Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

trong các giai cấp đối lập giai cấp tư sản thì giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có khả năng thủ tiêu chế độ tư bản xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.67 KB, 14 trang )

Phần I
Lời mở đầu
Trong những thời đại lịch sử trước, hầu khắp mọi nơi, chúng ta đều
thấy xã hội hoàn toàn chia thành những đẳng cấp khác nhau, một cái thang
chia thành từng nấc thang địa vị xã hội. Ở La Mã thời cổ, chúng ta thấy có
quý tộc, hiệp sĩ, bình dân, nơ lệ; thời trung cổ thì có lãnh chúa phong kiến,
chư hầu, thợ cả, thợ bạn, nông nô, và hơn nữa, hầu như mỗi giai cấp ấy, lại
có những thứ bậc đặc biệt nữa. Xã hội tư sản hiện đại, sinh ra từ trong lòng
xã hội phong kiến đã bị diệt vong, khơng xố bỏ được những đối kháng giai
cấp. Nó chỉ đem những giai cấp mới, những điều kiện áp bức mới, những
hình thức đấu tranh mới thay thế những giai cấp, những điều kiện áp bức,
những hình thức đấu tranh cũ mà thơi.
Tuy nhiên, đặc điểm của thời đại, thời đại của giai cấp tư sản, là đã
đơn giản hoá những đối kháng giai cấp. Xã hội ngày càng chia thành hai phe
lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư
sản và giai cấp vô sản. và ” trong các giai cấp đối lập giai cấp tư sản thì
giai cấp cơng nhân là giai cấp duy nhất có khả năng thủ tiêu chế độ tư bản
xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản”. Chúng ta cùng làm luận
điểm này.

1


Phần II
Nội dung
I-

Định nghĩa về giai cấp công nhân

Giai cấp cơng nhân (GCCN) là một tập đồn xã hội ổng định,hình
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiên


đậivới nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng caolà lưc lượng
cơ bản tiên tiến trong các quy trình cơng nghệ,dịch vụ cơng nghiệp trưc tiếp
hoặc gián tiếptham gia vào quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất và cải
tạo các quan hệ xã hội,đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thưcs sản
xuất tiên tiến trong thòi hiện đại
Đây là giai cấp khơng có tư liệu sản xuất (cho nên gọi là giai cấp vô
sản) làm thuê cho nhà tư bản và trực tiếp bị nhà tư bản bóc lột.Hình thành từ
khi chủ nghĩa tư bản ra đời thế kỉ 16 (công nhân các công trường thủ công
cũng gọi là tiền vô sản). Sau cách mạng công nghiệp (cuối thế kỉ 18, đầu thế
kỉ 19), trở thành GCCN công nghiệp, tức giai cấp vô sản hiện đại, mà hạt
nhân là công nhân nhà máy, hầm mỏ, rồi đến công nhân xây dựng, vận tải.
Tuỳ theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và quy mô của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa, GCCN tăng về số lượng; đồng thời, q trình cơ khí hố và
hiện nay là tự động hoá sản xuất lại giảm tương đối số lao động chân tay và
tăng số lao động có kĩ thuật. Điều kiện sống của GCCN phụ thuộc vào điều
kiện bán sức lao động. Là lực lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội tư bản,
nhưng lại bị bần cùng hoá và thường xuyên bị nạn thất nghiệp đe doạ. Vì
vậy, GCCN đã tự phát đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư

2


bản. Sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác và đưa đảng của GCCN lãnh đạo,
GCCN từ giai cấp "tự mình" trở thành giai cấp "vì mình", từ đấu tranh kinh
tế tiến lên đấu tranh chính trị nhằm giành chính quyền và dựng chính quyền
mới, xây dựng xã hội mới, khơng cịn áp bức, bóc lột.
II- Đặc diểm chính trị của giai cấp công nhân
Nền công nghiệp hiện đại đã sản sinh ra, nuôi dưỡng một giai cấp vô
sản với những đặc trưng cơ bản: là giai cấp tiên tiến, có tổ chức, cách mạng
và cách mạng triệt để nhất.

Tính chất tiên tiến của giai cấp vô sản thể hiện ở chỗ vượt lên trên các
tầng lớp bị bóc lột khác đang đối lập với giai cấp tư sản, họ là đại biểu cho
phương thức sản xuất mới, là “giai cấp đang nắm tương lại trong tay”; đại
công nghiệp càng phát triển, giai cấp này càng trưởng thành; hơn nữa giai
cấp tư sản đã cung cấp cho giai cấp vô sản những tri thức của nền sản xuất
hiện đại, thậm chí “một số bộ phận nhỏ của giai cấp thống trị tách ra khỏi
giai cấp này và đi theo giai cấp cách mạng, cùng với giai cấp vô sản thực
hiện sứ mệnh thúc đẩy sự vận động lịch sử sang giai đoạn mới.
Tính chất đồn kết, có tổ chức chặt chẽ của giai cấp vơ sản có cơ sở
sâu xa từ những đòi hỏi tất yếu về kỹ thuật và tổ chức sản xuất của nền đại
công nghiệp. C.Mác và Ph.Ăng-ghen viết: “Sự phát triển của công nghiệp
không những đã làm tăng thêm số người vơ sản, mà cịn tập hợp họ lại thành
những khối quần chúng lớn hơn: lực lượng của những người vô sản tăng
thêm và họ thấy rõ lực lượng của mình hơn”. Tư bản là một lực lượng tập
thể, ở ngành nào, lĩnh vực nào nó cũng bóc lột cơng nhân, khiến cho lợi ích
và điều kiện sinh hoạt của những người vô sản dần dần trở nên ngang bằng
nhau, khơng cịn sự phân cách giữa cơng nhân ngành này, xí nghiệp ngành
này với cơng nhân ở ngành kia, xí nghiệp kia. Thêm vào đó, việc tăng thêm
phương tiện giao thông do đại công nghiệp tạo ra giúp công nhân các địa
phương tiếp xúc với nhau dễ dang hơn, sự đồn kết giữa họ chặt chẽ hơn.
Tính chất cách mạng của giai cấp vô sản, một mặt, do giai cấp này đại
biểu cho lực lượng sản xuất mới – nhân tố cách mạng trong nền sản xuất, xã

3


hội, - họ chỉ có thể giành được những lực lượng sản xuất xã hội bằng cách
xóa bỏ phương thức chiếm hữu hiện nay; mặt khác do giai cấp đó là tầng lớp
bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất trong xã hội tư bản. Cả hai đặc điểm đó hợp
lại, hun đúc nên ý chí, dũng khí cách mạng vô song, không thế lực nào dập

tắt được của giai cấp vơ sản.
Giai cấp cơng nhân cịn là giai cấp mang bản chất quốc tế.Giai cấp
công nhân ở các nước tư bản nói chung đều có địa vị kinh tế giơng nhau, họ
đều chịu sự áp bức bóc lột của giai cấp tư bản. Họ có chung một mục tiêu
đấu tranh : xố bỏ chế độ áp bức, bóc lột của tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế
độ xã hội khơng cị tình trạng người áp bức, bóc lột người. Giai cấp tư bản
cũng là lực lượng quốc tế, để duy trì địa vị thống trị cảu mình , chúng dễ
dàng thức hiện sự liên minh trên phạm vi quốc tế để chống lại sự đấu tranh
của giai cấp công nhân. Vì vậy, muốn hồn thành sự nghiệp giải phóng, giai
cấp cơng nhân các nước phải đồn kết lại, phải phối phối hợp đấu tranh trên
phạm vi quốc tế.
III-

Địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân

Trong xã hội TBCN thì giai cấp cơng nhân là bộ phận quan trọng
nhất, cách mạng nhất trong trong các bộ phận cấu thành nên lực lượng sản
xuất. Họ đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, có trình độ hố ngày càng
cao, và tạo ra phần lớn của cải vật chất cho xã hội TBCN. Nhưng vì do
khơng có tư liệu sản xuất trong xã hội TBCN, nên giai cấp công nhân phải
bán sức lao động, làm thuê cho các nhà tư bản, bị bóc lột thậm tệ thơng qua
cơ sở bóc lột giá trị thặng dư. Thậm chí, người cơng nhân khơng được quyền
phân phối sản phẩm do chính mình làm ra. Cuộc sống phụ thuộc hồn tồn
vào giai cấp tư sản(dựa vào tiền cơng có được nhị lao động cho TB).
IV- Hệ giá tri chủa giai cấp công nhân
Trong đời sống hiện thực, cùng với sự phát triển của phương thức sản
xuất công nghiệp và sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những
giá trị hiện tồn của nhân loại đã và đang xuất hiện một hệ giá trị mới của giai
cấp công nhân. Với tư cách một hệ thống những phẩm chất, phẩm giá, quan
niệm về chuẩn mực xã hội của một cộng đồng người, hệ giá trị của giai cấp

cơng nhân có những biểu hiện cơ bản sau:

4


Thứ nhất, lao động - giai cấp công nhân xác định sự tồn tại của mình
bằng lao động theo phương thức công nghiệp với những đặc trưng: sản xuất
bằng máy móc, năng suất cao, mang tính xã hội hóa, tự giác và sáng tạo trên
cơ sở của tri thức hiện đại và kỹ năng ngày càng hoàn thiện... Giá trị này vừa
phản ánh q trình giải phóng con người thốt khỏi "tính chất cực nhọc cổ
truyền của lao động", vừa là tiền đề để nhân loại thốt khỏi tình trạng bóc lột
lao động và "lao động bị tha hóa" mà các phương thức sản xuất trước đây đã
tạo ra.
Thứ hai, công bằng - với việc xác lập chế độ công hữu về những tư
liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, giai
cấp công nhân đã và đang từng bước hiện thực hóa một lý tưởng của nhân
loại trên lĩnh vực cơ bản nhất: công bằng trong phân phối thành quả lao
động.
Thứ ba, sự bình đẳng giữa các cơng dân và giữa các dân tộc. Giá trị
này được hiện thực hóa thơng qua việc xác lập và khơng ngừng hồn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Thứ tư, "sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi người là điều kiện
cho sự phát triển tự do và toàn diện của mọi người", con người "được phát
triển mọi năng lực bản chất người" và biết tôn trọng những chuẩn mực đạo
đức xã hội, như sống có lý tưởng, nhân ái, vị tha... và dần vươn lên làm chủ
xã hội, làm chủ bản thân và làm chủ tự nhiên.
Thứ năm, quan hệ hịa bình, hữu nghị giữa các quốc gia - dân tộc. Gọi
là hệ giá trị của giai cấp cơng nhân vì tính riêng của nó, nhưng nó khơng hề
biệt phái. Hệ giá trị này vừa tiếp nối vừa phân biệt với những "giá trị cổ
truyền". Nó tiếp nối, phát triển những lý tưởng và cũng là những giá trị vĩnh

hằng của nhân loại, như lao động, cơng bằng, tự do, hịa bình và hữu nghị…
Hệ giá trị này phân biệt với hệ giá trị tư sản, bởi nó đối lập với chế độ bóc
lột lao động và phê phán quan niệm coi xã hội có đẳng cấp, bất bình đẳng là
lẽ tự nhiên, nó đối lập với lẽ sống thực dụng tư sản, với "lối tính tốn vị kỷ,
trả tiền ngay, khơng tình không nghĩa"… Sự khác biệt về nguyên tắc giữa
hai hệ giá trị của tư bản và lao động là có thực và được khẳng định bằng
cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực văn hóa, xã hội.

5


V-

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp.
trong mỗi kì chuyển biến cách mạng từ hình tháikinh tế xã hội này sang hình
thái kinh tế xã hội khác cao hơn ln có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm,
giai cấp cách mạng đống vai tròchủ yếu, là lực lượng lãnh đạo cuộc chuyển
biến đó. Giai cấp cách mạng này có vai trò là thủ tiêu chế độ xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới phù hợp với tiến trình khách quan của lịch sứ. sứ mệnh lịch
sử của nó là do địa vị lhách quan của giai cấp đó quy định.
Đặt vấn đề tại sao giai cấp cơng nhân có sứ mệnh lịch sử đó mà khơng
phải một giai cấp nào khác, C. Mác, Ph.Ăng-ghen viết: “Trong tất cả các
giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vơ sản là giai
cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong
cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vơ sản lại là sản
phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”. Cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản
khơng phải mưu cầu lợi ích cho thiểu số như các phong trào trong lịch sử
trước đây, mà là cho tuyệt đại đa số. Cuộc đấu tranh đó khơng phải chỉ dừng

lại ở việc cải thiện cuộc sống cho người lao động trong phạm vi tồn tại của
chủ nghĩa tư bản (CNTB), mà đạt đến mục tiêu giành chính quyền về tay
giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động; từ đó, phát huy quyền làm chủ xã
hội của toàn dân xây dựng chế độ xã hội mới khơng có áp bức, bóc lột. Hình
thức giành chính quyền để thiết lập quyền làm chủ của nhân dân lao động
phụ thuộc vào quan hệ và so sánh lực lượng giai cấp cũng như tiến trình
cách mạng diễn ra ở mỗi quốc gia, dân tộc; do đó, ở mỗi thời kỳ lịch sử khác
nhau, có hình thức khác nhau.
Với thế giới quan duy vật biện chứng về lịch sử, nhận thức bản chất
của xã hội tư sản từ cơ sở kinh tế, C. Mác phát hiện ra lực lượng xã hội có
khả năng cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là giai cấp công nhân, và
khẳng định, trong sự nghiệp tự giải phóng của nhân loại cần lao, giai cấp
cơng nhân là nịng cốt, đóng vai trò lãnh đạo. Đấy là điểm mấu chốt trong
học thuyết XHCN của C. Mác, khác về chất với CNXH khơng tưởng; hay
nói cách khác, là điểm mấu chốt phát triển CNXH từ không tưởng đến khoa
học. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân giải phóng giai cấp, giải phóng
6


xã hội, giải phóng con người, đạt đến mục tiêu "Thay cho xã hội tư sản cũ,
với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp,
trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người”.
VI- Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản:
Từ những đặc điểm của thời đại chúng ta, thời đại của giai cấp tư sản,
là đã đơn giản hoá những đối kháng giai cấp. Xã hội ngày càng chia thành
hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai
cấp tư sản và giai cấp công nhân (giai cấp vô sản).
Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vơ sản, giai cấp
công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm

được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ tăng thêm tư
bản cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để
kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hố, tức là một món hàng đem bán như
bất cứ một món hàng nào khác; vì thế họ phải chịu hết mọi sự may rủi của
cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ như nhau. Do sự
phát triển của việc dùng máy móc và sự phân cơng, nên lao động của người
vơ sản mất hết tính chất độc lập, do đó họ mất hết hứng thú. Người công
nhân trở thành một vật phụ thuộc giản đơn của máy móc, người ta chỉ địi
hỏi người cơng nhân làm được một cơng việc đơn giản nhất, đơn điệu nhất,
dễ học nhất mà thôi. Do đó, chi phí một cơng nhân hầu như chỉ là còn là số
tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì đời sống và nịi giống của anh ta mà
thôi. Nhưng giá cả lao động, cũng như giá cả hàng hố, lại bằng chi phí sản
xuất ra nó. Cho nên lao động càng trở nên thiếu hấp dẫn thì tiền cơng càng
hạ. Hơn nữa, việc sử dụng máy móc và sự phân cơng mà tăng lên thì lượng
lao động cũng tăng lên theo, hoặc là do tăng thêm giờ làm, hoặc là do tăng
thêm lượng lao động phải tăng thêm lượng lao động phải làm trong một thời
gian nhất định, do cho máy chạy tăng thêm,... Công nghiệp hiện đại đã biến
xưởng thợ nhỏ của người thợ cả gia trưởng thành công xưởng lớn của nhà tư
bản công nghiệp. Những khối đông đảo công dân, chen chúc nhau trong
xưởng, được tổ chức theo lối quân sự. Là những người lính trơn của cơng
7


nghiệp, họ bị đặt dưới quyền giám sát của cả một hệ thống cấp bậc sĩ quan
và hạ sĩ quan. Họ không những là nô lệ của giai cấp tư sản, của nhà nước tư
sản, mà hàng ngày, hàng giờ, cịn là nơ lệ của máy móc, của người đốc cơng
và trước hết là của chính nhà tư sản chủ công xưởng. Chế độ chuyên chế ấy
càng công khai tuyên bố lợi nhuận là mục đích duy nhất của nó thì nó lại
càng trở thành ti tiện, bỉ ổi, đáng căm ghét.
Vì bọn tư sản ngày càng cạnh tranh với nhau hơn và vì khủng hoảng

thương mại do sự cạnh tranh ấy sinh ra, cho nên tiền công càng trở nên bấp
bênh; việc cải tiến máy móc khơng ngừng và ngày càng nhanh chóng hơn
làm cho tình cảnh của cơng nhân ngày càng bấp bênh, những cuộc xung đột
cá nhân giữa cơng nhân và tư sản ngày càng có tính chất những cuộc xung
đột giữa hai giai cấp.
Hơn nữa trong CNTB có hai giai cấp cơ bản, tiêu biểu nhất đối lập
nhau về lợi ích, đó là GCCN đại biểu cho lực lượng SX hiện đại. GCTS đại
biểu cho quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Hai
giai cấp này mâu thuẫn với nhau ngày càng rõ rệt,sâu sắc và gay gắt. Các
cuộc đấu tranh giai cấp của GCCN (gắn với nhân dân lao động bị áp bức bóc
lột) chống GCTS áp bức bóc lột phát triển từ trình độ thấp, quy mơ nhỏ, tự
phát tiến tới trình độ cao hơn, quy mơ lớn hơn và tính tự giác ngày càng thể
hiện rõ rang. Đến độ chin muồi của sự phát triển, phong trào cơng nhân hình
thành đảng chính trị của mình với tư tưởng và tổ chức tiên phong để lãnh
đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại, lật đổ ách thống trị
của giai cấp tư sản. Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp TS là
biểu hiện về mặt XH của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ SX
trong CNTB. CNTB càng phát triển thì GCTS càng phát triển hay quan hệ
sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất càng phát triển. Làm
cho LLSX khơng cịn phù hợp với QHSX, phương thức sản xuất khơng cịn
phù hợp với xã hội. Mâu thuẫn giữa QHSX và LLSX xảy ra là một tất yếu
khách quan hay mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản là một
tất yếu khách quan.
VII- Vai trị của giai cấp cơng nhân trong thời đại ngày nay

8


Do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nên
cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội đã có những biến đổi mới làm cho “giai cấp

công nhân hiện đại” khác với “giai cấp công nhân cổ điển” ở thời kỳ thế kỷ
XIX, thời kỳ Mác còn sống, trên một số điểm như là : Tỉ lệ số người làm
dịch vụ so với số người sản xuất trực tiếp tăng lên; trình độ văn hóa chung
và tay nghề chuyên môn cao hơn; mức thu nhập khá hơn trước, làm cho một
bộ phận người lao động trở thành “trung lưu hóa”. Một bộ phận trong giai
cấp công nhân đã mua cổ phần và được chia lợi nhuận với giai cấp tư sản.
Tầng lớp quản lý ngày càng có vai trị quan trọng và kiêm nhiều chức năng
phụ của giới chủ. Những biểu hiện trên đây chứng tỏ giai cấp công nhân
ngày càng phát triển, chứ không phải "teo đi" như một số người quan niệm.
Ở thế kỷ XIX giai cấp công nhân chủ yếu là lao động chân tay, điều
kiện sản xuất lúc đó cịn hạn chế. Ngày nay trong điều kiện mới, khi lực
lượng sản xuất đang trên đà phát triển mạnh, giai cấp công nhân không chỉ
bao gồm những người lao động chân tay mà cịn cả lao động trí óc thơng qua
các máy điện toán với những thành tựu của tin học. Giai cấp cơng nhân có
sự phát triển về chất lượng để đảm đương được nhiệm vụ của mình trong
điều kiện mới, hay nói cách khác “cơng nhân hóa trí thức” và “trí thức hóa
cơng nhân” là xu thế tất yếu của nền đại cơng nghiệp, của q trình tự động
hóa, tin học hóa. Giai cấp cơng nhân đang lớn lên với đội ngũ trí thức của
mình và giai cấp cơng nhân luôn luôn là người trực tiếp sản xuất, tham gia
vào quá trình tạo ra những giá trị vật chất, những của cải to lón cho xã hội.
Giai cấp cơng nhân bao gồm những người lao động trong lĩnh vực
công nghiệp, dịch vụ công nghiệp; những nhà nghiên cứu, sáng chế, áp dụng
những thành tựu của khoa học công nghệ phục vụ cho sản xuất; những kỹ
sư, kỹ thuật viên, cán bộ kỹ thuật thực hiện chức năng của công nhân lành
nghề trong sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất. Giai cấp cơng nhân có
mặt trong các ngành kinh tế: Công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp, giao thơng vận tải, trong đó cơng nhân cơng xưởng, nhà máy sản
xuất công nghiệp hiện đại, tiên tiến là bộ phận nịng cốt, tiêu biểu cùng với
q trình phát triển của giai cấp cơng nhân, bộ phận trí thức gắn trực tiếp với
lao động cơng nghiệp, với quy trình sản xuất công nghiệp tạo ra của cải vật

chất cho xã hội cũng nằm trong nội dung khái niệm giai cấp công nhân.
Trong điều kiện ngày nay, cơ cấu của giai cấp cơng nhân hiện đại rất
đa dạng, có nhiều trình độ khác nhau và không ngừng biến đổi theo hướng
không thuần nhất: Công nhân kỹ thuật ngày càng tăng công nhân ngày càng
được nâng cao về trình độ, đóng vai trị chính trong q trình phát triển,
cơng'nhân truyền thống giảm dần. ở các nước tư bản phát triển “công nhân
áo xanh” chỉ chiếm 12 - 15% tổng số công nhân. ở Italia công nhân kỹ thuật
cao “công nhân áo trắng” chiếm 53% tổng số công nhân. ở Nhật 90% công
9


nhân có trình độ đại học. ở Tây Ban Nha công nhân kỹ thuật chiếm 53%.
Công nhân làm việc trong các ngành dịch vụ tăng lên xấp xỉ 50% tổng số
cơng nhân . Mặc dù một số ít trong giai cấp cơng nhân có cổ phần trong các
xí nghiệp của tư bản, nhưng về cơ bản giai cấp công nhân vẫn bị bóc lột,
mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, sự phân biệt giàu nghèo và tình trạng bất
cơng xã hội vẫn tăng lên, bản chất bóc lột giá trị thặng dư vẫn tồn tại, dù
được biểu hiện dưới hình thức tinh vi hơn. Cả sự bần cùng hóa tuyệt đối lẫn
bần cùng hóa tương đối của giai cấp công nhân vẫn đang tồn tại. Tuy đại bộ
phận tầng lớp trí thức và lao động có kỹ năng đang có việc làm được cải
thiện mức sống và gia nhập vào tầng lớp trung lưu, nhưng vẫn khơng xóa
được sự phân hóa giàu nghèo. Chính những nhà xã hội học tư sản tiến bộ đã
chứng minh ở các nước tư bản hiện nay sự bóc lột cịn cao hơn và với cơ chế
càng tinh vi hơn thời Mác. Tỉ lệ m/v thời Mác là 1/1 thì thời nay là 3/1.
Như vậy dù mức sống có cao hơn trước, dù cơng nhân có được tham
gia quản lý thơng qua đại biểu trong hội đồng xí nghiệp theo “chế độ tham
dự” và “chế độ ủy nhiệm”' nhưng họ vẫn là người làm thuê bán sức lao
động, ý chí của chủ nghĩa tư bản vẫn là quyền lực chi phối, tầng lớp “nhà
quản lý” vẫn chỉ là kẻ phụ thuộc vào giới chủ. Giai cấp công nhân vẫn luôn
là lực lượng sản xuất cơ bản và trực tiếp, vẫn là giai cấp tiên phong trong xã

hội. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không thể chuyển vào tay một
giai cấp hay tầng lớp xã hội nào khác: Những chỉ dẫn cơ bản về đặc trưng
bản chất của giai cấp công nhân của Mác - ăng Ghen - Lênin đưa ra vẫn là
cơ sở phương pháp luận để xem xét, phân tích giai cấp công nhân hiện đại
trong các quốc gia tư bản chủ nghĩa phát triển hay trong những nước đang
tiếp tục con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, các nước thế giới thứ ba và
tồn thế giới nói chung, trước đây cũng như hiện nay.
Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động ra của cải
vật chất trong lĩnh vực cơng nghiệp với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày
càng hiện đại. Sản phẩm thặng dư do họ làm ra là nguồn gốc chủ yếu cho sự
giàu có và sự phát triển của xã hội.
Giai cấp công nhân vừa là người lãnh đạo, đồng thời cùng với nơng
dân, trí thức và các giai cấp, tầng lớp lao động khác họp thành lực lượng
tổng hợp của q trình thực hiện sứ mệnh lịch sử đó.
VIII- xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện ngày
nay.
Từ những đặc điểm đã được nêu ra trên đây, gắn với cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ : Chuyển kinh
tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp sang kinh
10


tế tri thức. Hai nhiệm vụ ấy phải thực hiện đồng thời. Điều đó có nghĩa là
phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa
nơng nghiệp, đồng thời với phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa
vào tri thức, vào khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức. Thực hiện đồng thời hai nhiệm
vụ ấy sẽ đặt nước ta trước một tình huống vừa thừa quá nhiều lao động giản
đon, công nhân tạp vụ, vừa thiếu gay gắt cơng nhân có trình độ cao. Tình thế
càng khó khăn do chúng ta không thể chạy theo tốc độ tăng trưởng kinh tế

đơn thuần. Ngày nay phát triển được quan niệm là tăng trưởng kinh tế gắn
với xóa đói giảm nghèo, giảm thất nghiệp và giảm bất bình đẳng trong xã
hội. Chính vì vậy theo chúng tơi có hai nội dung chính, đáng quan tâm nhất
trong việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay :
Một là: Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam tiên tiến, hiện đại,
phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng, có khả năng nắm bắt khoa
học hiện đại để xây dựng và phát triển đất nước.
Muốn vậy phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí,
đào tạo nhân tài. Đẩy mạnh giáo dục đào tạo để cung cấp đủ yêu cầu về
“công nhân cổ vàng” và “cơng nhân cổ xanh” cho q trình cơng nghiệp
hóa, nhất là công nhân cho những ngành dệt, may, công nghiệp nhẹ và công
nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và xuất khẩu lao động. Có phương sách
thích hợp để tuyển chọn đúng nhân tài và đào tạo “công nhân cổ trắng”. Do
ngân sách Nhà nước giành cho giáo dục thấp nên người dân phải tự trang
trải chi phí giáo dục quá lớn so với thu nhập của họ. Con em nơng dân và
cơng nhân nghèo thường khơng có điều kiện học lên cao, mặc dù có nhiều
em rất thơng minh, có năng khiếu. Cần tổ chức những trường, lóp như các
trường bổ túc công nông trước đây ở các tỉnh, tuyển chọn những học sinh
giỏi con nhà nghèo được bao cấp ít nhất từ lớp 10 đến tốt nghiệp đại học.
Sau khi tốt nghiệp, Nhà nước bố trí vào những ngành kinh tế tri thức, trả
lưong xứng đáng để họ có thể trả nợ ngân hàng (nếu họ vay trong thời gian
học). Đồng thời có chính sách khuyến khích các cơ quan, doanh nghiệp cấp
học bổng cho các học sinh giỏi con nhà nghèo và sử dụng họ sau khi tốt
nghiệp.
Về lâu dài, lao động nông nghiệp sẽ dần dần được chuyển sang công
nghiệp và dịch vụ, nhưng phải qua đào tạo.
Có thể nói đào tạo để phát triển giai cấp công nhân là một vấn đề vô
cùng quan trọng mà mỗi ngành mỗi cấp, mỗi cơ quan xí nghiệp cần có kế
hoạch để thực hiện tốt nhất. Trong những năm tới phải tăng mạnh đầu tư để
phát triển giáo dục nhằm xây dựng thế hệ người Việt Nam có bản lĩnh, có lý

tưởng, có khả năng sáng tạo, làm chủ được tri thức hiện đại, để phát triển đất
nước.
11


Hai là: Giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng, chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam, ý thức và vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân để
thực hiện tốt các nhiệm vụ trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hội
nhập với khu vực và thế giới. Điều quan trọng là vừa kế thừa được tinh hoa
của nhân loại nhưng phải giữ gìn phát huy được bản sắc tốt đẹp của dân tộc,
phát huy được nội lực, sức mạnh Việt Nam trong quá trình phát triển.
Con người Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam phải thấm sâu chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, đó là : có lịng tự hào dân tộc sâu sắc; có hồi bão
khát vọng ý chí thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh” vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội; sẵn sàng làm mọi việc vì
dân vì nước; khơng dung thứ với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ
quốc và nhân dân.
Để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thấm nhuần chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam cần áp dụng đồng bộ các giải pháp, đó là : giáo dục chủ
nghĩa yêu nước cho tồn dân, trọng điểm là thanh niên cơng nhân, thế hệ trẻ;
không ngừng đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước; xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật phục vụ giáo dục chủ nghĩa yêu nước; xây dựng môI trường
văn hóa trong giáo dục chủ nghĩa yêu nước; các tổ chức Đảng, chính quyền,
đồn thể chính trị xã hội có kế hoạch giáo dục thường xuyên chủ nghĩa yêu
nước cho cán bộ, đảng viên, đồn viên, hội viên. ..
Có thể nói có rất nhiều nội dung, nhưng nếu chúng ta triển khai tốt,
làm tốt hai nội dung trên đây, chắc chắn giai cấp công nhân Việt Nam sẽ
phát huy được bản chất tiên tiến, cách mạng, tính kỷ luật và bản chất quốc tế
và sẽ làm tốt vai trò lãnh đạo, vai trị đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.


12


Phần III
Kết luận
Tóm lại, tứ sự phân tích ở trên thì chúng ta co thế thấy được vai trị
quan trọng của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa- một trong
các hình thái kinh tế mà con người đã trải qua. Mặc dù không phái giai cấp
công nhân của nước nào cũng tìm cách thủ tiêu giai cấp tư sản, xóa bỏ chế
dộ tư bản chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
nhưng chúng ta có thể thấy rõ được rằng dù là trong thời đại nào, trong xã
hội tư bản chủ nghĩa ln tồn tại sự bóc lột của giai cấp tư sản với giai cấp
công nhân dứoi mọi hinh thức.

Tài liệu tham khảo:
13


1. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học_NXB chính trị quốc gia.
2. Tuyên ngôn đảng cộng sản_ Ebook.
3. website:
4. website:
5. website:

______hết______

Mục lục
Phần I : lời mở đầu
Phần II : nội dung:

IĐịnh nghĩa về giai cấp công nhân.
IIĐặc điểm chính trị của giai cấp cơng nhân.
III- Địa vị về kinh tế chính trị của giai cấp cơng nhân.
IV- Hệ giá trị của giai cấp công nhân.
VSứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
VI- Mâu thuẫn giữa GCCN và GCTS.
VII- Vai trị của giai cấp cơng nhân trong thời đại ngày nay.
VIII- Xây dựng giai cấp công nhân ở việt nam trong thời đại
ngày nay.
Phần III: Kết luận
14



×