Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Tìm hiểu về phương pháp luận Gaia và Roadmap trong phát triển phần mềm hướng Agent

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.87 KB, 47 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
KHOA SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TRONG TIN HỌC
Đề tài: Tìm hiểu về phương pháp luận Gaia và
Roadmap trong phát triển phần mềm hướng Agent
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH.HOÀNG VĂN KIẾM
Học viên thực hiện: ĐÀO BÁ DƯƠNG
MSHV: CH1202001
Lớp: CHCNTTQMK7
Hà Nội, tháng 4 năm 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
KHOA SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TRONG TIN HỌC
Đề tài: Tìm hiểu về phương pháp luận Gaia và
Roadmap trong phát triển phần mềm hướng Agent
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH.HOÀNG VĂN KIẾM
Học viên thực hiện: ĐÀO BÁ DƯƠNG
MSHV: CH1202001
Lớp: CHCNTTQMK7
Hà Nội, tháng 4 năm 2013
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN 1
MỤC LỤC 2


LỜI CẢM ƠN 3
I: PHƯƠNG PHÁP GAIA 4
1. Giới thiệu 4
2. Khái niệm 5
3. Phân tích 6
3.1. Mô hình vai trò 9
3.2.Mô hình tương tác 15
3.3.Quy trình Phân Tích 16
4.Thiết kế 17
4.1 Mô hình agent 18
4.2 Mô hình dịch vụ 19
4.3 Mô hình sự hiểu biết 20
4.4.Quá trình thiết kế 20
5. Một trường hợp nghiên cứu: Quản lý kinh doanh trên nền agent 21
6. Liên quan đến công việc 28
6.1 Thiếu sót của các kỹ thuật hướng đối tượng 31
6.2 So sánh với phương pháp tiếp cận KGR 32
7. Kết luận và làm việc thêm 34
II: PHƯƠNG PHÁP ROADMAP 36
1. Giới thiệu 36
2. Các mô hình trong pha phân tích và các thủ tục 38
2.1 Mô hình Use-case 38
2.2 Mô hình môi trường 39
2.3 Mô hình tri thức 39
2.4 Mô hình vai trò đã sửa đổi 39
2.5 Mô hình giao thức và mô hình tương tác 40
3. Thiết kế mô hình 40
3.1 Vai trò 40
3.2 Mô hình vai trò và mô hình Agent 40
3.3 Các mô hình thiết kế khác 41

4. Ví dụ 41
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới thầy Giáo sư – Tiến sỹ khoa học Hoàng Văn
Kiếm, thầy đã tận tâm giảng dạy truyền đạt những kiến thức nền tảng cơ bản cho
chúng em về môn học “Phương pháp nghiên cứu khoa học trong tin học”.
Em cũng xin chân thành cám ơn quý Thầy cô trường Đại học Công nghệ
thông tin Tp.Hồ Chí Minh tận tâm giảng dạy chúng em.
Tuy nhiên, do thời gian hạn hẹp, mặc dù đã nỗ lực hết sức mình, nhưng bài
viết của em không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự và chỉ bảo tận
tình của quý Thầy cô và các bạn.
Em xin trân trọng cảm ơn ./.
Hà Nội, tháng 4 năm 2013
Học viên thực hiện
Đào Bá Dương
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
I: PHƯƠNG PHÁP GAIA
1. Giới thiệu
Tiến bộ trong công nghệ phần mềm trong hai thập kỷ qua đã được minh
chứng thông qua phát triển của sự trừu tượng hóa cao cấp ngày càng mạnh mẽ để
mô hình hóa và phát triển các hệ thống phức tạp. Thủ tục trừu tượng, kiểu dữ liệu
trừu tượng, và gần đây nhất, các đối tượng và các thành phần là tất cả các ví dụ
của sự trừu tượng hóa. Nó cho chúng ta thấy rằng các agent đại diện cho sự tiến
bộ trong trừu tượng: chúng có thể được sử dụng bởi các nhà phát triển phần mềm
giúp hiểu rõ bản chất hơn, mô hình, và phát triển lớp quan trọng trong hệ thống
phân tán phức tạp.
Nếu các agent nhận ra tiềm năng của chúng như là một mô hình kỹ thuật
phần mềm, và cần thiết phát triển kỹ thuật công nghệ phần mềm được thiết kế
đặc biệt cho chúng. Kỹ thuật phát triển phần mềm hiện có (ví dụ, phân tích và
thiết kế hướng đối tượng không phù hợp cho nhiệm vụ này. Không phù hợp cơ

bản giữa các khái niệm được sử dụng bởi các nhà phát triển theo hướng đối
tượng (bởi kỹ thuật phần mềm chính thống khác mô hình) và xem các agent theo
định hướng. Đặc biệt, phương pháp tiếp cận còn những tồn tại là không đầy đủ
nắm bắt linh hoạt của một agent, tự giải quyết vấn đề hành vi, sự phong phú của
các tương tác của một agent, và sự phức tạp của một hệ thống agent là tổ chức
cấu trúc. Đối với những lý do này, bài viết này giới thiệu phương pháp Gaia,
trong đó nó được thiết kế đặc biệt để phân tích và thiết kế của nền tảng hệ thống
agent.
Trước khi tiếp tục, cho ý kiến giá trị về phạm vi công việc của chúng tôi,
và đặc biệt, các đặc tính của lĩnh vực mà chúng tôi tin rằng Gaia là thích hợp.
Theo dự kiến Gaia là thích hợp cho sự phát triển của các hệ thống.
Đây là những ứng dụng thực tế quy mô lớn, với các đặc điểm chính sau đây:
- Agent là hạt hệ thống tính toán thô, mỗi lần sử dụng đáng kể tính toán
nguồn lực (suy nghĩ của từng agent có các nguồn lực của một quá trình UNIX).
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
- Nó được giả định rằng mục tiêu là để có được một hệ thống nhằm tối đa
hóa một số chất lượng đo lường toàn cầu, nhưng có thể được phân tối ưu từ điểm
nhìn của các thành phần hệ thống. Gaia không dành cho hệ thống thừa nhận khả
năng của xung đột đúng.
- Agent không đồng nhất, trong đó các agent khác nhau có thể được thực
hiện bằng cách sử dụng ngôn ngữ lập trình khác nhau, kiến trúc và kỹ thuật.
Chúng làm cho không có giả định về nền tảng phân phối.
- Cơ cấu tổ chức của hệ thống là tĩnh, trong đó mối quan hệ giữa các agent
làm không thay đổi tại thời gian chạy.
- Các khả năng của agent và các dịch vụ mà chúng cung cấp là tĩnh, trong
đó chúng không thay đổi thời gian chạy.
- Tổng thể hệ thống có chứa một số lượng tương đối nhỏ các loại agent
khác nhau
(ít hơn 100).
Gaia giao dịch với cả hai cấp (societal) vĩ mô và cấp độ vi mô (agent) của

thiết kế.
Nó đại diện cho sự tiến bộ hơn phương pháp luận hướng agent trước đây
rằng nó là trung lập đối với miền và mục tiêu kiến trúc agent (xem phần 6 so
sánh chi tiết hơn).
2. Khái niệm
Gaia được thiết kế để cho phép một nhà phân tích có hệ thống từ đưa ra
yêu cầu thiết kế đầy đủ chi tiết mà nó có thể được thực hiện trực tiếp. Lưu ý rằng
chúng tôi xem giai đoạn nắm bắt yêu cầu độc lập của mô hình được sử dụng để
phân tích và thiết kế. Khi áp dụng Gaia, nhà phân tích di chuyển từ trừu tượng
ngày càng cụ thể khái niệm. Mỗi động thái kế tiếp giới thiệu thiên vị thực hiện
lớn hơn, và co lại không gian của hệ thống có thể có thể được thực hiện để đáp
ứng các yêu cầu ban đầu. Phân tích và thiết kế có thể được coi như là một quá
trình phát triển các mô hình ngày càng chi tiết của hệ thống được xây dựng. Các
mô hình chính được sử dụng trong Gaia được tóm tắt trong hình 1.
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
Hình 1. Mối quan hệ giữa mô hình Gaia
Gaia vay mượn một số thuật ngữ và ký hiệu từ phân tích và thiết kế hướng
đối tượng. Tuy nhiên, nó không phải là chỉ đơn giản là một nỗ lực bình thường
để áp dụng các phương pháp như vậy phát triển hướng agent. Thay vào đó, nó
cung cấp một tập hợp các agent cụ thể của khái niệm thông qua đó một kỹ sư
phần mềm có thể hiểu và mô hình hóa một hệ thống phức tạp. Đặc biệt, Gaia
khuyến khích phát triển dựa trên hệ thống agent của tòa nhà như là một quá trình
tổ chức thiết kế.
Các khái niệm Gaia chính có thể được chia thành hai loại: trừu tượng và
cụ thể; khái niệm trừu tượng và cụ thể được tóm tắt trong Bảng 1. Thực thể trừu
tượng là những người sử dụng trong quá trình phân tích hệ thống, nhưng không
nhất thiết phải trực tiếp thực hiện trong hệ thống. Ngược lại, các thực thể cụ thể
được sử dụng trong thiết kế quá trình, và thông thường sẽ có các đối tác trực tiếp
trong hệ thống thời gian chạy.
3. Phân tích

Mục tiêu của giai đoạn phân tích là để phát triển sự hiểu biết của hệ thống
và cấu trúc (không có tham chiếu đến bất kỳ chi tiết thực hiện). Trong trường
hợp của chúng tôi, sự hiểu biết bị bắt trong tổ chức của hệ thống. Chúng tôi xem
một tổ chức như một bộ sưu tập của vai trò, đứng trong mối quan hệ nhất định
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
với nhau, và có tham gia trong hệ thống, thể chế hoá các mô hình tương tác với
vai trò khác, xem hình 2
Các thực thể trừu tượng nhất trong hệ thống phân cấp khái niệm của
chúng tôi là hệ thống. Mặc dù thuật ngữ "hệ thống" được sử dụng trong ý nghĩa
tiêu chuẩn của nó, nó cũng có một ý nghĩa liên quan khi nói về một nền tảng hệ
thống agent, có nghĩa là "xã hội" hoặc "tổ chức". Đó là, khi chúng ta nghĩ về
1nền tảng hệ thống agent như là một xã hội, tổ chức nhân tạo.
Ý tưởng về một hệ thống như một xã hội rất hữu ích khi suy nghĩ về mức
độ tiếp theo trong khái niệm hệ thống phân cấp: vai trò. Nó có vẻ xa lạ với suy
nghĩ của một hệ thống máy tính được xác định bằng một tập hợp các vai trò,
nhưng ý tưởng là hoàn toàn tự nhiên khi thông qua một cái nhìn tổ chức của thế
giới. Hãy xem xét một tổ chức của con người như một công ty điển hình. Công ty
này có vai trò chẳng hạn như "giám đốc", "phó giám đốc", và như vậy. Lưu ý
rằng trong một hiện thực cụ thể của một công ty, những vai trò này sẽ được khởi
tạo với các cá nhân thực tế: có thể là một cá nhân người có vai trò của giám đốc,
một cá nhân về vai trò của phó giám đốc, và như vậy trong suốt của công ty suốt
đời, nhiều cá nhân có thể mất vai trò của giám đốc công ty. Ngoài ra, có nhất
thiết phải là một ánh xạ một- một giữa các vai trò và cá nhân. Nó không phải là
bất thường (đặc biệt là trong các tổ chức nhỏ hoặc xác định chính thức) cho một
cá nhân để mất nhiều vai trò. Ví dụ, một cá nhân duy nhất có thể mất vai trò của
nhà sản xuất "trà","mail fetcher ", và như vậy. Ngược lại, có thể có nhiều cá nhân
chỉ giữ một vai trò, ví dụ, "nhân viên bán hàng" .
Vai trò được xác định bởi bốn thuộc tính: trách nhiệm, quyền hạn, hoạt
động, và các giao thức. Trách nhiệm xác định chức năng, và như vậy, có lẽ là
thuộc tính quan trọng kết hợp với một vai trò. Ví dụ một trách nhiệm liên quan

đến vai trò của giám đốc công ty có thể được gọi cổ đông đáp ứng hàng năm.
Trách nhiệm được chia thành hai loại: tài sản sống và tài sản an toàn. Tài sản trực
quan nhà nước là "cái gì tốt đẹp xảy ra". Chúng mô tả những trạng thái của công
việc mà một agent phải mang lại, với điều kiện môi trường nhất định. Ngược lại,
thuộc tính là bất biến. Trực giác, một thuộc tính an toàn thì "không có gì xấu xảy
ra". Một ví dụ có thể là "đảm bảo nhiệt độ lò phản ứng hạt nhân luôn luôn trong
phạm vi 0-100".
Để thực hiện trách nhiệm, một vai trò có một tập hợp các quyền truy cập.
Quyền là "Quyền" kết hợp với một vai trò. Các điều khoản của một vai trò như
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
vậy, xác định các nguồn lực mà có vai trò đó để thực hiện trách nhiệm của mình.
Trong các loại hệ thống đó chúng tôi thường theo mô hình, cho phép có xu
hướng là tài nguyên thông tin. Ví dụ, một vai trò có thể đã liên kết với khả năng
đọc một mục cụ thể của thông tin, hoặc sửa đổi một phần của thông tin. Một vai
trò cũng có thể có khả năng tạo ra thông tin.
Các hoạt động của một vai trò là những tính toán liên quan đến vai trò có
thể được thực hiện bởi các agent mà không cần tương tác với các agent khác.
Hoạt động như vậy, hành động "riêng tư", ý thức.
Hình 2. Phân tích khái niệm

Cuối cùng, vai trò cũng được xác định với một số giao thức, xác định cách
mà nó có thể tương tác với các vai trò khác.
Như vậy, mô hình tổ chức trong Gaia bao gồm hai mô hình hơn nữa: mô
hình vai trò (mục 3.1) và mô hình tương tác (mục 3.2).
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
3.1. Mô hình vai trò
Mô hình vai trò xác định vai trò quan trọng trong hệ thống. Một vai trò có
thể được xem như là một trừu tượng mô tả chức năng dự kiến của một thực thể,
được đặc trưng bởi hai loại thuộc tính:
* Các điều khoản / quyền liên quan với vai trò.

Một vai trò có liên quan với nó nhất định cho phép, liên quan đến các loại
và số lượng tài nguyên có thể được khai thác khi thực hiện vai trò. Trong trường
hợp của chúng tôi,các khía cạnh này được nắm bắt trong một thuộc tính được gọi
là quyền của vai trò.
* Tính trách nhiệm
Một vai trò được tạo ra để làm một cái gì đó. Đó là, một vai trò có một
chức năng nhất định. Chức năng này được đại diện bởi một thuộc tính được gọi
là trách nhiệm của vai trò.
Các điều khoản liên quan tới một vai trò có hai khía cạnh:
* Chúng ta xác định các nguồn lực hợp pháp có thể được sử dụng để thực
hiện vai trò, họ nói những gì có thể được chi tiêu trong khi thực hiện vai trò;
* Chúng ta nêu rõ các giới hạn nguồn tài nguyên mà trong đó vai trò
người thực hiện phải hoạt động trực giác,họ nói những gì không có thể được chi
tiêu trong khi thực hiện vai trò.
Nói chung, quyền có thể liên quan đến bất kỳ loại tài nguyên. Trong một
tổ chức con người, ví dụ, một vai trò có thể được cấp một ngân sách tiền tệ, một
số lượng nhất định của người nỗ lực. Tuy nhiên, trong Gaia, chúng tôi nghĩ rằng
các nguồn tài nguyên là có liên quan chỉ thông tin hoặc kiến thức agent có được.
Đó là, để thực hiện một vai trò, một agent thường sẽ có thể được truy cập thông
tin nhất định. Một số vai trò có thể tạo ra thông tin, người khác có thể cần phải
truy cập vào một phần của thông tin nhưng không phải sửa đổi nó, trong khi
những người khác nhưng có thể cần phải sửa đổi các thông tin. Chúng tôi nhận ra
rằng một mô hình phong phú hơn các nguồn lực cần thiết cho việc tương lai, mặc
dù cho thời điểm này, chúng tôi hạn chế sự chú ý của chúng tôi đơn giản chỉ để
thông tin.
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
Gaia làm cho việc sử dụng một ký hiệu chính thức thể hiện quyền được
dựa trên ký hiệu hợp nhất cho sơ đồ hoạt động. Để giới thiệu các khái niệm của
chúng, chúng sẽ sử dụng người đóng gói cà phê các ví dụ về vai trò (mục đích
của vai trò này là để đảm bảo rằng cà phê nồi được lưu giữ đầy đủ cà phê cho

một nhóm công nhân). Sau đây là một minh họa đơn giản các điều khoản liên
quan với vai trò:
Đọc Tình trạng //Đầy đủ hoặc ko có sản phẩm nào
Thay đổi Thành phần của cà phê // Mức tành phần cà phê
Đặc điểm kỹ thuật này định nghĩa hai điều khoản cho người đóng gói cà
phê nó nói rằng các agent thực hiện dẹp bỏ vai trò có quyền truy cập giá trị tình
trạng của cà phê, và có sự cho phép cho cả hai đọc và sửa đổi cà phê cổ phiếu
giá trị. Ngoài ra còn có một loại thứ ba cho phép, tạo ra, mà chỉ ra rằng vai trò là
nhà sản xuất của một tài nguyên (không được hiển thị trong ví dụ). Lưu ý rằng
các điều khoản liên quan đến kiến thức mà agent có. Đó là, giá trị cổ phiếu cà
phê một đại diện trên một phần của các agent của một số giá trị trong thế giới
thực. Một số vai trò parameterised giá trị nhất định. Điều này được quy định cụ
thể trong một định nghĩa cho phép người đóng gói cà phê bằng từ khoá cung cấp,
như sau:
Đọc đã cung cấp máy pha cà phê // tên của máy pha cà
phê
Tình trạng cà phê // đầy hoặc rỗng
Thay đổi Thành phần cà phê // mức thành phần cà phê
Bảng 2. Các nhà khai thác cho sự hoạt động cũ
Nhà điều hành Giải thích
x.y x theo sau y
x|y x hoặc y xảy ra
x* x xảy ra 0 hoặc nhiều lần
x+ x xảy ra 1 hoặc nhiều lần
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
x∞ x xảy ra thông thường
[x] x là tùy chọn
x||y x và y xen kẽ
Trách nhiệm các chức năng của một vai trò được xác định bởi trách nhiệm
của mình. Đây lại sponsibilities có thể được chia thành hai loại: sự hoạt động và

an toàn trách nhiệm.Trách nhiệm sự hoạt động là những người, trực giác, nhà
nước rằng "cái gì tốt đẹp xảy ra".Trách nhiệm sự hoạt động được gọi như vậy vì
họ có xu hướng nói rằng một cái gì đó "sẽ được thực hiện ", và do đó các agent
thực hiện vai trò là vẫn còn sống. trách nhiệm sự hoạt động có xu hướng theo mô
hình nhất định. Ví dụ, các loại phản ứng đảm bảo thành tíchmục tiêu có hình thức
"yêu cầu luôn luôn được theo sau bởi một phản ứng". Sự lặp lại vô hạn thành tựu
mục tiêu có hình thức "x sẽ xảy ra vô cùng thường xuyên". Lưu ý rằng các
loạiyêu cầu đã được nghiên cứu rộng rãi trong các tài liệu kỹ thuật phần mềm,
nơi họđã được chứng minh là cần thiết để thu giữ tài sản của các hệ thống phản
ứng
Để minh họa cho các khái niệm khác nhau liên quan đến vai trò, chúng tôi
sẽ tiếp tục với ví dụ của chúng tôi chạy về vai trò người đóng gói cà phê. Ví dụ
về các trách nhiệm sự hoạt động vai trò người đóng gói cà phê có thể là:bất cứ
khi nào nồi cà phê có sản phẩm nào, điền vào nó;
bất cứ khi nào cà phê tươi được ủ, chắc chắn rằng các công nhân biết về nó.Gaia,
tài sản sự hoạt động được quy định cụ thể thông qua một biểu hiện sự hoạt động,
trong đó xác định "cuộc sống chu kỳ "của vai diễn này. biểu thức sự hoạt động là
tương tự như các biểu hiện vòng đời của FUSION [6], lần lượt biểu thức cơ bản
thường xuyên. Biểu thức của chúng tôi sự hoạt động có một nhà điều hành bổ
sung, lặp đi lặp lại vô hạn (xem Bảng 2 cho biết thêm chi tiết). Do đó, chúng
tương tự như biểu thức thông thường, được biết đến là thích hợp để đại diện cho
tính chất của tính toán vô hạn Biểu thức sự hoạt động xác định quỹ đạo thực hiện
các tiềm năng thông qua các nhóm ngành và tương tác (tức là, trên các giao thức)
liên quan với vai trò.
Hình thức chungcủa một biểu thức sự hoạt động là:
Tên vai trò = biểu hiện
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
- Biểu hiện tên vai trò là tên của vai trò mà thuộc tính sự hoạt động được xác
định,và thể hiện là các biểu sự hoạt động xác định các thuộc tính sự hoạt động
của tên vai trò.

- Các thành phần nguyên tử của một biểu thức sự hoạt động là một trong hai hoạt
động hoặc các giao thức hoạt động được phần nào như một phương pháp trong
định hướng đối tượng, hoặc một thủ tục trong giống như ngôn ngữ. Nó tương
ứng với một đơn vị của hành động mà các agent có thể thực hiện, mà
khôngkhông liên quan đến tương tác với bất kỳ agent khác. Nghị định thư, mặt
khác, là các hoạt độngkhông yêu cầu tương tác với các agent khác. Để cung cấp
cho người đọc một số đầu mối thị giác, chúng ta viết tên giao thức trong 1 phông
chữ sans serif (xxx), và sử dụng một phông chữ tương tự, gạch chân,hoạt động
tên (như trong yyy).
Để minh họa biểu thức sự hoạt động, hãy xem xét lại trách nhiệm nói trên
vai trò người đóng gói cà phê:
Người đóng gói cà phê =(Đầy.Thông tin cho công nhân.Thành phần cà phê.Đợi
cà phê rỗng)^Ɯ
Biểu thức này nói người đóng gói cà phê đó bao gồm thực hiện các giao
thức Fill, sau bởi InformWorkers giao thức, tiếp theo là các hoạt động kiểm tra
thành phần và giao thức chờ đợi rỗng.
Thực hiện tuần tự của các giao thức và các hoạt động này sau đó được lặp
đi lặp lại vô hạn thường xuyên.
Đối với thời điểm này, chúng ta sẽ đối xử với các giao thức đơn giản như
các nhãn cho các tương tác và có trách nhiệm không lo lắng về việc làm thế nào
họ đang thực sự được định nghĩa (vấn đề này sẽ được thảo luận trong phần 3.2).
Biểu thức sự hoạt động phức tạp có thể được thực hiện dễ dàng hơn để
đọc bằng cách cơ cấu. Một đơn giản
Người đóng gói cà phê = (Tất cả)^ω
Tất cả= Đầy.Thông tin cho công nhân.Thành phần cà phê.Đợi cà phê rỗng
Ví dụ minh họa làm thế nào điều này được thực hiện:
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
Trong nhiều trường hợp, nó chỉ đơn giản là không đủ để xác định trách
nhiệm sự hoạt động một vai trò.
Điều này là do một agent, thực hiện vai trò, sẽ được yêu cầu để duy trì

một số bất biến trong khi thực hiện.
Ví dụ, chúng ta có thể yêu cầu rằng một agent cụ thể tham gia một ứng
dụng thương mại điện tử không bao giờ dành nhiều tiền hơn hơn đã được phân
chia.
Những bất biến được gọi là điều kiện an toàn, bởi vì họ thường liên quan
đến sự vắng mặt của một số điều kiện không mong muốn phát sinh.Yêu cầu an
toàn trong Gaia được quy định bằng các phương tiện của một danh sách các vị.
Những thường được thể hiện trên các biến được liệt kê trong thuộc tính cho phép
một vai trò.
Trở về vai trò người đóng gói cà phê của chúng tôi, một agent thực hiện
vai trò này nói chung sẽ được tái quired để đảm bảo rằng các cổ phiếu cà phê là
không bao giờ trống rỗng. Chúng tôi có thể làm điều này bằng phương tiện của
sau an toàn biểu hiện:
* thành phần cà phê>0
Theo đặt hàng, chúng tôi chỉ đơn giản là danh sách các biểu thức an toàn
như là một danh sách gạch đầu dòng, mỗi mục trong danh sách thể hiện một cách
an toàn cá nhân. Nó được ngầm giả định áp dụng trên tất cả các trạng thái của hệ
thống thực hiện. Nếu vai trò là dài vô tận
Thời gian (như trong ví dụ người đóng gói cà phê), sau đó là bất biến luôn
luôn phải là sự thật.
Bây giờ có thể xác định chính xác vai trò mô hình Gaia. Một mô hình vai
trò bao gồmcủa một tập hợp các lược đồ vai trò, một cho mỗi vai trò trong hệ
thống Một giản đồ vai trò kéo theo
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
Sơ đồ Vai trò Tên của vai trò
Mô tả Mô tả vai trò giao thức và các hoạt

động, trong đó vai trò đóng một vai
trò"Quyền" liên quan với vai trò
Giao thức và hoạt động

Quyền
Trách nhiệm
Sự hoạt động
An toàn
Hình 3. Mẫu cho các sơ đồ Vai trò
Sơ đồ vai trò: Người đóng gói cà phê
Mô tả:
Vai trò này liên quan đến việc đảm bảo rằng các nồi cà phê được giữ đầy,
và thông báo cho người lao động khi tươi cà phê đã được ủ.
Nghị định thư và hoạt động:
Vai trò thuộc tính khác nhau thảo luận ở trên vào một nơi duy nhất (hình
3).
Sơ đồ Vai trò (theo chuẩn XML)
Sơ đồ Vai trò:Người đóng gói cà phê
Mô tả:
Vai trò này liên quan đến việc đảm bảo rằng các nồi cà phê được giữ đầy, và thông báo
cho người lao động.
Đọc máy pha cà phê || tên của nhà sản xuất cà phê
Tình trạng || đầy đủ hoặc không còn
Thành phần cà phê || mức thành phần cà phê
Người đóng gói cà phê =(Đầy.thông tin cho công nhân.kiểm tra thành phần.chờ đợi
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
rỗng)^Ɯ
Thành phần cà phê >0
Hình 4. Sơ đồ này chỉ ra rằng Người đóng gói cà phê có sự cho phép để đọc các
tham số máy pha cà phê (chỉ có máy pha cà phê vai trò được thiết kế để giữ cho
đầy),
3.2.Mô hình tương tác
Có chắc chắn phụ thuộc và các mối quan hệ giữa các vai trò khác nhau
trong hệ thống đa agent. Thật vậy, tương tác như vậy là trung tâm trong đó các

chức năng hệ thống. Với thực tế này, tương tác rõ ràng cần phải được nắm bắt và
thể hiện trong giai đoạn phân tích. Trong Gaia, liên kết giữa vai trò đại diện trong
mô hình tương tác. Mô hình này bao gồm một tập hợp các giao thức định nghĩa,
một cho từng loại tương tác giữa các vai trò. Ở đây một giao thức có thể được
xem như là một mô hình thể chế của sự tương tác. Đó là một mô hình tương tác
đã được chính thức định nghĩa và trừu tượng đi từ bất kỳ trình tự cụ thể các bước
thực hiện. Xem tương tác theo cách này có nghĩa là sự chú ý được tập trung vào
tính chất thiết yếu và mục đích của sự tương tác, chứ không phải là sự sắp xếp
chính xác của việc trao đổi tin nhắn cụ thể.
Hình 5. Định nghĩa giao thức
Cách tiếp cận này có nghĩa rằng một định nghĩa giao thức thông thường sẽ
làm phát sinh một số nút giao thông báo trong hệ thống thời gian chạy. Ví dụ,
hãy xem xét một giao thức bán đấu giá tiếng Anh.Điều này liên quan đến nhiều
vai trò (người bán và nhà thầu) và nhiều mô hình tiềm năng trao đổi (thông báo
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
giá cụ thể và các hồ sơ dự thầu tương ứng). Tuy nhiên, ở giai đoạn phân tích,
chẳng hạn chi tiết instantiation chính xác là không cần thiết, và quá sớm.
Một định nghĩa giao thức bao gồm các thuộc tính sau:
• Mục đích: mô tả văn bản ngắn gọn về bản chất của sự tương tác (ví dụ,
"thông tin yêu cầu "," lịch trình hoạt động "và việc" phân công ");
• Khởi: chịu trách nhiệm các vai trò (là) để bắt đầu sự tương tác;
• Trả lời: vai trò tương tác;
• Đầu vào: thông tin được sử dụng bởi người khởi xướng vai trò trong khi
ban hành các giao thức;
• Kết quả đầu ra: thông tin được cung cấp bởi / trả lời giao thức trong quá
trình của tương tác;
• chế biến: văn bản mô tả ngắn gọn của bất kỳ xử lý giao thức khởi xướng
thực hiện trong quá trình tương tác.
Như một minh họa, xem xét các giao thức lọc, hình thành nên một phần
của vai trò máy lọc cà phê (Hình 5). Điều này các giao thức lọc được bắt đầu

bằng vai trò của cà phê lọc và lien quan đến vai trò của máy cà phê. Các giao
thức liên quan đến lọc cà phê - cà phê được đặt trong một máy có tên là máy pha
cà phê và kết quả trong máy pha cà phê được thông báo về giá trị của thành phần
cà phê. Chúng tôi sẽ tiếp tục xem các ví dụ của giao thức trong phần 5.
3.3.Quy trình Phân Tích
Giai đoạn phân tích của Gaia có thể được tóm tắt:
1. Xác định vai trò trong hệ thống.Vai trò trong một hệ thống thường
sẽ tương ứng với:
• Cá nhân, hoặc trong một tổ chức hoặc hoạt động độc lập;
• Các phòng ban trong một tổ chức;
• Tổ chức mình.
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
Đầu ra: Một vai trò mô hình nguyên mẫu - một danh sách các vai trò quan
trọng xảy ra trong hệ thống, với một mô tả chính thức chưa xây dựng.
2. Đối với từng vai trò, xác định và tài liệu các giao thức liên quan. Giao
thức là các mô hình của sự tương tác xảy ra trong hệ thống giữa các vai trò khác
nhau. Ví dụ, một giao thức có thể tương ứng cho một đại diện trong vai trò của
người mua nộp một giá thầu cho agent khác trong vai trò của Người bán.
Đầu ra: Một mô hình tương tác, nắm bắt các mô hình định kỳ liên vai trò
tương tác.
3. Sử dụng mô hình giao thức làm cơ sở, xây dựng mô hình vai trò.
Đầu ra: Một vai trò xây dựng mô hình đầy đủ, tài liệu nói về vai trò quan
trọng xảy ra trong hệ thống, cho phép và trách nhiệm của mình, cùng với các
giao thức và các hoạt động mà họ tham gia.
4.Giai đoạn từ 1-3
4.Thiết kế
Mục đích của một quá trình thiết kế "cổ điển" là chuyển đổi các mô hình
trừu tượng có nguồn gốc trong giai đoạn phân tích vào các mô hình ở một mức
độ đủ thấp trừu tượng mà họ có thể dễ dàng thực hiện. Đây không phải là trường
hợp với thiết kế theo định hướng agent, tuy nhiên.Thay vào đó, mục đích trong

Gaia là để chuyển đổi các mô hình phân tích thành một mức độ đủ thấp trừu
tượng mà các kỹ thuật thiết kế sự hiểu biết (bao gồm cả các kỹ thuật hướng đối
tượng) có thể được áp dụng để thực hiện các agent.Để đặt nó một cách khác,
Gaia là có liên quan với làm thế nào một xã hội của các agent hợp tác để thực
hiện các mục tiêu cấp hệ thống, và những gì được yêu cầu của từng cá nhân
agent để làm điều này.Trên thực tế, một agent nhận ra các dịch vụ của nó là vượt
quá phạm vi của Gaia, và sẽ phụ thuộc vào lĩnh vực ứng dụng cụ thể.
Quá trình thiết kế Gaia liên quan đến việc tạo ra ba mô hình (xem hình
1).Các mô hình agent xác định các loại agent sẽ làm cho hệ thống, và các trường
hợp agent sẽ được khởi tạo từ các loại. Mô hình dịch vụ xác định các dịch vụ
chính được yêu cầu để nhận ra vai trò của agent. Cuối cùng, mô hình người quen
về đường giao tiếp giữa các agent khác nhau.
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
Bảng 3: thí dụ
4.1 Mô hình agent
Một nhà thiết kế có thể chọn để đóng gói một số vai trò liên quan chặt chẽ
trong các loại hình agent tương tự cho mục đích thuận tiện. Hiệu quả cũng sẽ là
một mối quan tâm lớn ở giai đoạn này: một nhà thiết kế gần như chắc chắn sẽ
muốn để tối ưu hóa thiết kế, và một cách làm này là để tổng hợp một số vai trò
agent vào một loại duy nhất.Một ví dụ về nơi mà một quyết định như có thể cần
thiết là nơi mà "dấu chân" của một agent (tức là, thời gian chạy các yêu cầu về
sức mạnh xử lý hoặc không gian bộ nhớ) là rất lớn rằng đó là hiệu quả hơn để
cung cấp một số vai tròtrong một agent duy nhất để cung cấp một số agent thực
hiện một vai trò duy nhất.Có rõ ràng là một thương mại giữa sự gắn kết của một
loại agent (dễ dàng chức năng của nó có thể được hiểu) và cân nhắc hiệu quả đi
vào chơi khi thiết kế các loại agent.Các mô hình agent được định nghĩa bằng
cách sử dụng một cây agent loại đơn giản, trong đó các nút lá tương ứng với vai
trò, (như được định nghĩa trong mô hình vai trò), và các nút khác tương ứng với
các loại agent.Nếu t1 loại agent có trẻ em t2, t3, sau đó điều này có nghĩa là t1
bao gồm vai trò tạo nên t2, t3.

Chúng tôi tài liệu các trường hợp agent sẽ xuất hiện trong một hệ thống
bằng cách chú thích các loại agent trong mô hình agent. Một chú thích n có nghĩa
rằng sẽ có agent chính xác n của loại này trong hệ thống thời gian chạy. Một chú
thích m n có nghĩa là sẽ có không ít hơn m và không quá n trường hợp của loại
này trong một hệ thống thời gian chạy (m<n). Một * chú thích có nghĩa là sẽ có
không hoặc nhiều trường hợp tại thời gian chạy, và + "có nghĩa là sẽ có một hoặc
nhiều trường hợp tại thời gian chạy (xem bảng 3).
Lưu ý rằng thừa kế đóng một phần trong các mô hình agent Gaia. Điểm
của chúng tôi là agent là hệ thống tính toán hạt thô, và một hệ thống agent
thường sẽ chỉ chứa một số lượng tương đối nhỏ của vai trò và các loại, lập bản đồ
thường là một-một giữa chúng. Vì lý do này, chúng tôi tin rằng thừa kế không có
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
phần hữu ích để chơi trong các thiết kế của các loại agent. (Tất nhiên, khi nói đến
agent thực sự thực hiện, thừa kế có thể được sử dụng để tác động rất lớn, trong
thời trang hướng đối tượng bình thường.)
4.2 Mô hình dịch vụ
Như tên của nó cho thấy, mục đích của mô hình dịch vụ Gaia là để xác
định các dịch vụ liên quan với mỗi vai trò agent, và để xác định các đặc tính
chính của các dịch vụ này.Một dịch vụ, chúng tôi có nghĩa là một chức năng của
agent.Trong OO, một dịch vụ tương ứng với một phương pháp, tuy nhiên, chúng
tôi không có nghĩa rằng các dịch vụ có sẵn cho các agent khác trong cùng một
cách mà các phương pháp của một đối tượng có sẵn cho một đối tượng khác để
gọi.Thay vào đó, một dịch vụ chỉ đơn giản là một khối thống nhất duy nhất của
hoạt động trong đó một agent sẽ tham gia.Nó phải rõ ràng mọi hoạt động được
xác định tại giai đoạn phân tích sẽ tương ứng với một dịch vụ, mặc dù không
phải mọi dịch vụ sẽ tương ứng với một hoạt động.
Đối với mỗi dịch vụ có thể được thực hiện bởi một agent, nó là cần thiết
để tài liệu thuộc tính của nó.Cụ thể, chúng ta phải xác định các yếu tố đầu vào,
đầu ra, điều kiện trước, và gửi điều kiện của mỗi dịch vụ.Đầu vào và đầu ra với
các dịch vụ sẽ được bắt nguồn một cách rõ ràng từ mô hình giao thức. Trước và

sau khi điều kiện đại diện cho những hạn chế về dịch vụ. Chúng có nguồn gốc từ
tài sản an toàn của một vai trò.Lưu ý rằng theo định nghĩa, vai trò của từng sẽ
được liên kết với ít nhất một dịch vụ.
Các dịch vụ mà một agent sẽ thực hiện được bắt nguồn từ danh sách các
giao thức, hoạt động, trách nhiệm và tài sản có trong một vai trò. Ví dụ, trở lại ví
dụ cà phê, có bốn hoạt động và các giao thức liên quan với vai trò này: Lọc,
Thông báo cho người lao động, Kiểm tra chứng khoán, và đang chờ đợi rỗng.
Nói chung, sẽ có ít nhất một trong những dịch vụ liên quan với mỗi giao thức.
Trong trường hợp Kiểm tra chứng khoán, ví dụ, dịch vụ (có thể có cùng tên), sẽ
là đầu vào cấp độ chứng khoán và một số giá trị ngưỡng, và chỉ đơn giản là sẽ so
sánh hai. Trước và sau điều kiện cả hai nhà nước mà mức độ cổ phần cà phê lớn
hơn 0. Đây là một trong những thuộc tính an toàn của các vai trò lọc cà phê.
Gaia mô hình dịch vụ không quy định một thực hiện cho các dịch vụ tài
liệu.Các nhà phát triển là tự do để thực hiện các dịch vụ trong bất kỳ khuôn khổ
thực hiện được coi là thích hợp.Ví dụ, nó có thể được quyết định thực hiện các
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
dịch vụ trực tiếp như là phương pháp trong một ngôn ngữ hướng đối
tượng.Ngoài ra, một dịch vụ có thể được chia ra thành một số phương pháp.
4.3 Mô hình sự hiểu biết
Mô hình Gaia thiết kế cuối cùng có lẽ là đơn giản nhất: các mô hình sự
hiểu biết quen thuộc đơn giản là xác định các liên kết truyền thông tồn tại giữa
các agent. Chúng không xác định những thông điệp được gửi hoặc khi tin nhắn
được gửi đi – chúng đơn giản là chỉ ra con đường truyền thông tồn tại. Đặc biệt,
mục đích của mô hình sự hiểu biết là để xác định trước bất kỳ sự tắc nghẽn giao
tiếp nào, có thể gây ra vấn đề trong thời gian chạy. Thực tế để đảm bảo rằng hệ
thống không lỏng lẽo thì các mô hình sự hiểu biết có thể giúp tìm ra vấn đề. Trên
cơ sở của mô hình sự hiểu biết, nó có thể tìm thấy các yếu tố cần thiết để xem xét
ở các giai đoạn phân tích và thiết kế lại hệ thống để loại bỏ những vấn đề không
cần thiết.
Một mô hình sự hiểu biết đơn giản như là một đồ thị với các nút trong đồ

thị tương ứng với các nút trong đồ thị tương ứng mỗi loại đại diện và cùng trong
đồ thị tương ứng với con đường sự hiểu biết. Đại diện các mô hình sự hiểu biết là
đồ thị chỉ đạo, do đó theo 1 vòng cung a -> b sẽ gửi tin nhắn từ a đến cho b,
nhưng không nhất thiết phải là b gửi tin nhắn đến a. Một mô hình sự hiểu biết
đơn giản được bắt nguồn từ vai trò, các giao thức, và các mô hình agent.
4.4.Quá trình thiết kế
Các giai đoạn thiết kế Gaia có thể được tóm tắt:
1. Tạo ra một mô hình agent:
- Vai trò tổng hợp thành các loại agent, và tinh chỉnh để tạo thành một hệ
thống phân cấp các loại agent.
- Lấy tài liệu của từng loại agent bằng cách sử dụng các chú thích.
2. Phát triển mô hình dịch vụ, bởi các hoạt động kiểm tra, giao thức, sự an toàn
các thuộc tính linh động của các vai trò.
3. Phát triển mô hình sự hiểu biết từ mô hình tương tác và mô hình agent.
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
5. Một trường hợp nghiên cứu: Quản lý kinh doanh trên nền agent
Mục này minh họa ngắn gọn làm thế nào Gaia có thể được áp dụng, thông
qua một trường hợp nghiên cứu việc phân tích và thiết kế của một hệ thống trên
nền agent để quản lý một quá trình kinh doanh British Telecom (xem [20] để biết
thêm chi tiết). Lý do ngắn gọn, chúng ta có thể bỏ qua một số chi tiết nhằm mục
đích cung cấp một hướng chung cho việc phân tích và thiết kế.
Các ứng dụng cụ thể được cung cấp cho khách hàng với một lời trích dẫn
để thiết lập một mạng lưới cung cấp cho một loại dịch vụ viễn thông đặc biệt.
Hoạt động này liên quan đến những bộ phận sau đây: bộ phận dịch vụ khách
hàng (CSD), bộ phận thiết kế (DD), bộ phận pháp lý (LD) và các tổ chức khác
nhau cung cấp dịch vụ nguồn của việc rà soát khách hàng (VCs). Quá trình này
được khởi tạo bởi một khách hàng liên lạc với CSD thiết lập các yêu cầu. Song
song với việc nắm bắt các yêu cầu, CSD hiệu chỉnh cho khách hàng. Nếu khách
hàng không bỏ qua các thủ tục rà soát, quá trình trích dẫn nội dung này chấm dứt.
Giả sử khách hàng thỏa mãn nhu cầu, yêu cầu của họ được hiển thị các danh mục

đầu tư dịch vụ. Nếu họ có thể được đáp ứng bởi một tiêu chuẩn sau đó có thể
được cung cấp một bảng báo giá ngay lập tức. Tuy nhiên trong một số trường
hợp các dịch vụ riêng biệt , quá trình này là phức tạp hơn. DD bắt đầu thiết kế
một giải pháp để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và trong khi điều này xảy
ra LD kiểm tra tính hợp pháp của các dịch vụ được đề xuất,. Nếu dịch vụ mong
muốn là bất hợp pháp, quá trình trích dẫn nội dung chấm dứt. Giả sử dịch vụ yêu
cầu là hợp pháp , thiết kế cuối cùng sẽ được hoàn thành và dự toán. Sau đó DD
thông báo cho CSD trích dẫn nội dung bài viết này. CSD, lần lượt thông báo cho
khách hàng các quy trình kinh doanh sau đó chấm dứt.
Di chuyển từ này mô tả quá trình theo định hướng hoạt động của tổ ch hệ
thống xem là tương đối đơn giản. Trong nhiều trường hợp có một bản đồ bản đồ
12:59 giữa các phòng ban và vai trò. Hành vi của CSD thuộc vào hai vai trò khác
nhau: hành động như một giao diện cho khách hàng ( người xử lý khách hàng,
hình 6), và giám sát quá trình bên trong tổ chức ( quản lý, hình 7). Như vậy, VC,
LD và hành vi của DD được bao phủ bởi vai trò người thẩm định khách hàng
(hình 8), tư vấn pháp lý (hình 9) và thiết kế (hình 10). Cuối cùng là vai trò của
khách hàng (hình 11) đòi hỏi các trích dẫn nội dung bài viết này.
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
Lược đồ vai trò : Người xử lý khách hàng
Mô tả:
Nhận được yêu cầu trích dẫn nội dung bài viết này từ khách hàng và giám
sát quá trình để đảm bảo phù nội dung trích dẫn phù hợp được trả về.
Giao thức và hoạt động:
Chờ đợi cuộc gọi, thực hiện đánh giá, thông tin cho khách hàng
Quyền:
Đọc đã cung cấp chi tiết khách hàng // thông tin liên lạc khách hàng
Đã cung cấp Yêu cầu khách hàng // những điều khách hàng muốn
Đánh giá // hoàn tất nội dung hoặc không

Trách nhiệm:

Tính linh động:
Người xử lý khách hàng = ( Chờ đợi cuộc gọi.tạo đánh giá)
Tạo đánh giá = ( thực hiện đánh giá.thông tin cho khách
hàng)
Độ tin cậy:
• đúng
Hình 6: Lược đồ vai trò người xử lý khách hàng
Với định nghĩa vai trò tương ứng tại chỗ, giai đoạn tiếp theo là xác định
các liên kết mô hình tương tác cho những vai trò. Ở đây chúng ta tập trung vào
sự liên kết tương tác với các vai trò quản lý. Vai trò này tương tác với vai trò
khách hàng để có được khách hàng yêu cầu ( giao thức nhận yêu cầu khách
hàng, hình 12c) và với vai trò người thẩm định khách hàng để xác định xem
khách hàng thỏa mãn yêu cầu ( giao thức thẩm định khách hàng, hình 12a). Nếu
khách hàng chứng minh không đạt yêu cầu chỉ có hai giao thức đạt yêu cầu. Nếu
khách hàng đạt yêu cầu, thì sau đó yêu cầu của họ được dự trù kinh phí. Điều này
quan trọng vì chi phí liên quan đến việc ban hành.
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương
Sau khi hoàn tất phân tích của chúng ta chuyển sang giai đoạn thiết kế.
Các mô hình đầu tiên được tạo ra là mô hình agent ( hình 13). Điều này cho thấy
đối với hầu hết trường hợp, một sự tương ứng một-một giữa các vai trò và các
agent. Trường hợp ngoại lệ là dành cho vai trò người xử lý khách hàng và quản
lý, bởi vì mức độ cao của chúng phụ thuộc lẫn nhau được nhóm lại thành một
loại hình agent duy nhất. Mô hình thứ hai là mô hình dịch vụ. Ở đây, chúng ta chỉ
tập trung về vai trò quản lý và phòng dịch vụ Khách hàng agent. Dựa vào vai
trò quản lý, bảy dịch vụ khác biệt có thể được xác định (bảng 3). Từ giao thức
nhận yêu cầu khách hàng, chúng ta lấy được dịch vụ “có được yêu cầu của khách
hàng”. Dịch vụ này xử lý các tương tác từ quan điểm của người quản lý trích dẫn
nội dung bài viết này. Chi tiết khách hàng như là đầu vào và trả về yêu cầu
khách hàng như đầu ra (hình 12c), có hoặc không liên quan tới điều kiện trước
hoặc sau. Các dịch vụ liên kết với các giao thức thẩm định khách hàng là “ Thẩm

định khách hàng”. Đầu vào của nó xuất phát từ định nghĩa giao thức(hình 12a).
Đầu vào của nó là chi tiết khách hàng và kết quả đầu ra của nó là đánh giá tín
dụng.
Lược đồ vai trò : Quản lý dự án
Mô tả:
Chịu trách nhiệm ban hành các quá trình trích dẫn nội dung. Tạo ra một trích
dẫn nội dung hoặc không trả về nội dung (không) nếu khách hàng là không phù
hợp hoặc dịch vụ là bất hợp pháp.
Giao thức và hoạt động:
Thẩm định khách hàng, nhận yêu cầu của khách hàng, định giá dịch vụ theo
chuẩn, kiểm tra pháp lý dịch vụ, định giá dịch vụ theo đặt hàng
Quyền:
Đọc đã cung cấp Chi tiết khách hàng // thông tin liên lạc khách hàng
Đã cung cấp Yêu cầu khách hàng // những điều khách hàng muốn
Đánh giá tín dụng // đánh giá tín dụng của khách hàng
GVHD: GS.TSKH.Hoàng Văn Kiếm HVTH: Đào Bá Dương

×