Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Radar phòng không Việt Nam với nhiệm vụ bảo vệ bầu trời tổ quốc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.87 KB, 11 trang )

Trường đại học Bách Khoa Hà Nội
Khoa giáo dục quốc phòng
Tiểu luận quân sự
Đề bài :
Radar phòng không Việt Nam với nhiệm vụ bảo vệ bầu trời tổ quốc hiện nay
Sinh viên : Nguyễn Văn Vũ
Lớp : 1B
Khoa : CNTT ( Chương trình Việt Nhật )
Khóa : 51
Hà Nội tháng 6 năm 2008
Cách đây hơn 30 năm, Việt Nam còn chìm trong biển lửa. Lúc này nhân
dân ta phải đấu chọi với một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới_đế quốc
Mỹ. Với sự phát triển về khoa học kĩ thuật và quân sự, đế quốc Mỹ luôn
sản xuất ra những loại vũ khí tối tân, với tính năng sát thương lớn. Chúng
đã trở thành nỗi ám ảnh của nhân dân toàn thế giới. Và không phải bất cứ
nơi nào khác, chính Việt Nam đã trở thành nơi mà Mỹ dùng để thử
nghiệm những loại vũ khí cực kì nguy hiểm này.Thế nhưng với truyền
thống bất khuất của dân tộc, với sự lãnh đạo tài tình của Đảng, chúng ta
đã làm nên một trận “Điện Biên Phủ trên không”, và chiến thắng mùa
xuân 1975 đã đánh dấu sự thắng lợi của quân và dân Việt Nam. Chiến
thắng đó đã làm nhân dân toàn thế giới nể phục. Kể từ đó, hơn 30 năm đã
trôi qua, hơn 30 năm nhân dân Việt Nam được sống trong hòa bình và no
ấm…Thế nhưng chiến tranh là cái không thể lường trước được, ngày hôm
nay chúng ta đang sống trong hòa bình nhưng ai có thể dám chắc rằng
ngày mai vẫn vậy? Chính vì vậy, quân đội và nhân dân chúng ta phải luôn
cảnh giác. Chúng ta phải không ngừng trang bị phương tiện, vũ khí và tinh
thần để sẵn sàng chiến đấu một khi chiến tranh xảy ra. “Không ai tắm hai
lần trên một dòng sông”, ngày hôm nay đã khác hoàn toàn so với 30 năm
về trước. Thực tế từ các cuộc chiến tranh Irắc(1991 và 2003), Nam
Tư( 1999) đã cho ta thấy rằng lực lượng và cách tấn công của đối phương
đã thay đổi. Giờ đây, lực lượng tiến công của Mỹ và đồng minh chủ yếu là


không quân với những phương tiện tấn công đường không hiện đại. Từ
thực tế đó chúng ta phải thay đổi tổ chức của quân đội cho phù hợp. Sức
nặng lúc này đè lên vai Quân chủng Phòng Không – Không Quân. Mà cụ
thể hơn đó chính là các trung đoàn : radar phòng không, pháo phòng
không, tên lửa phòng không. Việc phát hiện ra mục tiêu sớm đóng vai trò
then chốt trong chiến đấu. Vậy với những loại phương tiện tiến công hiện
đại của đối phương như: máy bay tàng hình F117A, tên lửa chiến thuật
Tômahốc… thì các trung đoàn radar phòng không của chúng ta phải làm
gì để bảo vệ bầu trời tổ quốc hiện nay…
I. Mở đầu
Hiện nay nhân loại đang ở trong cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ
hai. Đây không phải là một cuộc cách mạng kĩ thuật đơn thuần như trong cuộc
cách mạng lần thứ nhất, mà là sự kết hợp chặt chẽ giữa cách mạng khoa học và
cách mạng kĩ thuật để tạo nên một thể thống nhất. Hai yếu tố khoa học và kĩ
thuật không tách rời mà kết hợp chặt chẽ với nhau tạo nên một sức mạnh tổng
hợp thúc đẩy cách mạng khoa học kĩ thuật cùng phát triển với tốc độ nhanh
chóng, quy mô rộng lớn và nó đã đạt được những thành tựu kì diệu chưa từng
thấy trong lịch sử nhân loại. Cơ sở của cuộc cách mạng này chính là những phát
minh khoa học công nghệ cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Tuy nhiên không phải đợi
đến tận bây giờ mà ngay cả ở thời điểm đó khi mà những phát minh về khoa học
mới xuất hiện thì nó đã có những ứng dụng nhất định làm ảnh hưởng lớn đến
đời sống xã hội đặc biệt là trong quân sự. Quy luật là vậy, những phát minh khoa
học luôn được áp dụng vào trong quân sự đầu tiên, chính vì vậy mà những loại
vũ khí tối tân, hiện đại đã xuất hiện rất sớm để phục vụ cho những cuộc chiến
tranh mà tâm điểm là hai cuộc chiến tranh thế giới vừa qua.
Đầu tiên phải kể đến một phát minh mà nhiều người vẫn cho rằng nó là vĩ
đại nhất, đó là vô tuyến điện. Nhờ có nó mà việc thông tin liên lạc giữa người với
người trở nên dễ dàng hơn. Ngay từ đầu thế kỉ 20, con người đã sử dụng nó để
tạo ra điện thoại, để tạo ra các đài truyền thanh công cộng phát sóng đến người
dân. Những phát minh lớn khác cũng được ứng dụng trong cuộc sống như phát

minh về điện của các nhà bác học Ôm( Đức ), Jun( Anh), Len-Xơ(Nga) đã mở ra
khả năng ứng dụng về nguồn năng lượng mới. Hay các phát minh về hiện tượng
phóng xạ của Hăng-ri-béc-cơ-ren(Pháp), Mariquyri … đã đặt nền móng cho việc
tìm kiếm nguồn năng lượng hạt nhân. Rơ-dơ-pho(Anh) thì có những bước tiến vĩ
đại trong việc tìm hiểu cấu trúc vật chất tạo tiền đề chế tạo ra những vật liệu bền,
tốt. Phát minh của Rơn-ghen(Đức) về tia X vào năm 1895 có những ứng dụng
quan trọng trong y học. Nhờ có phát minh này mà nhiều người được cứu sống
trong tay tử thần. Không chỉ có trong vật lí, những nghiên cứu về sinh học, hóa
học… cũng đạt được nhiều thành tựu và có những phát minh quan trọng. Như
việc phát hiện ra các loại vi trùng và chế tạo thành công ra vắc-xin chống bệnh
dại của Lu-i-pax-to(Pháp) trong y học, hay việc phát minh ra bảng hệ thống tuần
hoàn Men-de-le-ep(Nga)… Những phát minh đó đã được ứng dụng trong thực tế
để tạo ra một bước ngoặt trong cuộc sống của loài người. Con người đã có thể
sử dụng điện năng để thắp sáng ngôi nhà, sử dụng dầu hỏa để đun nấu, chạy
xe, được dùng những công cụ tốt hơn, những phương tiện giao thông siêu tốc,
những vật dụng tiện lợi và hiện đại… Cuộc sống con người đã trở nên sung
sướng hơn xưa rất nhiều. Đó là mặt tốt mà những phát minh của khoa học công
nghệ đem lại.
Thế nhưng cái gì cũng có hai mặt của nó. Nếu như những thành tựu đó làm
cuộc sống con người sung sướng hơn thì mặt khác nó cũng làm cho con người
phải khiếp sợ, lo lắng. Bởi vì bên cạnh việc ứng dụng chúng vào sản xuất thông
thường thì nó cũng được ứng dụng mạnh mẽ vào quân sự.Nếu như trước đây
chiến tranh chỉ sử dụng những thiết bị thô sơ như : ngựa chiến, cung tên, giáo
mác… với độ sát thương nhỏ thì đến bây giờ với những ứng dụng của thành tựu
khoa học kĩ thuật vào công nghệ sản xuất vũ khí đã cho ra đời những vũ khí cực
kì lợi hại, đe dọa cuộc sống của hàng triệu người. Với những ứng dụng khoa
học kĩ thuật, ngay từ đầu thế kỉ 20 đã xuất hiện những khẩu pháo chiến có tầm
bắn xa từ 5-10 km, đến chiến tranh thế giới thứ hai đã xuất hiện tên lửa có tầm
bắn xa hàng trăm km. Cùng với đó là các đài radar điều khiển tên lửa với độ
chính xác cao. Các tàu ngầm, tàu chiến mang tên lửa cũng xuất hiện như : tàu

ngầm hạt nhân, tàu sân bay, tàu đổ bộ, tàu tàng hình…
Hai cuộc chiến tranh thế giới là chứng cứ cho ta thấy sự phát triển của các
loại vũ khí nhanh đến mức nào. Ngay ở chiến tranh thế giới thứ nhất, vũ khí hóa
học như: hơi cay(hay chất làm chảy nước mắt), hơi mù tạc, Yprit( gây lở loét da),
hơi ngạt clo, các chất gây tử vong như phosgene đã xuất hiện, các loại súng
pháo cũng được cải tiến. Máy bay thời kì này cũng xuất hiện tham chiến nhưng
không đóng vai trò quan trọng lắm. Các loại tàu ngầm, xe tăng cũng được đưa
vào chiến đấu. Sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước đua nhau áp
dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật vào để sản xuất vũ khí. Các ứng dụng
hạt nhân đã tạo ra những quả bom nguyên tử với sức công phá khủng khiếp
cũng được chế tạo thành công. Tên lửa bắn tầm xa cũng xuất hiện. Cuộc chiến
tranh thế giới thứ hai xuất hiện sau cuộc chiến thứ nhất không lâu thế nhưng quy
mô và độ nguy hiểm của các loại vũ khí đã khác rõ rệt. Tổ chức của quân đội từ
đó cũng có những biến đổi phù hợp. Dù mới được phát minh ra từ năm 1903 bởi
hai anh em nhà Wright, thế nhưng chỉ sau 40 năm máy bay đã phát triển mạnh
mẽ và đóng vai trò quan trọng trong thế chiến thứ hai. Máy bay không chỉ dùng
để ném bom mà còn để chiến đấu trên không, thăm dò, dẫn đường. Mỗi máy
bay mang trên mình hàng trăm tấn bom đạn và các loại tên lửa đã làm nhiều
người phải khiếp sợ. Đặc biệt là sự kiện Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống
hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật vào năm 1945 đã chứng tỏ ảnh
hưởng của khoa học kĩ thuật đến quân sự trở thành một nỗi kinh hoàng của
nhân dân tiến bộ trên thế giới. Do có những thay đổi của phương tiện chiến
tranh nên lực lượng của quân đội cũng thay đổi. Phòng không không quân đã trở
thành lực lượng chiến đấu quan trọng của chiến tranh . Trong chiến tranh thế
giới thứ hai, các bên tham chiến đã có các tập đoàn không quân gồm hàng
nghìn máy bay các loại.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay thì việc ứng dụng thành tựu khoa
học kĩ thuật vào quân sự càng phát triển mạnh mẽ.Giờ đây,các loại vũ khí không
chỉ có độ sát thương lớn mà còn có sự chính xác cao. Các máy bay tàng hình
như F117A hay tên lửa hành trình Tômahốc đã đe dọa các dân tộc khác trên thế

giới. Cách thức chiến đấu cũng thay đổi. Càng ngày vai trò của không quân
càng lớn. Đến giờ thì chiến tranh do Mỹ và đồng minh thực hiện chủ yếu tập
trung vào việc sử dụng các phương tiện tiến công đường không và không quân
đã trở thành lực lượng nòng cốt của quân đội. Vì vậy yêu cầu đặt ra là làm thế
nào để bảo vệ được bầu trời của tổ quốc ? Radar là một thiết bị công nghệ cao
để phát hiện các loại vật thể bay, vì vậy việc nghiên cứu và phát triển các loại
radar có một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
II. Nội dung
1. Hoàn cảnh ra đời và lịch sử phát triển của Radar
a) Hoàn cảnh ra đời và sự phát triển.
i) Radar ra đời dựa trên cơ sở về những phát minh về vô tuyến điện mà
cụ thể hơn là hiện tượng phản xạ sóng điện từ:
Năm 1865, Mắc- xoen dự đoán về lí thuyết sóng điện từ.
Năm 1887, Heng-zơ-hec phát minh ra sóng điện từ.
Ngày 07/05/1895, PoPop(Nga) phát minh ra một dụng cụ có thể ghi lại
các hiện tượng phóng điện phát sinh cách đó đến 30m. Đến tháng 03
năm 1896, ông gửi thành công một sóng truyền tên “Hen-zơ-hec” khởi
đầu cho sự phát triển của nền vô tuyến điện.
Năm 1897, phát hiện ra hiện tượng phản xạ sóng điện từ làm cơ sở
cho việc tạo ra radar.
ii) Ban đầu thì những phát minh trên chỉ được ứng dụng trong cuộc sống
và nghiên cứu khoa hoc. Năm 1925, hai nhà bác học Mỹ sử dụng chúng
để nghiên cứu tầng điện li.
iii) Mặc dù những nghiên cứu về cơ sở đã xuất hiện rất sớm thế nhưng
mãi sau này radar mới xuất hiện. Điều này xuất phát từ nhiệm vụ, vai trò
của radar : đó là những thiết bị mà ban đầu có mục đích phát hiện máy
bay địch từ xa. Mà mãi đến năm 1903, lần đầu tiên máy bay mới được
phát minh. Vài thập niên sau máy bay mới được đem ra chiến trường
phục vụ chiến đấu. Ban đầu chúng chỉ là những vật thể bay chậm chạp,
hiệu suất chiến đấu không cao. Hơn nữa chỉ cần dùng các máy ghi âm có

nhiệm vụ phát hiện vị trí máy bay cũng đủ. Thế nhưng mọi chuyện đã
khác trong giai đoạn sau chiến tranh thế giới thứ nhất và trong khi chiến
tranh thế giới thứ hai xảy ra.Lúc này kĩ thuật chiến tranh của các nước
tham chiến đã phát triển mạnh mẽ. Nhiều nước đã chế tạo được các loại
máy bay nhanh hơn 500km/h. Các máy bay mang nhiều bom đạn và đã
đóng một vai trò quan trọng trong chiến tranh. Lúc này các máy ghi âm
phát hiện máy bay mất hết tác dụng. Thực tế đó đòi hỏi phải có một thiết
bị có tác dụng phát hiện máy bay địch từ xa một cách chính xác để tiêu
diệt mục tiêu kịp thời. Lúc này radar mới được đầu tư nghiên cứu đúng
mức và đã đạt được những thành tựu nhất định. Đúng như sự kì vọng,
radar đã đóng một vai trò quan trọng trong chiến tranh. Kể từ sau chiến
tranh thế giới thứ hai đến nay, radar vẫn được đầu tư phát triển mạnh.

×