Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀO SỰ NGIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.32 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

KHOA SAU ĐẠI HỌC
----------*&*----------

PHAN SONG THOA
THPT HƯƠNG TRÀ

VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀO SỰ NGIỆP XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC

Vinh - 2009

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

KHOA SAU ĐẠI HỌC
----------*&*----------

VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀO SỰ NGIỆP XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC

Giáo viên hướng dẫn: NGUYỄN LƯƠNG
BẰNG

Học viên thực hiện:


NGUYỄN MẠNH

TUẤN

Lớp:

CAO HỌC 15 - HÓA

HỮU CƠ

Vinh, năm 2007

2


KÝ HIỆU TRONG TIỂU LUẬN:

1.

Chủ nghĩa tư bản (CNTB)

2.

Chủ nghĩa xã hội (CNXH)

3.

Kinh tế - xã hội (KT-XH)

4.


Lực lượng sản xuất (LLSX)

5.

Quan hệ sản xuất (QHSX)

3


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu

3

1. Lý do chọn đề tài.

3

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.

3

3. Nhiệm vụ nghiên cứu.

4

4. Phương pháp nghiên cứu.


4

5. Cấu trúc tiểu luận.

4

Chương 1: Lý luận hình thái KT-XH và vai trò phương pháp
luận của lý luận đó.

5

1.1. Lý luận hình thái KT-XH.

5

1.2. Vai trị phương pháp luận của nó.

10

Chương 2: Sự vận dụng hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây
dựng CNXH ở Việt Nam.

12

2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH trước những
biến đổi của thời đại.

1
2


2.2. Sự vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây dựng
CNXH ở Việt Nam.

1
3

Kết luận.

18

Tài liệu tham khảo.

19

4


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã đề ra mục tiêu
"Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" (Dẫn theo [2;
309]). Văn kiện đã chỉ rõ mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng toàn dân trong
sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Để thực hiện mục tiêu trên thì đổi
mới về KT-XH là một việc làm cần thiết. Song hiện nay việc phát triển KTXH theo định hướng XHCN ở Việt Nam vẫn còn một số khó khăn, hạn chế
nhất định. Do đó việc vận dụng đúng đắn lý luận hình thái KT-XH vào sự
nghiệp xây dựng CNXH là vô cùng quan trọng.
Nước ta tiến lên CNXH từ điều kiện riêng biệt: nền kinh tế phổ biến
là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu. Do đó muốn thực hiện thành
cơng sự nghiệp xây dựng CNXH ngồi nguồn nội lực cịn cần phải vận dụng

sáng tạo, khoa học lý luận hình thái KT-XH vào điều kiện đất nước.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của nền kinh tế tri thức, của khoa học cơng
nghệ, của xu thế tồn cầu hóa... điều đó đặt ra yêu cầu đối với sự phát triển
kinh tế đất nước. Trong khi đó, hệ thống CNXH ở một số nước Đông Âu và
Liên Xô lâm vào khủng hoảng trầm trọng, CNTB đạt được những thành tựu
rực rỡ. Yêu cầu Đảng ta phải kiên định sáng suốt trong mục tiêu xây dựng
CNXH cho phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể ở nước ta.
Với ý định phần nào giải đáp cho những vấn đề trên, chúng tơi lựa
chọn đề tài: Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã được Đảng cụ thể hoá ở
rất nhiều văn kiện đại hội Đảng. Từ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI (12/1986) Đảng đã chỉ rõ mục tiêu xây dựng đất nước sau đổi
mới. Mục tiêu đó càng được bổ sung và hồn chỉnh hơn ở các Văn kiện ở
5


Đại hội đại biểu lần VII, lần thứ VIII, lần thứ IX. Các văn kiện này đã cụ
thể hóa từ đường lối cho đến cách thức, biện pháp, con đường để thực hiện
thành cơng sự nghiệp xây dựng CNXH. Ngồi ra các cuốn Giáo trình Triết
học Mác - Lênin (Nxb Chính trị Quốc gia, 2006), Giáo trình Triết học Mác
- Lênin (Nxb Chính trị Quốc gia, 2007), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh,
cũng đã trình bày nhiều vấn đề liên quan đến sự vận dụng lý luận hình thái
KT-XH vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Đó là những tư liệu vô
cùng quan trọng gợi mở cho chúng tôi rất nhiều trong việc triển khai đề tài
này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Ở đề tài Sự vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây
dựng CNXH ở Việt Nam, chúng tôi thực hiện một số nhiệm vụ nghiên cứu

sau đây:
3.1. Giới thuyết về lý luận hình thái KT-XH và vai trị phương pháp
luận của lý luận đó.
3.2. Chỉ rõ sự vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây
dựng CNXH ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ nghiên cứu, trong q trình triển khai
đề tài này, chúng tơi vận dụng những phương pháp sau:
4.1. Phương pháp so sánh - đối chiếu.
4.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp.
5. Cấu trúc tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết thúc, nội dung chính của tiểu luận gồm 2
chương.
Chương 1: Lý luận hình thái KT-XH và vai trị phương pháp luận của
lý luận đó.
Chương 2: Sự vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây
dựng CNXH ở Việt Nam.

6


Kết luận.
Tài liệu tham khảo.

Chương 1
LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ -XÃ HỘI
VÀ VAI TRÒ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA LÝ LUẬN ĐĨ

1.1. Lý luận hình thái KT-XH
1.1.1. Tiền đề xuất phát để xây dựng lý luận hình thái KT-XH

Xã hội trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào cũng là một hệ thống hết sức
phức tạp bao gồm nhiều lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, tư tưởng... Tất cả
các lĩnh vực đó đều tác động đến con người và thông qua hoạt động của con
người, mà hoạt động của con người bao giờ cũng có ý thức, ý chí chỉ đạo.
Chính vì vậy, việc giải thích về đời sống xã hội là một vấn đề hết sức phức
tạp. Trong suốt quá trình lịch sử lâu dài trước khi Triết học Mác ra đời, các
nhà triết học đều duy tâm trong lịch sử. Họ cho rằng lịch sử phát triển theo
hướng nào là do đầu óc của các vĩ nhân.
Mác đã phê phán những tư tưởng duy tâm đó, ơng đi từ một sự thật
đơn giản đó là: Con người muốn tồn tại cần phải có thức ăn, thức uống, nhà
ở. Những thứ này khơng có sẵn trong tự nhiên. Vì vậy, muốn có nó, con
người phải tiến hành hoạt động sản xuất vật chất. Trong quá trình sản xuất
vật chất con người ngày càng chế tạo ra nhiều công cụ sản xuất và phát triển
cả về tư duy, thể chất. Để tồn tại và phát triển, con người không chỉ sản xuất
ra của cải vật chất mà còn sản xuất ra của cải tinh thần, ra bản thân con
người và các quan hệ xã hội.
Tuy nhiên, ở những thời điểm lịch sử khác nhau, hoạt động sản xuất
vật chất lại được tiến hành theo những cách thức khác nhau. Cách thức khác
nhau đó, Mác gọi là phương thức sản xuất. Chính phương thức sản xuất là
nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Như vậy,
xuất phát từ sản xuất, C. Mác đã phân tích một cách khoa học mối quan hệ
7


lẫn nhau giữa các mặt trong đời sống xã hội và phát hiện ra các quy luật vận
động, phát triển của xã hội. Từ đó, C. Mác đi đến khái quát khoa học lý luận
về hình thái KT-XH.
1.1.2. Khái niệm hình thái KT-XH
Giữa các mặt trong đời sống xã hội thống nhất biện chứng với nhau
tạo thành các xã hội cụ thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.

Các xã hội cụ thể đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát thành phạm
trù hình thái KT-XH như sau: "Hình thái KT-XH là một phạm trù của chủ
nghĩa duy vật lịch sử: dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định,
với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với trình độ
nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến thức thượng tầng tương
ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy" [1; 389].
1.1.3. Phép biện chứng trong sự vận động, phát triển của các hình
thái KT-XH
1.1.3.1. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
Quá trình sản xuất của con người chịu sự tác động song cùng đó là
con người quan hệ với tự nhiên thông qua việc sử dụng công cụ lao động và
quan hệ con người với con người trong sản xuất để hợp thành phương thức
sản xuất. Phương thức sản xuất là "cách thức con người thực hiện quá trình
sản xuất vật chất ở từng giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người"
[1; 390].
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình
độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng: Sự vận động, phát triển của
phương thức sản xuất do sự tác động qua lại một cách biện chứng giữa
LLSX và QHSX.
"LLSX là toàn bộ các lực lượng được con người sử dụng trong quá
trình sản xuất ra của cải vật chất. Nó bao gồm người lao động với một thể
lực, tri thức, kỹ năng lao động nhất định và tư liệu sản xuất, trước hết là

8


cơng cụ lao động. Trong q trình sản xuất sức lao động của con người kết
hợp với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, tạo thành LLSX" [1;
391].

"Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất. QHSX gồm 3 mặt: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ
chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra" [1;
392].
LLSX và QHSX tồn tại không tách rời nhau, thống nhất biện chứng
với nhau Trong đó, sự vận động, phát triển của LLSX quuết định quan hệ
sản xuất, làm cho quan hệ sản xuất biến đổi phù hợp với nó. Khi một
phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của LLSX, nó có tác dụng thúc đẩy mở đường LLSX phát
triển. Nhưng do LLSX là yếu tố động, biến đổi nhanh, quan hệ sản xuất biến
đổi chậm, QHSX trở thành không phủ hợp với LLSX. Khi đó, QHSX trở
thành "xiềng xích" cản trở sự phát triển của LLSX. Để mở đường cho LLSX
phát triển phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập QHSX mới phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX. Khi QHSX mới ra đời, một phương thức sản
xuất mới tương ứng xuất hiện. Do đó lịch sử phát triển của xã hội loài người
là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất.
LLSX quyết định QHSX, nhưng QHSX có sự tác động trơ lại sự phát
triển của LLSX. Khi QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì nó
là động lực mở đường cho LLSX phát triển. Ngược lại, khi QHSX không
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển
của LLSX. Khi này theo quy luật chung, QHSX cũ được thay thế bằng
QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Tuy nhiên, việc giải
quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX không phải đơn giản. Trong xã hội
có giai cấp phải thơng qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
1.1.3.2. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

9


QHSX được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất

tạo thành quan hệ vật chất của xã hội. Trên cơ sở quan hệ sản xuất hình
thành nên quan hệ chính trị và tinh thần của xã hội. Hai mặt đó được khái
quát thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
"Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của một xã hội nhất định" [1; 397]. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ
thể bao gồm QHSX thống trị, QHSX tàn dư của xã hội cũ và QHSX mầm
mống của xã hội tương lai.
"Kiến thúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp
quyền, triết học, đạo đức, tơn giáo, nghệ thuật... cùng với những thiết chế xã
hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội,...
được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định" [1; 397].
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thống nhất biện chứng với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
biểu hiện ở chỗ: Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng
tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng do tính chất của
cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về
kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần
của xã hội. Các mâu thuẫn về kinh tế quyết định các mâu thuẫn về chính trị,
tư tưởng. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng (nhà nước, pháp
quyền, triết học...) đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng ,
do cơ sở hạ tầng quyết định.
Cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng sớm hay muộn cũng
thay đổi theo. C. Mác viết: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì tồn bộ kiến trúc
thượng tầng đồ sộ cùng bị đảo lộn ít nhiều, nhanh chóng". Sự thay đổi của
kiến trúc thượng tầng không chỉ diễn ra trong giai đoạn thay thế hình thái
KT-XH này bằng hình thái KT-XH khác, mà cịn diễn ra trong quá trình

10



biến đổi của một hình thái KT-XH . Trong các yếu tố của kiến trúc thượng
tầng, có yếu tố thay đổi nhanh cùng sự thay đổi của cơ sở hạ tầng (chính trị,
pháp quyền) nhưng cũng có yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật...
Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối và có tác động trở lại
đối với cơ sở hạ tầng. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều có tác
động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau, có vai trị khác
nhau, có cách thức tác động khác nhau. trong xã hội có giai cấp, nhà nước là
yếu tố tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng. Sự tác động của kiến trúc
thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo 2 chiều.

Nếu kiến trúc

thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là
động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại sẽ kìm
hãm phát triển kinh tế, kìm hãm tiến bộ xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng
kìm hãm sự phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách này hay cách
khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng
mới để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.
1.1.3.3. Sự phát triển của các hình thái KT-XH là một quá trình lịch
sử - tự nhiên
Từ sự phân tích quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội.
Mác đã đi đến kết luận: "Sự phát triển của những hình thái KT-XH là một
q trình lịch sử - tự nhiên". Nói sự phát triển của hình thái KT-XH là một
quá trình lịch sử - tự nhiên có nghĩa là nó diễn ra một cách khách quan theo
quy luật chứ không theo ý muốn chủ quan của con người. Tức là xã hội lồi
người cũng có q trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Động lực của sự vận động, phát triển của xã hội nằm ngay trong lòng

xã hội với sự tác động, chi phối của hai quy luật cơ bản là quy luật về sự phù
hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX, quy luật cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật khác. Nguồn gốc sâu xa

11


của sự vận động, phát triển của các hình thái KT-XH là sự phát triển của
LLSX.
Tuy nhiên con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối
bởi quy luật chung mà còn bị tác động bởi các điều kiện phát triển cụ thể
của mối dân tộc như về điều kiện tự nhiên, chính trị, truyền thống văn hóa,...
Như vậy, lịch sử phát triển nhân loại vừa tuân theo những quy luật chung,
vừa rất phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch
sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái KTXH từ thấp đến cao, nhưng cũng có dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái
KT-XH nào đó. Như vậy, q trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội
chẳng những diễn ra bằng con đường tuần tự mà còn bao hàm cả sự bỏ qua
trong những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái KT-XH nhất
định.
1.2. Vai trị phương pháp luận của lý luận hình thái KT-XH
Lý luận hình thái KT-XH ra đời là một bước chuyển biến cách mạng
trong nhận thức về đời sống xã hội. Lý luận đó đã mang lại một phương
pháp luận thực sự khoa học cho nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo xã
hội theo con đường tiến bộ.
Lý luận hình thái KT-XH chỉ ra: sản xuất vật chất là cơ sở của đời
sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định q trình sinh họat xã hội,
chính trị và tinh thần nói chung .
Lý luận hình thái KT-XH chỉ ra: Xã hội không phải là sự kết hợp một
cách ngẫu nhiên, máy móc mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt tác
động qua lại chặt chẽ với nhau. Muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải

phân tích một cách sâu sắc mối quan hệ giữa các mặt của đời sống xã hội.
Vịêc cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới, phải tiến hành một cách đồng
bộ tất cả các mặt: LLSX, QHSX, cơ sở hạ tầng , kiến trúc thượng tầng.
Lý luận hình thái KT-XH chỉ ra rằng: sự phát triển của các hình thái
KT-XH là một quá trình lịch sử tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách
12


quan, chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Do đó việc cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới đòi hỏi phải nhận thức và vận dụng đúng quy luật
khách quan, chống chủ quan duy ý chí.
Khơng những thế, lý luận hình thái KT-XH vừa chỉ ra quy luật phát
triển chung của nhân loại, vừa chỉ ra mỗi dân tộc do điều kiện lịch sử cụ thể
mà có còn đường phát triển riêng, đặc thù. Để nhận thức đúng đắn con
đường phát triển của mỗi dân tộc phải kết hợp việc nghiên cứu những quy
luật chung với việc nghiên cứu một cách cụ thể điều kiện cụ thể của mỗi dân
tộc.
Từ khi Mác xây dựng nên lý luận hình thái KT-XH cho đến nay lồi
người đã có những bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt. Điều đó đã
khẳng định tính đúng đắn, khoa học của lý luận đó.

13


Chương 2
SỰ VÂN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH trước những
biến đổi của thời đại
Mác và Ăng ghen đã vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào phân tích

xã hội tư bản. Hai ơng tìm ra được quy luật phát sinh, phát triển và diệt vong
của nó đồng thời dự báo về sự ra đời của hình thái KT-XH cao hơn. Hình
thái cộng sản chủ nghĩa - giai đoạn đầu là CNXH.
Sự ra đời của CNXH, chủ nghĩa cộng sản là tất yếu, không phải do ý
muốn chủ quan, mà dựa trên những tiền đề vật chất nhất định và là kết quả
của việc giải quyết mâu thuẫn vốn có trong lịng xã hội tư bản. Do đó vừa
phải kế thừa những thành tựu của xã hội tư bản, vừa xóa bỏ những tồn tại
hạn chế của nó, tiến tới giải phóng con người, xây dựng một xã hội tốt đẹp
hơn.
Mặc dù không phủ nhận hoàn toàn CNTB, nhưng sự thay thế CNTB
bằng một chế độ xã hội khác cao hơn là tất yếu và con đường duy nhất là
thông qua cách mạng vô sản. Bởi trong lòng xã hội tư bản đã tự bộc lộ
những hạn chế, sự phát triển không đồng đều về kinh tế. Điều đó đã làm cho
quan hệ kinh tế - tư nhân, quan hệ tư hữu ngày càng trở nên khơng phù hợp
nữa. Do đó chúng ta thấy rằng, CNXH có thể thắng thế (được minh chứng
bằng thắng lợi cách mạng tháng Mười Nga năm 1917). Từ đó, Lênin đã chỉ
rõ hai con đường cơ bản quá độ lên CNXH.
Con đường thứ nhất: Quá độ trực tiếp lên CNXH. Đây là con đường
tiến lên CNXH đối với các nước tư bản phát triển.
Con đường thứ 2: Quá độ lên CNXH thông qua những khâu trung
gian, nhiều bước quá độ. Đây là con đường tiến lên CNXH đối với các nước
lạc hậu, kinh tế kém phát triển.

14


Trên cơ sở phân tích cụ thể tình hình và điều kiện nước Nga, Lênin đã
chỉ rõ con đường tiến lên CNXH của nước Nga còn lạc hậu. Thừa nhận nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, khuyến khích phát triển sản xuất, lợi
dụng CNTB làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và CNXH, làm

phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng LLSX lên. Từ
đó xây dựng Liên Xô trở thành một nước CNXH theo mơ hình kế hoạch hóa
tập trung. Song mơ hình kinh tế này dần dần bộc lộ những hạn chế (không
khai thác được các năng lực sản xuất trong nước, không phát huy được nhiệt
tình, chủ động sáng tạo của con người, không đẩy nhanh được tiến bộ khoa
học công nghệ, giao lưu quốc tế...). Nó khơng cịn thích hợp nữa, nhưng do
chậm nhận thức và đổi mới đã dẫn đến khủng hoảng KT-XH. Dẫn đến sự
sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu - sự sụp đổ mô hình CNXH tập
trung quan, quan liêu, bao cấp.
Trong khi đó, CNTB đạt được những thành tựu hết sức to lớn về kinh
tế, khoa học công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra tiền
đề vật chất để cho xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc cách mạng này làm cho
LLSX thay đổi về căn bản: chuyển từ cơng nghệ cơ khí lên xã hội tự động,
sử dụng công nghệ hiện đại, các nguồn năng lượng mới, "khoa học trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp, lao động trí tuệ chiếm vị trí cao". Vấn đề hình
thành và phát triển kinh tế tri thức đang là vấn đề có tính thời sự. Sự phát
triển kinh tế kéo theo sự phát triển của tất cả các mặt trong đời sống xã hội.
Những sự thay đổi đó là tiền đề vật chất cần thiết cho sự ra đời của CNXH,
Chủ nghĩa cộng sản. Quá độ lên CNXH là xu thế của thời đại. Vấn đề đó
được đặt ra ở các nước khác nhau với những mức độ khác nhau và sẽ được
giải quyết phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước.
2.2. Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây
dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay
Xuất phát từ điều kiện cụ thể trong nước, tiếp thu tư tưởng tiến bộ của
Chủ nghĩa Mác Lê Nin cộng với sự tác động xu thế của thời đại, Đảng ta đã
15


vận dụng một cách sáng tạo lý luận hình thái KT - XH vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay. Sự vận dụng đó biểu hiện

cụ thể như sau:
2.2.1. Quá độ lên CNXH ở nước ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, Đảng ta khẳng định: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không
tách rời nhau - đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn kiên định
con đường tiến lên CNXH là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều
kiện cụ thể trong nước. Điều đó thể hiện ở chỗ:
Mặc dù CNXH bị khủng hoảng và sụp đổ, nhưng đó là sụp đổ của mơ
hình CNXH tập trung quan liêu, bao cấp, chứ không phải CNXH với tính
cách là một xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. CNTB mặc dầu chưa hết vai
trò lịch sử và đang đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là khoa học và công
nghệ, nhưng những thành tựu của tư bản tạo ra, đến lượt nó lại trở thành cái
phủ định chủ nghĩa tư bản và thay thế nó bằng xã hội khác cao hơn - CNXH,
CNCS. Vì vậy lựa chọn con đường tiến lên CNXH là phù hợp với xu hướng
của thời đại.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là con đường mà Đảng và nhân dân
ta lựa chọn từ 1930. Với thử thách của thời gian, con đường đó đã từng bước
hiện thực hóa trên con đường phát triển của đất nước. Tuy có những sai lầm
trên con đường phát triển kinh tế văn hoá xã hội nhưng đại đa số nhân dân ta
vẫn tin tưởng vào CNXH, quyết tâm vì sự thắng lợi của mục tiêu độc lập
dân tộc.
Về con đường đi lên CNXH ở nước ta, Đảng chỉ rõ: "Con đường đi lên
của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu kế thừa những thành tựu
mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công

16



nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại"
[1; 421].
Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất của
xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn và phức tạp, cho nên
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất q độ.
2.2.2. Kết hợp giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan
hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có quan hệ biện chứng với
nhau. Do đó phát triển kinh tế xã hội phải chú ý đến mối quan hệ này. Trong
sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng ta khẳng định: "Phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp
trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối" [1; 423].
Phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta, Đảng chủ
trương sử dụng: "Nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành
phần kinh tế". Đồng thời "Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN" [1; 423].
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết
quả của sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, kết quả
của quá trình phân cơng lao động xã hội và đa dạng hố các hình thức sở
hữu. Đến lượt nó, kinh tế thị trường là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa
phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, vừa phù hợp với yêu cầu phát
triển lực lượng sản xuất ở nước ta, với yêu cầu của quá trình xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.


17


2.2.3. Cơng nghiệp hố, hiện đại hố là nhiệm vụ trung tâm của thời
kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Để phát triển kinh tế xã hội cần có những tiền đề cơ sở vật chất kỹ
thuật. Do đó ở nước ta xây dựng CNXH phải có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mang lại. Song nước ta tiến
CNXH từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ
yếu, cái thiếu thốn nhất của chúng ta là chưa có nền cơng nghiệp. Vì vậy,
chúng ta phải tiến hành CNH, HĐH. CNH, HĐH ở nước ta là nhằm xây
dựng cơ sở - vật chất kỹ thuật cho CNXH.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã đề ra: "Con đường
CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước
tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận
dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, đặc biệt là cơng nghệ thơng tin
và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn thành tự
mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát
huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát
triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực
của sự phát triển CNH, HĐH". [1; 422]
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, phấn đấu
đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước cơng nghiệp. Đây cũng là yếu
tố có ý nghĩa quyết định chống lại nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH, HĐH là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi sự
nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.
2.2.4. Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống
xã hội
Xuất phát từ mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của

đời sống xã hội Đảng chỉ rõ: Trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta,
gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng

18


XHCN, CNH, HĐH đất nước phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị,
nâng cao vai trị lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân; nâng cao vai trò của các tổ
chức quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hoá, xây dựng nền văn
hố tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, khơng ngừng nâng cao đời sống tinh
thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, đó là "quốc sách hàng đầu"; giải quyết
tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng và dân chủ trong đời sống xã hội.
Như vậy, lý luận hình thái kinh tế xã hội là một lý luận khoa học. Nó
cho chúng ta một quan điểm đúng đắn về mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt
trong đời sống xã hội; về sự vận động phát triển của xã hội. Với sự phát
triển của khoa học và thực tiễn hiện nay, lý luận đó vẫn nguyên giá trị. Nó
đem lại một phương pháp luận thật sự khoa học để phân tích các hiện tượng
trong đời sống xã hội, từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng đắn
cho hoạt động thực tiễn. Lý luận đó đã được Đảng ta vận dụng một cách
sáng tạo trong điều kiện cụ thể của nước ta, vạch ra đường lối đúng đắn cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

19


KẾT LUẬN


1. Vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp xây dựng
CNXH ở Việt Nam là một việc làm cần thiết nhưng không hề đơn giản. Bởi
trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay cùng với những biến động của
thời đại, thì đó là một vấn đề đòi hỏi rất nhiều nổ lực của toàn Đảng toàn
dân. Vận dụng một cách đúng đắn, khoa học, sáng tạo lý luận hình thái kinh
tế xã hội sẽ góp phần đưa nước ta vững bước trên con đường phát triển, thực
hiện thành công mục tiêu của sự nghiệp xây dựng CNXH.
2. Trong tiều luận này, ở chương 1, chúng tơi đi vào tìm hiểu lý luận về
hình thái kinh tế xã hội và vai trị phương pháp luận của nó. Trong chương
2, chúng tơi chỉ rõ sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội vào sự
nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay. Đây cũng là những vấn đề
trọng tâm của tiểu luận.
3. Tuy nhiên, những vấn đề chúng tôi đưa ra trong tiểu luận này mới chỉ
dừng lại ở những tìm tòi, khảo sát bước đầu về phương diện lý thuyết, chưa
sâu vào các biện pháp, phương pháp, cách thức cụ thể, chi tiết. Vì vậy,
chúng tơi mong muốn nếu có điều kiện sẽ tiếp tục theo đuổi đề tài này một
cách toàn diện hơn.

20



×