình cơng tại các doanh nghiệp ở Việt Nam [150], tổ chức lao</i>

động quốc tế xuất bản năm 2007. Các cơng trình này đã báo động những bất ổn về mặt văn hóa xã hội của các cộng đồng dân cư “hội” vào các KCN. Một mặt, các KCN luôn phải thiếu nhân công hay nhân công không ổn định, nhưng mặt khác, các xã có KCN sẽ phải đối mặt với những thách thức về lượng người sinh sống gia tăng đột biến.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Có một số hội nghị, hội thảo liên quan tới sự phát triển các KCN cũng như các vấn đề về đời sống văn hóa xã hội của KCN. Năm 2010, Bộ Kế hoạch Đầu tư đã phối hợp với Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam tổ chức hội

<i>thảo: Xây dựng môi trường sống cho công nhân xung quanh các KCN tại Việt</i>

<i>Nam, trong đó ghi nhận những đóng góp của các cộng đồng dân cư nơng thơn</i>

vào việc cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản cho bản thân cơng nhân và gia đình của họ. Trong năm 2011, Bộ Kế hoạch Đầu tư cũng đã tổ chức hội thảo:

<i>Vấn đề lao động và điều kiện sống của công nhân KCN, khu kỹ thuật trong</i>

khuôn khổ chương trình tổng kết đánh giá 20 năm phát triển KCN, khu kỹ thuật đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hội thảo chỉ ra những mối liên hệ nông thôn – đô thị khi phát triển các KCN, với những đề xuất chính sách để hạn chế những tác động tiêu cực của tiến trình phát triển KCN vào các cộng đồng nông thôn.

Tháng 11 năm 2008, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với

<i>Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức hội thảo: Xây dựng đời sống văn</i>

<i>hóa cơng nhân lao động ở các KCN đến 2015, cho thấy tầm quan trọng của</i>

công tác này đối với việc phát triển các KCN cũng như gắn các KCN với các cộng đồng dân cư xung quanh KCN. Năm 2010, Ban Chỉ đạo Trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động sản đã tổ chức Hội thảo Quốc gia về

<i>Nhà ở công nhân - Thực trạng và giải pháp với sự phối hợp của Bộ Xây</i>

dựng, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và UBND tỉnh Bình Dương. Hội nghị đã đưa ra thơng tin là: hiện mới có 20% cơng nhân các KCN có chỗ ở ổn định, cịn khoảng 80% phải thuê nhà ở trọ chật chội và thiếu tiện nghi tại các cộng đồng dân cư có KCN. Như vậy số công nhân, lao động tại các KCN cả nước có nhu cầu về nhà ở đến năm 2015 khoảng 2,65 triệu người và cần khoảng 21,2 triệu m<small>2</small> nhà ở và năm 2020 con số tương ứng là 4,2 triệu người và 33,6 triệu m<small>2</small><i> nhà ở. Tháng 4/2001, hội thảo: Cơng nghiệp hóa, hiện đại</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<i>hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra đã được tổ chức, nhấn mạnh đến</i>

những tác động của KCN vào các cộng đồng nông dân - nông thôn, sự phát triển các KCN là những cơ hội song cũng chứa đựng những thách thức đối với chúng trên con đường phát triển.

Về các văn bản pháp quy, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản liên quan tới việc phát triển các KCN. Gần đây nhất, liên quan trực tiếp tới việc xây dựng đời sống văn hố cơng nhân ở các KCN, Thủ

<i>tướng Chính phủ vừa phê duyệt Đề án Xây dựng đời sống văn hố cơng nhân</i>

<i>ở các KCN đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 theo Quyết định số</i>

1780/QĐ-TTg ngày 12/10/2011, với mục tiêu xây dựng đội ngũ cơng nhân có nếp sống văn hóa lành mạnh, có tác phong làm việc cơng nghiệp, năng suất, chất lượng và hiệu quả. Đề án đặt mục tiêu đến năm 2015 sẽ có 70% cơng nhân và người sử dụng lao động ở các KCN được phổ biến pháp luật về xây dựng đời sống văn hố, 100% địa phương (có KCN) hồn thành việc phê duyệt quy hoạch phát triển thiết chế văn hoá, thể thao phục vụ công nhân. Phấn đấu 50% công nhân ở các KCN tham gia các hoạt động văn hoá, thể thao và 50% “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hoá”. Các chỉ tiêu trên sẽ tiếp tục được duy trì, củng cố và nâng cao để đến năm 2020, 100% công nhân và người sử dụng lao động ở các KCN được phổ biến pháp luật về xây dựng đời sống văn hố. Lượng cơng nhân ở các KCN tham gia các hoạt động văn hoá, thể thao được nâng lên 70%, đặc biệt là số “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hoá” nâng lên 80%.

Để đạt các mục tiêu trên, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tổ chức phát động, đăng ký thi đua xây dựng đời sống văn hóa cơng nhân ở các địa phương (có KCN). Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp trong việc thực hiện các chính sách pháp luật về lao động, bảo hiểm và các chế độ an sinh xã hội đối với công nhân. Thực hiện nghiêm việc phê

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

duyệt phát triển các KCN phải có quy hoạch xây dựng nhà ở và các cơng trình văn hóa, xã hội phục vụ công nhân làm việc ở các KCN. Chủ các doanh nghiệp phải cam kết thực hiện trách nhiệm xã hội trong việc chăm lo xây dựng đời sống văn hóa của cơng nhân.

Với các cơng trình nghiên cứu có liên quan cũng như các cơng trình liên quan trực tiếp đến đề tài, chúng ta có thể thấy những điểm cần lưu ý sau:

- Với chủ đề biến đổi văn hóa của cư dân KCN tỉnh Đồng Nai, các nghiên cứu về các cộng đồng nông thôn trước tác động của tiến trình cơng nghiệp hóa, cụ thể ở đây là các KCN, là chưa nhiều.

- Bên cạnh những thuận lợi và thời cơ có được từ các KCN như chuyển đổi cơ cấu kinh tế - xã hội, gia tăng mức sống..., là những khó khăn và thách thức đang đứng trước các các cộng đồng dân cư tại chỗ, đó là sự quá tải về cơ sở hạ tầng, dân số tăng đột biến, các phức tạp về an ninh trật tự, phá vỡ một phần lối sống - nếp sống của vùng thôn quê để chuyển sang lối sống đô thị của một bộ phận dân cư… Đó là những hệ quả của tiến trình phát triển dưới tác động của các KCN.

- Các cư dân tại chỗ, về mặt đời sống tinh thần, bên cạnh quá trình chuyển đổi mang tính tự nhiên do các nhu cầu về phát triển kinh tế, đã và đang có những “khoảng cách”, “dị ứng” với tiến trình này, địi hỏi sự làm quen và thích nghi với những yếu tố mới từ bên ngồi xâm nhập vào.

- Tìm ra một giải pháp hoàn chỉnh, toàn diện cho các cộng đồng dân cư tại chỗ thích nghi với một tiến trình phát triển mới, địi hỏi phải có những nghiên cứu, tìm tịi, thời gian và cơng sức để đưa ra những mơ hình tổ chức đời sống văn hóa tinh thần hữu hiệu cho các cộng đồng dân cư tại chỗ, vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ.

<b>4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Nghiên cứu của chúng tôi sẽ tập trung vào việc khảo sát những xu hướng biến đổi trong đời sống văn hố các cộng đồng dân cư nơng nghiệp có liên quan tới quá trình phát triển các KCN ở tỉnh Đồng Nai. Từ đây, đề ra các căn cứ khoa học cho việc xây dựng và quản lý văn hoá của các cộng đồng dân cư này, góp phần vào sự phát triển chung của KCN cũng như các cộng đồng có liên quan tới KCN.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Khảo sát các biến đổi đời sống văn hóa của 3 cộng đồng dân cư nông nghiệp - nông thôn sau khi bị cắt một phần đất nông nghiệp, đất thổ cư để xây dựng các KCN tập trung, đã bị biến đổi như thế nào trong một bối cảnh phát triển nhanh chóng, phát triển “nóng”, mang tính “cưỡng bức” từ trên xuống.

- Thông qua sự khảo sát này, cùng với các trường hợp khác mà tác giả luận án đã thâm nhập trong q trình cơng tác tại tỉnh, khái quát lên một bức tranh phát triển đời sống văn hóa của những cộng đồng dân cư có KCN tập trung, với tất cả những lợi thế, hạn chế, thời cơ và thách thức đối với họ.

- Xây dựng một số giải pháp mang tính lý luận và thực tiễn để góp phần vào việc hình thành các quan điểm, cơ chế chính sách phát triển văn hóa của các cộng đồng nơng thơn Đồng Nai có KCN, từ đây, cung cấp các luận giải khoa học và căn cứ thực tiễn cho việc quản lý văn hóa nông thôn ở tầm vĩ mô.

<b>5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu</b>

Cơ sở lý luận của luận văn này được phát triển trên cơ sở các luận điểm của Đảng và Nhà nước về CNH, HĐH đất nước, về quá trình xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó nhấn mạnh đến vai trị của phát triển kinh tế, vị trí của việc phát triển các lĩnh vực xã hội – văn hoá như là nền tảng của sự phát triển.

Luận án cũng dựa vào một số lý thuyết của xã hội học và nghiên cứu văn hoá khi đề cập tới vấn đề biến chuyển văn hố, trong đó nhấn mạnh đến lý

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

luận cho rằng sự biến đổi văn hoá cần được nghiên cứu trong những bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị và xã hội cụ thể, trong những tương tác văn hoá giữa truyền thống và hiện đại, giữa trong nước và quốc tế. Trong các lý thuyết biến đổi văn hóa này, cần cân bằng hai quan điểm: Những nhà lý thuyết hiện đại

<i><b>hố, ví dụ như Ronald Inglehart và Wayne E. Baker trong cơng trình: Hiện</b></i>

<i>đại hố, biến đổi văn hố và sự duy trì những giá trị văn hoá truyền thống</i>

[84] đã cho rằng: từ Karl Marx tới Daniel Bell đã cho rằng sự phát triển kinh tế - xã hội sẽ mang tới những biến đổi văn hoá phong phú, nhưng những người khác từ Max Weber tới Samuel Huntington lại tuyên bố rằng những giá trị văn hoá là những ảnh hưởng lâu dài và tự trị lên xã hội, nghĩa là sự phát triển văn hóa mang yếu tố nội sinh. Quan điểm lý thuyết của luận án là: Sự biến đổi văn hóa là kết quả của cả hai tiến trình phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình tự thân vận động bên trong của văn hóa, biến đổi văn hóa khơng thể và khơng chỉ là kết quả của một quá trình.

Phương pháp nghiên cứu của đề tài bao gồm:

<i>- Thống kê: trong đó tập trung vào các dữ liệu phát triển kinh tế xã hội,</i>

dân cư, mức sống, cơ sở hạ tầng…

<i>- Điều tra xã hội học: đã được tổ chức điều tra tại 3 xã, với 500 phiếu,</i>

với mục tiêu là khảo sát đời sống văn hóa tinh thần của bộ phận dân nhập cư trên địa bàn. Luận án cũng đã có những dữ liệu được phân tích thơng qua

<i>phương pháp phân tích thứ cấp các số liệu điều tra khảo sát của các đề tài</i>

<i>nghiên cứu về công nhân KCN Đồng Nai gần đây.</i>

<i>- Nghiên cứu trường hợp: trực tiếp nghiên cứu 3 cộng đồng dân cư (3</i>

xã), với sự phát triển khác nhau sau khi bị mất một phần đất để nhà nước xây dựng các KCN, trong đó Hiệp Phước (huyện Nhơn Trạch) và Thạnh Phú (huyện Vĩnh Cửu) là 2 xã bị tác động của KCN mạnh nhất, xã Long Thọ

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

(huyện Nhơn Trạch) là xã ít bị tác động hơn. 3 xã đều có một điểm chung là các cộng đồng dân cư nông nghiệp - nông thôn tiêu biểu cho tỉnh Đồng Nai.

<i>- Phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm: Luận án đã có những dữ liệu sâu</i>

là do đã phỏng vấn trực tiếp và thảo luận với nhiều người cao tuổi am hiểu về văn hóa cộng đồng, các cơng nhân nhập cư sinh sống tại 3 xã, các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý văn hóa ở xã, huyện, tỉnh.

<i>- Quan sát thâm nhập: tác giả luận án đã trực tiếp sinh sống và quan sát</i>

các hiện tượng văn hóa tiêu biểu của 3 cộng đồng dân cư trong nhiều năm, qua đó, thấu hiểu đời sống và những biến đổi của cư dân tại chỗ. Các quan sát này được tiến hành trước khi làm luận án, do tác giả có thời gian dài cơng tác tại các địa phương, cũng như sau này, trong suốt quá trình thực hiện viết luận án.

<i>- Phương pháp chuyên gia: Trực tiếp xin sự tư vấn của các chuyên gia</i>

về phát triển KCN, về văn hóa nơng thơn, về phát triển văn hóa gắn với phát

<i>triển kinh tế xã hội, bao gồm các chuyên gia của tỉnh và trung ương. </i>

<b>6. Bố cục luận án</b>

Ngoài phần Mở đầu (16 trang), Kết luận (5 trang), Tài liệu tham khảo (14 trang) và Phụ lục (40 trang), luận án gồm 3 chương:

<i>Chương 1: Phát triển các KCN trong tiến trình CNH, HĐH ở tỉnh Đồng</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<b>Chương 1</b>

<b>PHÁT TRIỂN CÁC KHU CƠNG NGHIỆP TRONGTIẾN TRÌNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HÓA</b>

<b> Ở TỈNH ĐỒNG NAI</b>

<b>1.1. Các cơ sở lý thuyết về biến đổi văn hóa</b>

Các lý thuyết về biến đổi văn hóa được hình thành chủ yếu dựa trên các lý thuyết về biến đổi xã hội được các học giả phương Tây xây dựng trong ngành nhân học và xã hội học, ở đó biến đổi xã hội là một q trình qua đó các khn mẫu của các hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi theo thời gian. Với quan điểm này, văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, cũng tự không ngừng biến đổi. Sự ổn định chỉ là sự ổn định của bề ngồi, cịn thực tế nó khơng ngừng thay đổi bên trong bản thân nó. Bất cứ xã hội nào và bất cứ nền văn hóa nào, cho dù nó có bảo thủ và cổ truyền đến đâu chăng nữa cũng luôn biến đổi; sự biến đổi trong xã hội hiện đại ngày càng rõ hơn, nhanh hơn. Mọi cái đều biến đổi và xã hội cũng giống như các hiện thực khách quan khác, không ngừng

<i>vận động và thay đổi, với một thực trạng đứng yên trong sự vận động liên tục.</i>

Biến đổi xã hội là hiện tượng phổ biến, nhưng nó diễn ra khơng giống nhau giữa các xã hội; với những khác biệt về phạm vi, thời gian và hệ quả. Đó là một q trình mang tính chủ động của các lực lượng trong xã hội hay mang tính phi kế hoạch, nghĩa là đó là một tiến trình tự nhiên, khách quan. Thường thì có sự phân chia giữa biến đối vĩ mô và vi mô, để chỉ những tầm mức biến đổi khác khau trong đời sống xã hội. Khái niệm biến đổi là một thuật ngữ không chỉ định hướng giá trị mà thể hiện một sự mô phỏng của một nền văn hóa hay cấu trúc xã hội hiện hữu, khơng hàm nghĩa là một phán quyết giá trị chứ không phải là một lời tường thuật về một sự kiện hay hiện tượng xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Các nhà nhân học và xã hội học khi xem xét đến sự phát triển của xã hội, đã đưa ra một số lý thuyết để giải thích tại sao biến đổi xã hội lại xảy ra và dự đoán những biến đổi sẽ diễn ra trong tương lai. Một số cách tiếp cận chủ yếu về biến đổi xã hội thường được xem xét đến là:

<i>(1) Cách tiếp cận theo chu kỳ: Trong lịch sử loài người, sự hiểu biết về</i>

chu kỳ của những biến đổi xã hội đã ăn sâu vào ý nghĩ của con người, chu kỳ của tự nhiên, mặt trời mọc và lặn, quy luật bốn mùa thay đổi của một năm và sự lặp lại của tự nhiên, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến những khái niệm, nhận thức của con người về sự biến đổi xã hội. Nhân loại hiểu rằng, lịch sử được lặp lại mãi trong những chu kỳ không bao giờ kết thúc. Các nhà khoa học và sử học trước đây nhìn chung đều phản đối những tư tưởng này, mặc dù họ cho rằng các xã hội có những chu kỳ sống của nó, và mỗi xã hội được sinh ra trưởng thành, rồi sau đó biến mất. Một số nhà lý thuyết, như Amold Toybee lại có quan điểm tương tự, nhưng ông phản đối "sự không thể tránh được" của sự suy tàn và cho rằng "những nỗ lực được tạo nên bởi con người có thể cho phép văn minh hóa đối với sự sống". Trong khi đó Pitirim Sorokin lại đưa ra lý thuyết chu kỳ về sự biến đổi với một bước tiến xa hơn, và cho rằng sự văn minh hóa được dao động trong ba kiểu của "những trạng thái tâm lý" hoặc

<i>rộng hơn - kiểu hệ tư tưởng, kiểu cảm giác và kiểu lý tưởng - trong tất cả các</i>

hệ thống văn hóa, sự biến đổi xuất hiện khi mơ hình cụ thể của suy nghĩ nắm được giới hạn logic của nó.

<i>(2) Các quan điểm tiến hóa: với hai mơ hình kinh điển và quan điểm tiến</i>

hóa mới. Mơ hình kinh điển là những mơ hình được lấy từ khoa học sinh học, đã giành được vị trí ở thế kỷ XIX, nhiều nhà xã hội học đã tán thành với lý thuyết phổ biến được gọi là sự tiến hóa một chiều, sự tiến hóa theo lộ trình dọc, chỉ tiến về phía trước chứ khơng lùi hoặc đi ngược về phía sau cho rằng tất cả các hình thức sống, tất cả các xã hội đều tiến hóa từ những hình thức

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

đơn giản đến phức tạp, với mỗi hình thức sau xa hơn những hình thức trước nó, với các học giả như Auguste Comte, Herbert Spencer, Émile Durkhem. Thế kỷ XX, những mơ hình ở thế kỷ trước đã mơ tả biến đổi xã hội như là sự tiếp tục và không thể thay đổi được thay thế bằng cái nhìn tinh tế hơn. Những lý thuyết tiến hóa mới, hiểu biết về các xã hội khác nhau tùy thuộc vào mức độ phức tạp của xã hội và qua thời gian một khuynh hướng chung đi tới sự khác biệt xã hội (kinh tế, gia đình, tơn giáo, chính trị,...) trở thành sự phân chia và khác biệt giữa các thành phần trong một xã hội tổng thể. Không giống như các nhà nghiên cứu lý thuyết tiến hóa ở thế kỷ XIX, các nhà lý thuyết tiến hóa mới khơng mơ tả một hình thức của xã hội như là một sự tuyệt đối, cũng không khẳng định rằng, các xã hội khơng thể tiến hóa tới một vài thực trạng cao hơn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<i>(3) Quan điểm xung đột: với một học giả tiêu biểu là Karl Marx, với</i>

quan điểm các xã hội phải chuyển đổi để tồn tại và ông không nhấn mạnh rằng kinh tế phục vụ như là sự thành lập cho trật tự xã hội. Được xếp vào các nhà lý thuyết theo chủ nghĩa xung đột đối kháng, Marx đã triển khai một lý thuyết tiến hóa về sự biến đổi xã hội. Dựa vào sự thay đổi liên tục trong kỹ thuật mà các xã hội tiến từ đơn giản đến phức tạp. Ở mỗi một trạng thái, một xã hội tiềm ẩn những điều kiện tự hủy diệt, và những điều kiện này cuối cùng sẽ dẫn đến sự biến đổi và đưa xã hội vào trạng thái tiếp sau đó. Karl Marx có cái nhìn về q trình hiện đại hóa rất khác biệt với những nhà tư tưởng xã hội khác, bởi lẽ Marx nhấn mạnh tầm quan trọng của mâu thuẫn xã hội. Marx cho rằng xã hội hiện đại đồng nghĩa với xã hội tư bản, một hệ thống kinh tế được sản sinh do đấu tranh giai cấp vào cuối thời kỳ trung cổ. Giai cấp tư sản nắm giữ hệ thống sản xuất mới do cuộc cách mạng công nghiệp đem lại và đã thành công trong việc thay thế giai cấp quý tộc. Karl Marx cũng không phủ nhận rằng sự hình thành tính hiện đại có liên quan đến sự suy tàn của cộng đồng có quy mơ nhỏ, đến sự phân công lao động gia tăng và sự xuất hiện của thế giới duy lý. Marx cho rằng, cả ba yếu tố này đều cần thiết cho việc phát triển chủ nghĩa tư bản. Chính chủ nghĩa tư bản đã kéo theo những người nông dân từ vùng nông thôn về các đô thị với hệ thống thị trường khơng ngừng phát triển. Sự chun mơn hóa là cơ sở cho sự vận hành các xí nghiệp; tính duy lý thể hiện rõ trong xã hội tư bản. Ông tin rằng mẫu thuẫn xã hội trong xã hội tư bản sẽ đem lại một cuộc cách mạng xã hội, và rồi theo quy luật tiến hóa, xã hội này sẽ được thay thế bằng một xã hội khác công bằng hơn, nhân đạo hơn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<i><b>(4) Quan điểm hiện đại về biến đổi xã hội: Các nhà nhân học và xã hội</b></i>

học ngày nay cho rằng sự tương tác phức tạp của nhiều yếu tố - cả yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài của nhiều yếu tố - tạo nên sự biến đổi. Mặc dù trong những hoàn cảnh xã hội và lịch sử nhất định, các yếu tố cụ thể đơi lúc có thể ảnh hưởng nhiều hơn những yếu tố khác. Những yếu tố được các nhà lý thuyết hiện đại quan tâm khi xem xét về biến đổi xã hội, như: môi trường vật chất, kỹ thuật - công nghệ, dân số, giao lưu… Các lý thuyết hiện đại hóa, lý thuyết hệ thống thế giới, lý thuyết phụ thuộc là những tiếp cận mới trong quan điểm hiện đại về biến đổi xã hội, ở đó, các nhà khoa học đã đưa ra những cách lý giải đa diện hơn trong bối cảnh tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, các thành tựu khoa học công nghệ phát triển, thế giới ngày càng phụ thuộc nhau. Lần đầu tiên, các nhà khoa học đã thừa nhận các yếu tố phi vật chất, vơ hình cũng có thể làm biến đổi mạnh mẽ các xã hội và nền văn hóa, như tư tưởng, quản lý xã hội… Tính hiện đại là một thuật ngữ xuyên suốt trong quan điểm hiện đại về sự biến đổi, Ví dụ, trong lý thuyết hệ thống xã hội, Parsons coi tiểu hệ thống văn hóa là hệ thống có nhiều thơng tin nhất và nó kiểm sốt các tiểu hệ thống khác. Các nhà nhân học và xã hội học đều cho rằng, tư tưởng có thể giúp cho xã hội giữ nguyên trạng thái hoặc có thể kích thích sự biến đổi xã hội nếu những niềm tin và chuẩn mực xã hội khơng cịn phù hợp với nhu cầu của xã hội. Văn hóa được biến đổi là do các yếu tố chính trị, kinh tế và xã hội khác, cũng như nó phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên và sinh thái khác.

<i>Biến đổi văn hoá đã được đề cập đến trong các khoa học xã hội như một</i>

chủ đề trọng tâm của thế kỷ XX và XXI. Trên nền tảng lý thuyết mang tính khái qt hóa cao như ở trên, với các nghiên cứu về từng hiện tượng văn hóa cụ thể, đã có những triển khai để xây dựng các khung lý thuyết để làm cơ sở cho các nghiên cứu thực địa.

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay đã là một bối cảnh mang tính đặc thù để từng nghiên cứu xây dựng cho mình một khung lý thuyết làm nền tảng lý luận. Trong các tiếp cận về biến đổi văn hóa tại các cộng đồng nơng thơn trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nổi lên một tiếp cận coi tiến trình biến đổi văn hóa phụ thuộc vào các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội. Tiến trình này lại mang tính đặc thù của từng khu vực, cộng đồng dân cư. Sự biến đổi kinh tế xã hội và những thay đổi về hành chính, đất đai, chính sách nơng nghiệp… là những tiền đề trực tiếp tác động đến biến đổi văn hóa, với các tác giả như Tơ Duy Hợp, Nguyễn Văn Chính, Lương Hồng Quang, Nguyễn Thị Phương Châm và nhiều tác giả khác.

<i>Cuốn sách Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay của Nguyễn Thị</i>

Phương Châm là một trong số những cơng trình nghiên cứu về chủ đề này. Tác giả đã đưa ra một mơ hình phân tích. Sự biến đổi đầu tiên và quan trọng nhất làm nên diện mạo mới ở nông thôn hiện nay là do biến đổi về nghề nghiệp. Từ sự chuyển đổi nghề nghiệp đến những tác động của q trình cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa đã làm cho đời sống xã hội của dân cư ba làng có những thay đổi nhanh chóng. Từ nền tảng này, tác giả đi vào trả lời cho câu hỏi chính của vấn đề quan tâm, đó là văn hóa làng xã đang biến đổi như thế nào trong q trình đơ thị hóa và cơng nghiệp hóa hiện nay? Để trả lời cho câu hỏi này tác giả đã tập trung phân tích trong bốn lĩnh vực chủ yếu: (1) Không gian và cảnh quan làng; (2) Di tích, tín ngưỡng và lễ hội; (3) Phong tục tập quán; (4) Sự tiếp cận thông tin và các loại hình giải trí.

Hệ quả của sự biến đổi này là: (1) Không gian của làng nay đã rất khác khơng gian của làng xưa: mở hơn, thống đạt hơn, nhiều sự giao lưu hơn, tính chất cơng nghiệp, đơ thị đã thể hiện rõ và ăn sâu vào trong cả nếp nghĩ và lối sống của dân làng; (2) Di tích, lễ hội, tín ngưỡng đều được đưa trở lại với vai trò đặc biệt của chúng trong đời sống tâm linh bằng nhiều hình thức khác

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

nhau như trùng tu lại di tích, dựng lại các lễ hội, thực hành và phát triển tín ngưỡng; (3) Các phong tục tập quán có sự đan xen và giao lưu rõ rệt giữa làng và phố, hiện đại và truyền thống; (4) Tiếp cận thông tin và đa dạng hóa các loại hình giải trí, đặc biệt là sự cố kết người dân theo mạng lưới quan hệ và lợi ích trong làng, là những biểu hiện nổi bật của sự biến đổi và hình thành những yếu tố văn hóa mới ở ba làng quê này.

Hệ quả của quá trình biến đổi trên là: (1) Phục hồi văn hóa truyền thống trong bối cảnh làng quê hiện đại; (2) Nhu cầu hướng về văn hóa tâm linh của dân làng thời hiện đại; (3) Xuất hiện những “tệ nạn” mới. Quá trình phục hồi văn hóa truyền thống ở các làng quê hiện nay đi cùng với quá trình tái cấu trúc, lựa chọn và biến đổi các yếu tố văn hóa truyền thống trong bối cảnh làng quê hiện đại. Quá trình phục hồi văn hóa và tái cấu trúc văn hóa truyền thống trong xã hội hiện đại ở các làng quê cũng đang đặt ra hàng loạt các vấn đề bất cập như: môi trường, không gian sống, hoạt động sản xuất, đất đai, mối quan hệ giữa nhà nước và cộng đồng dân cư. Đây là một trong những nghiên cứu điển hình về biến đổi của các cộng đồng dân cư nơng thơn trong bối cảnh cơng nghiệp hóa ở nước ta hiện nay, gợi ý nhiều cho tác giả luận án những ý tưởng về lý thuyết nghiên cứu.

Đối với các cộng đồng dân cư có KCN, về mặt lý luận, cần phải giải quyết các câu hỏi lớn sau: (1) xác định được các yếu tố tác động, trong đó lớn nhất là biến đổi về nghề nghiệp và sự biến động cơ cấu dân cư bởi sự di dân của một bộ phận dân nhập cư đã ảnh hưởng như thế nào đến đời sống văn hóa? (2) Trong bối cảnh đó, các hình thái văn hóa truyền thống và văn hóa mới đã tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau ra sao; (3) Trước các biến đổi này, cần xác lập những mơ hình quản lý văn hóa thích hợp nào để đáp ứng với tiến trình biến đổi này.

<b>1.2. Vài nét về tỉnh Đồng Nai </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Đồng Nai là tỉnh thuộc miền Đơng Nam Bộ, có diện tích 5.903,4 km<small>2</small>, chiếm 1,76% diện tích tự nhiên cả nước và chiếm 25,5% diện tích tự nhiên của vùng Đơng Nam Bộ. Dân số toàn tỉnh theo số liệu thống kê năm 2010 là 2.569.400 người, mật độ dân số: 435,000 người/km<small>2</small> [109]. Tỉnh có 11 đơn vị

<i>hành chính trực thuộc gồm: Thành phố Biên Hịa là trung tâm chính trị -kinh tế - văn hóa của tỉnh; thị xã Long Khánh và 9 huyện: Long Thành; Nhơn</i>

<i>Trạch; Trảng Bom; Thống Nhất; Cẩm Mỹ; Vĩnh Cửu; Xuân Lộc ; Định Qn;</i>

<i>Tân Phú.</i>

- Phía đơng giáp tỉnh Bình Thuận. - Phía đơng bắc giáp tỉnh Lâm Đồng.

- Phía tây bắc giáp tỉnh Bình Dương và Bình Phước - Phía nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

- Phía tây giáp Tp. Hồ Chí Minh

Tính đến năm 2011, dân số tỉnh Đồng Nai là 2.665.100 người, mật độ dân số là 451 người/km², trong đó dân số sống tại thành thị là 897.600 người (chiếm 33,68%), dân số sống tại nông thôn là 1.767.500 người (chiếm 66,32%). Dân số đơ thị tăng nhanh với tốc độ bình quân 2,78% trong 5 năm gần đây. Mức tăng dân cư đô thị không tăng đột biến nhưng lại tăng đột biến về mật độ dân cư sống tại khu vực đô thị khi các KCN tập trung tăng mạnh.

Nằm trong khu vực có nhiều ưu thế, tỉnh lại có nhiều nguồn lực để phát triển, với các điều kiện ưu đãi của tự nhiên như: tài nguyên khoáng sản phong phú, khống sản có vàng, thiếc, kẽm, có nhiều mỏ đá, cao lanh, bùn, cát…kết cấu nền đất có độ cứng, chịu nén tốt, thuận lợi cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở của các KCN và các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; có tiềm năng thuận lợi cho việc phát triển du lịch, với hệ thống khu di tích lịch sử khá nổi tiếng, cảnh quan thiên nhiên môi trường hấp dẫn,… có đất đai màu mỡ với nhiều loại đất khác nhau, phần lớn là đất đỏ bazan, nơi đây sớm hình

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, vùng cây ăn trái nổi tiếng cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, hàng hóa cho xuất khẩu. Đồng Nai cũng là tỉnh có dân số đơng, nguồn lao động dồi dào với trình độ đa dạng từ mọi miền đất nước hội tụ về đây lập nghiệp, đó là nguồn nhân lực quý báu cho sự nghiệp đẩy nhanh sự nghiệp CNH – HĐH trong tỉnh.

Tất cả nguồn lực trên đã tạo ra cho Đồng Nai những thuận lợi và những lợi thế đó đã và đang được tận dụng và được phát huy cao độ trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng coi KCN có một vai trị là động lực trong việc đẩy mạnh tốc độ, chất lượng quá trình CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã ghi rõ:

Hình thành các KCN tập trung (bao gồm cả khu chế xuất và khu công nghệ cao), tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển công nghiệp nông thôn và ven đô thị. Ở các thành phố, thị xã, nâng cấp và cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ sở khơng có khả năng xử lý ơ nhiễm ra ngồi thành phố, hạn chế việc xây dựng cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư. Báo cáo về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005 tại Đại hội IX khẳng định: "Quy hoạch phân bố hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các KCN, khu chế xuất, xây dựng một số khu cơng nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở".

Sau 30 năm xây dựng và phát triển (1975 - 2005), “ngành công nghiệp Đồng Nai đã góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh từ một tỉnh nông nghiệp thành một tỉnh công nghiệp (tỷ trọng GDP công nghiệp dịch vụ tăng từ 13,4% năm 1976 lên 85% năm 2005)” [129; tr.231].

Đồng Nai là tỉnh đi đầu trong xây dựng, phát triển và dẫn đầu cả nước về số lượng KCN với 30 KCN tổng diện tích 9.573 ha và 43 cụm

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

công nghiệp, thu hút 1.130 dự án từ 35 quốc gia và vùng lãnh thổ như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản…, có tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD và hơn 31.600 tỷ đồng, thu hút hơn 375 ngàn lao động đang làm việc tại các KCN, trong đó hơn 60% là người ngồi tỉnh. Tỉnh đã quy hoạch 21 cụm cơng nghiệp với tổng diện tích 620 ha trên địa bàn các huyện, thành phố Biên Hòa và thị xã Long Khánh.

<b><small>Bảng 1: Quy hoạch phát triển một số KCN lớn của tỉnh Đồng Nai</small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tồn cầu, nhưng năm 2010, các KCN Đồng Nai đã thu hút được 38 dự án FDI mới với tổng vốn đầu tư 375 triệu USD và 60 dự án tăng vốn với 905 triệu USD. Tổng vốn thu hút FDI trong năm 2010 là 1,28 tỷ USD, trong khi các tỉnh, thành lân cận như TP.Hồ Chí Minh thu hút được 774 triệu USD, Bình Dương là 436,4 triệu USD. Đó là những thành cơng lớn của Đồng Nai. Giai đoạn 2001 - 2010 Đồng Nai đã thực hiện tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách mạnh mẽ và đạt được những kết quả quan trọng, khơng chỉ duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao mà các lĩnh vực giáo dục – đào tạo, khoa học – cơng nghệ, văn hóa – xã hội được quan tâm đạt được nhiều tiến bộ. Cơng tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, chăm lo các đối tượng chính sách được quan tâm thực hiện tốt. An ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội được giữ vững; hệ thống chính trị ngày càng được củng cố và tăng cường. Đời sống nhân dân khơng ngừng được nâng lên, GDP bình qn đầu người (theo giá so sánh năm 1994) từ 1,8 triệu đồng (năm 1990) tăng lên 29,6 triệu đồng (năm 2010) [130].

Tuy nhiên, Đồng Nai cũng đứng trước nhiều cơ hội và thách thức. Hiện nay có nhiều ngành cơng nghiệp phù hợp với định hướng CNH, HĐH chung của cả nước như có nhiều cơ sở sản xuất cơng nghiệp chế biến, chế tác, nhất là các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp như công nghiệp sản xuất thức ăn gia súc, công nghiệp thực phẩm. So với chỉ tiêu công nghiệp chế tạo chiếm 40% tổng giá trị cơng nghiệp thì Đồng Nai đã vượt qua. Ngồi ra, Đồng Nai đã bước đầu xây dựng được một số khu công nghệ sinh học, khu công nghệ cao, hứa hẹn là xuất phát điểm cho HĐH một số ngành khác trong những năm tới.

Tuy nhiên, Đồng Nai đang đối mặt với những bất lợi như: chính sách thu hút chưa chú trọng chọn lọc dự án đầu tư ở giai đoạn ban đầu nên nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp mang lại doanh thu lớn nhưng ở trạng thái công nghệ

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

chưa sạch, chưa thân thiện với mơi trường, thậm chí cịn ở trình độ gia cơng, lắp ráp nên phụ thuộc vào nguyên, vật liệu nhập khẩu cũng như để lại tổng giá trị gia tăng thấp cho tỉnh. Khảo sát từ năm 2004 - 2009 tại 805 doanh nghiệp cho thấy, chỉ có 141 doanh nghiệp có hệ số năng lực công nghệ đạt mức tiên tiến (đạt 17,57%). Trong khi đó, doanh nghiệp có trình độ cơng nghệ nằm ở mức trung bình là 571, chiếm đến 71%. Đó là các cơ sở giày da, dệt may, một số cơ sở chế biến nông sản, sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm. Hơn nữa, các KCN cũng chưa được sắp xếp theo hướng chun mơn hóa ngay từ đầu nên hiệu quả sử dụng đất còn thấp, chưa thuận tiện cho xử lý chất thải, bảo vệ môi trường... [130]

Các KCN theo mơ hình các KCN tập trung, khu chế xuất, khu kinh tế mở mới đang hình thành với các quy mô, chất lượng phát triển rất khác nhau. Mơ hình xây dựng các KCN chủ yếu vẫn là các kết cấu hạ tầng kỹ thuật dành cho việc sản xuất là chủ yếu, các cơ sở hạ tầng xã hội vẫn chưa được chú trọng, thường sử dụng các hạ tầng xã hội của các khu dân cư bên cạnh đó (xã, phường). Đó là các KCN chưa hoàn chỉnh về mặt kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội.

Trong bối cảnh đó, cộng với lịch sử phát triển đơ thị khơng dài và có tính chất khơng điển hình nên người dân đô thị không thể chỉ dựa vào đơ thị để duy trì cuộc sống mà phải dựa thêm vào nông thôn với nền sản xuất nông nghiệp truyền thống. Sự liên hệ chặt chẽ với nông thôn trở thành một đặc điểm nổi bật của các đô thị Việt Nam, thể hiện ở các "tàn dư" của xã hội nông thôn trong đời sống đô thị. Làng trong phố phường với các thiết chế văn hoá truyền thống, nếp sống làng xã... vẫn còn là một bộ phận hiện hữu của đô thị nước ta hiện nay. Thực tiễn này địi hỏi các tiến trình quản lý đô thị sẽ rất khác so với các đô thị ở Âu - Mỹ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Trong bối cảnh chung đó, các làng xã ở tỉnh Đồng Nai khi bị các KCN

<i>tập trung “thơn tính” cũng nằm trong trong xu hướng chúng là: chất lượng đơ</i>

<i>thị hóa thấp với một loạt các vấn đề quá tải về cơ sở hạ tầng, nước sạch, vệsinh môi trường; luồng di dân ào ạt từ các nơi khác tập trung về, với tất cảnhững thuận lợi và khó khăn của nó, đặt cho các cộng đồng dân cư tại đây có</i>

những vấn đề bất cập trong tiến trình phát triển.

Quy mơ bình quân vốn của dự án có xu hướng ngày càng thấp (bình quân vốn đầu tư một dự án năm 1995 là 27,22 triệu USD, 9 tháng đầu năm 2004 là 6,27 triệu USD), ít dự án cơng nghệ kỹ thuật cao, ít nhà đầu tư từ Nhật Bản, Mỹ, EU. Các huyện miền Bắc tỉnh vẫn rất ít dự án đầu tư. Vốn đầu tư bình quân trên 1 ha đất KCN Đồng Nai là 3,6 triệu USD, nhưng riêng trong giai đoạn 2001- 2003 chỉ đạt bình quân 0,91 triệu USD. Các doanh nghiệp trong nước còn thấp, chỉ chiếm tỷ trong 6% vốn đầu tư trong KCN. Các dự án chủ yếu là công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến thực phẩm, trong khi các ngành cơng nghiệp nặng lại q ít.

Tình trạng phân bố các KCN trong tỉnh chưa đều đã ảnh hưởng đến phân bố lao động trên địa bàn. Đa số dự án thu hút nhiều lao động được tập trung chủ yếu trong các KCN trên địa bàn thành phố Biên Hòa. Trong tổng số 190.000 người làm việc trong các KCN, số lao động làm việc trong các KCN ở thành phố Biên Hòa là: 101.000 người (chiếm 54%); số lao động nhập cư ước khoảng: 113.000 người (chiếm đến 60% trên tổng số lao động). Lao động nhập cư là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng quá tải về cơ sở hạ tầng như: nhà ở, bệnh viện, trường học, nạn kẹt xe vào mỗi giờ ra, vào ca, các tệ nạn xã hội, vi phạm trật tự an ninh trên địa bàn…

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Số lượng lao động có tay nghề trong các KCN còn thấp, chưa tạo ra được cán bộ quản lý chủ chốt, chưa tập trung vào việc đào tạo ra đội ngũ cơng nhân có tay nghề.

Các cơng trình văn hóa ở KCN hiện nay chưa được thống nhất về khái niệm, chưa có những nội dung cụ thể về hình thức hoạt động cho thiết chế văn hóa KCN.

Tuy các thủ tục hành chính đã được liên tục cải tiến nhưng vẫn còn nhiều biểu hiện trì trệ trong việc tổ chức thực hiện. Cơng tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước, địa phương trong một số lĩnh vực chưa chặt chẽ. Hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, hội nhập kinh tế quốc tế còn yếu kém và thiếu kinh nghiệm [131].

Sự phát triển của ngành công nghiệp Đồng Nai trong những năm qua đã góp phần làm cho Đồng Nai vươn lên đứng hàng thứ 3 cả nước về phát triển công nghiệp và ngày càng đóng vai trị quan trọng trong việc phát triển kinh tế Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đồng Nai xét cho cùng là sự phát triển nhanh của ngành công nghiệp trên địa bàn theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; từ đó thúc đẩy các ngành kinh tế và các lĩnh vực khác phát triển như: kết cấu hạ tầng, khoa học cơng nghệ, giáo dục đào tạo, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng [130].

Các điều kiện trên là cơ sở, nền tảng cho quá trình tiếp nhận và hưởng thụ văn hố của cơng nhân KCN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong tương lai. Trong thời gian tới, Đảng bộ và nhân dân Đồng Nai tiếp tục đổi mới phương thức và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao, bền vững; nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; đẩy mạnh CNH, HĐH đi đôi với bảo

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

vệ môi trường; thực hiện tốt và đồng bộ các chính sách an sinh xã hội; nâng cao hơn nữa chất lượng cuộc sống của nhân dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng an ninh; xây dựng Đồng Nai thành tỉnh cơ bản CNH – HĐH vào năm 2015 [28].

Trong hơn 20 năm qua, quá trình thực hiện CNH, HĐH ở Đồng Nai đã thu được nhiều thành tích vượt trội so với nhiều địa phương khác. Từ năm 1991 đến nay là, tốc độ tăng trưởng kinh tế ln được duy trì với tốc độ cao và ổn định trong nhiều năm: giai đoạn 1991 - 1995 tăng bình quân 13,94%/năm, giai đoạn 1996 - 2000 tăng bình quân 12%/năm, giai đoạn 2001 - 2005 tăng bình quân 12,86%/năm, giai đoạn 2006 - 2010 tăng bình quân 13,5%/năm.

<b>1.3. Thành tựu kinh tế văn hóa xã hội</b>

Tổng sản phẩm quốc nội GDP của tỉnh tăng bình quân 13,2%/năm. Trong đó ngành công nghiệp, xây dựng tăng 14,5%/năm, dịch vụ tăng 15%/năm, nông lâm nghiệp thủy sản tăng 4,5%/năm. Quy mô GDP theo giá thực tế năm 2010 đạt 75.137 tỷ đồng (tương đương 4,13 tỷ USD), gấp 2,5 lần năm 2005. GDP bình quân đầu người năm 2010 là 29,65 triệu đồng (1.629USD), tăng gấp 2,1 lần năm 2005.

- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng, tỷ trọng các ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 57% năm 2005 lên 57,2% năm 2010; dịch vụ từ 28% lên 34% và giảm ngành nông - lâm - thủy sản từ 14,9% xuống còn 8,7%. Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch mạnh theo hướng giảm tỷ trọng lao động khu vực nông nghiệp từ 45,5% năm 2005 xuống cịn 30% năm 2010, lao động phi nơng nghiệp tăng từ 54,5% năm 2005 lên 70% năm 2010.

- Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân là 17,2%/năm, cao hơn mức tăng của giai đoạn 2001 - 2005.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

- Tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển tồn xã hội bình quân 19,1%/năm. Trong 5 năm 2006 - 2010 huy động tổng vốn đầu tư phát triển xã hội đạt 121.500 tỷ đồng. Tốc độ thu ngân sách bình quân 12,5%/năm, tổng thu ngân sách bình quân chiếm tỷ lệ khoảng 23% GDP hàng năm.

- Trong 5 năm 2006 - 2010, đã phát triển thêm 11 khu công nghiệp, nâng tổng số khu công nghiệp được thành lập trên địa bàn tỉnh lên 30 khu với diện tích 9.573 ha. Về phát triển các cụm cơng nghiệp, đến cuối năm 2010 tồn tỉnh có 43 cụm cơng nghiệp được quy hoạch với tổng diện tích là 2.143 ha trong đó có 2 cụm cơng nghiệp đã đầu tư hồn thiện hạ tầng, 6 cụm cơng nghiệp đang đầu tư hạ tầng số cịn lại đang trong q trình bồi thường giải phóng mặt bằng và lập thủ tục đầu tư.

- Tỷ lệ thất nghiệp thành thị năm 2010 giảm xuống còn 2,6%. Cơ cấu lao động năm 2010 là: khu vực công nghiệp - xây dựng 39,1%, khu vực dịch vụ 30,9%, khu vực nông nghiệp 30%.

- Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đến cuối năm 2010 đạt 53%, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 40%. Ngoài ra, tỉ lệ người tốt nghiệp đại học, công nhân tay nghề bậc cao còn thấp so với bình quân chung cả nước. Công nghiệp phát triển nhanh nhưng nhân lực chất lượng cao không đáp ứng kịp. Tính đến cuối năm 2008 mới có 19.751 người tốt nghiệp đại học, đang công tác trong các thành phần kinh tế hoặc đã nghỉ hưu. Trong số này số tốt nghiệp từ hệ đào tạo khơng chính qui (chuyên tu, tại chức, chuẩn hóa, từ xa) chiếm đến 44,2%.

- Tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 100%. Kết quả xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia đến năm 2010 là mầm non 12%, tiểu học 12%, THCS 15%, THPT 20%. Đến năm 2010, trên địa bàn tỉnh có 2 trường đại học, 9

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

trường cao đẳng, 6 trường trung cấp chuyên nghiệp, 80 cơ sở dạy nghề với năng lực đào tạo trên 58.000 học viên.

- Tỷ lệ hộ nghèo tính theo chuẩn năm 2006 đến cuối năm 2009 còn dưới 1%. Nếu tính theo chuẩn 2009 của tỉnh đến cuối năm 2010 còn 4,27%.

- Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi cuối năm 2010 giảm cịn 14,5%. Năm 2010, dự kiến tồn tỉnh có 257 cơ sở y tế. 100% xã, phường có trạm y tế, 100% trạm y tế có nữ hộ sinh, 100% ấp, khu phố có nhân viên y tế được đào tạo và hưởng chế độ trợ cấp của nhà nước. Tồn tỉnh có 19 bệnh viện đa khoa, chun khoa và 13 phòng khám đa khoa khu vực với 5.675 giường bệnh, đạt 19 giường bệnh/vạn dân. Toàn tỉnh có 5.703 cán bộ y tế, đạt 22,5 cán bộ y tế/vạn dân. Trong đó số bác sỹ là 1.267 người, đạt 5 bác sỹ/vạn dân.

- Tỷ lệ hộ dùng điện năm 2010 đạt 99%.

- Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch năm 2010 khu vực thành thị đạt 98%, khu vực nông thôn 90%.

- Thu gom xử lý chất thải y tế đạt 100%; thu gom chất thải nguy hại đạt 60%; thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt đạt 80%.

- Tỷ lệ độ che phủ cây xanh đến cuối năm 2010 đạt 54,3%, trong đó tỷ lệ độ che phủ của rừng đạt 29,76%.

Các thành tựu này là nền tảng xã hội cho sự phát triển đời sống văn hóa tinh thần cho các cộng đồng dân cư trên địa bàn tỉnh nói chung, các

<i>cộng đồng dân cư có KCN nói riêng. Theo Báo cáo về Đời sống văn hố đơ</i>

<i>thị & Khu cơng nghiệp Việt Nam năm 2009 của Viện Văn hóa Nghệ thuật</i>

Việt Nam [137], sự tăng trưởng kinh tế xã hội mới là bước đầu, chưa có một chất lượng đơ thị cao. Chính đặc điểm này đã đặt ra vấn đề là cần phải nâng cao hơn nữa “chất lượng đô thị” trong cuộc sống của người dân trên nhiều

</div>

×