Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Giải pháp xử lý nợ xấu tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (963.3 KB, 104 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
***




NGUYỄN THỊ THỦY



GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH TỈNH BẮC GIANG




CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60.34.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. BÙI BẰNG ĐOÀN



HÀ NỘI – 2014

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page i



LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Giải pháp xử lý nợ xấu tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh tỉnh Bắc Giang” là công trình
nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Số liệu được nêu trong luận văn có nguồn gốc rõ
ràng. Kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Nguyễn Thị Thủy

























Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii



LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình của nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân. Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn sâu
sắc tới Ban Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam, tập thể các thày, cô giáo
khoa Kế toán và Quản trị kinh doanh, đặc biệt là các thày, cô giáo bộ môn Kế toán
Quản trị và Kiểm toán đã giảng dạy, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn chi nhánh tỉnh Bắc Giang, các anh, chị đồng nghiệp đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn động viên và tạo điều
kiện để tôi tham gia học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này./.
Hà Nội, ngày tháng 9 năm 2014
TÁC GIẢ LUẬN VĂN




Nguyễn Thị Thủy













Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii


MỤC LỤC

Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các bảng v
Danh mục các sơ đồ, biểu đồ vi
Danh mục các từ viết tắt vii
PHẦN I MỞ ĐẦU 1

1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
PHẦN 3 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 3
2.1 Khái quát về ngân hàng thương mại 3
2.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại 3
2.1.2 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại 4
2.2 Một số vấn đề chung về nợ xấu ngân hàng 6
2.2.1 Khái niệm nợ xấu ngân hàng 6
2.2.2 Bản chất của nợ xấu ngân hàng 8
2.2.3 Phân loại nợ xấu ngân hàng 9
2.2.4 Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của ngân hàng 10
2.2.5 Nguyên nhân phát sinh nợ xấu ngân hàng 11
2.2.6 Tác động của nợ xấu 14
2.3 Xử lý nợ xấu trong hoạt động của ngân hàng 17
2.3.1 Khái niệm về xử lý nợ xấu 17
2.3.2 Nội dung xử lý nợ xấu 17
2.3.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xử lý nợ xấu của NHTM 19
2.4 Cơ sở thực tiễn 20
2.4.1 Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của ngân hàng ở một số nước trên thế giới 20
2.4.2 Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số ngân hàng ở Việt Nam 24
2.4.3 Một số công trình nghiên cứu liên quan 26
PHẦN III ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐƠN VỊ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv


3.1 Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Giang 28
3.2 Một số vấn đề chung về Agribank tỉnh Bắc Giang 29

3.2.1 Quá trình hình thành và phát triển 29
3.2.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy của chi nhánh 30
3.2.3 Hoạt động kinh doanh chủ yếu của chi nhánh 32
3.3 Phương pháp nghiên cứu 35
3.3.1 Phương pháp thu thập tài liệu 35
3.3.2 Phương pháp thống kê, phân tích 37
3.3.4 Xây dựng hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 38
PHẦN IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 40
4.1 Thực trạng hoạt động của Agribank tỉnh Bắc Giang 40
4.1.1 Hoạt động huy động vốn 40
4.1.2 Hoạt động cho vay 42
4.1.3 Các hoạt động kinh doanh khác 43
4.2 Thực trạng nợ xấu của Agribank tỉnh Bắc Giang 45
4.2.1 Tình hình nợ xấu của ngân hàng 45
4.2.2 Nợ đã xử lý rủi ro bằng nguồn dự phòng rủi ro tín dụng 48
4.2.3 Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu 51
4.3 Thực trạng xử lý nợ xấu tại Agribank tỉnh Bắc Giang 55
4.3.1 Công tác tổ chức xử lý nợ xấu tại ngân hàng 55
4.3.2 Các biện pháp xử lý nợ xấu và kết quả đạt được 57
4.3.3 Đánh giá kết quả xử lý nợ xấu tại ngân hàng 67
4.4 Giải pháp xử lý nợ xấu tại Agribank tỉnh Bắc Giang 76
4.4.1 Định hướng hoạt động tín dụng giai đoạn 2015 - 2020 76
4.4.2 Giải pháp tăng cường xử lý nợ xấu tại Agribank tỉnh Bắc Giang 77
PHẦN V KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 88
5.1 Kết luận 88
5.2 Một số kiến nghị 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
PHIẾU ĐIỀU TRA KHẢO SÁT 95



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v



DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Số liệu mẫu điều tra ở các điểm nghiên cứu 36
Bảng 4.1: Tình hình huy động vốn của Agribank tỉnh Bắc Giang 41
Bảng 4.2: Tình hình cho vay của Agribank tỉnh Bắc Giang 42
Bảng 4.3: Kết quả kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế 43
Bảng 4.4: Thu nhập từ hoạt động dịch vụ của Agribank tỉnh Bắc Giang 44
Bảng 4.5: Nợ xấu phân theo nhóm nợ 45
Bảng 4.6: Nợ xấu phân theo loại hình khách hàng 46
Bảng 4.7: Nợ xấu phân theo ngành kinh tế 47
Bảng 4.8: Nợ xấu phân theo hình thức bảo đảm 48
Bảng 4.9: Tình hình trích lập dự phòng và xử lý rủi ro tín dụng 51
Bảng 4.10: Khảo sát nợ xấu do nhóm nguyên nhân khách quan 52
Bảng 4.11: Khảo sát nợ xấu do nguyên nhân chủ quan từ phía khách hàng 53
Bảng 4.12: Khảo sát nợ xấu do nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng 54
Bảng 4.13: Kết quả xử lý nợ xấu thông qua đôn đốc thu hồi nợ 58
Bảng 4.14: Kết quả xử lý nợ xấu thông qua xử lý tài sản bảo đảm 60
Bảng 4.15: Kết quả xử lý nợ xấu bằng biện pháp cơ cấu thời hạn trả nợ 61
Bảng 4.16: Kết quả xử lý nợ xấu thông qua khởi kiện để đòi nợ 63
Bảng 4.17: Kết quả xử lý nợ xấu thông qua miễn, giảm lãi tiền vay 64
Bảng 4.18: Kết quả xử lý nợ xấu bằng quỹ dự phòng rủi ro 66















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1: Tỷ trọng nguồn vốn huy động của Agribank tỉnh Bắc Giang 33
Biểu đồ 3.2: Tỷ trọng dư nợ của Agribank tỉnh Bắc Giang 33
Biểu đồ 3.3: Kết quả kinh doanh của Agribank tỉnh Bắc Giang 35
Biểu đồ 4.1: Diễn biến nợ xấu của Agribank tỉnh Bắc Giang 45
Biểu đồ 4.2: Diễn biến nợ đã XLRR các năm 2009 - 2013 49
Sơ đồ 4.1: Quy trình quản lý và xử lý các khoản vay có vấn đề 56
































Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Agribank Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam

AMC Công ty mua bán nợ và khai thác tài sản
BIDV Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
CBTD Cán bộ tín dụng
DPRR Dự phòng rủi ro
IPCAS Hệ thống thanh toán nội bộ và kế toán khách hàng
KT-XH Kinh tế - xã hội
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
TMCP Thương mại cổ phần
TCTD Tổ chức tín dụng
TCKT Tổ chức kinh tế
TSBĐ Tài sản bảo đảm
Vietcombank Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Vietinbank Ngân hàng Công thương Việt Nam
XHTDNB Xếp hạng tín dụng nội bộ
XLRR Xử lý rủi ro










Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1



PHẦN I
MỞ ĐẦU

1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua đã đạt
được những thành tựu to lớn, những bước tiến vượt bậc trong sự phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước, trong đó ngành ngân hàng ngày càng có vị trí quan trọng trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hoạt động ngân hàng đã góp phần ổn
định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong thực tế hoạt động
kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) nước ta, hoạt động tín dụng có
vai trò chủ yếu, nguồn thu từ hoạt động tín dụng chiếm khoảng 90% tổng thu nhập
của các NHTM. Tuy nhiên, trong thời điểm hiện nay cùng với sự tăng trưởng của tín
dụng thì nợ xấu ngân hàng cũng gia tăng mạnh đã ảnh hưởng đến tình hình tài chính
của ngân hàng, đồng thời cũng là vấn đề được xã hội quan tâm.
Hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh
tỉnh Bắc Giang đã góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế của tỉnh Bắc
Giang trong thời gian qua. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng của Chi nhánh vẫn còn
tiềm ẩn những rủi ro nhất định, thể hiện ở khía cạnh nợ xấu có xu hướng tăng dần
qua các năm, năm sau cao hơn năm trước, năm 2009 là 81 tỷ đồng, đến năm 2013
tăng lên mức 155 tỷ đồng. Do đó, xử lý nợ xấu là mục tiêu hàng đầu trong công tác
quản trị tín dụng cũng như điều hành hoạt động kinh doanh của Chi nhánh; đây là
vấn đề cần được quan tâm giải quyết, góp phần lành mạnh hoá tình hình tài chính,
đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả.
Để giải quyết có hiệu quả vấn đề nợ xấu, cần nghiên cứu tìm ra những nguyên
nhân dẫn đến nợ xấu, mới có thể đưa ra giải pháp xử lý phù hợp. Xuất phát từ những
lý do nêu trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Giải pháp xử lý nợ xấu tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh tỉnh Bắc Giang” với mong muốn
đóng góp vào công tác xử lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn chi nhánh tỉnh Bắc Giang.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2


1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng công tác xử lý nợ xấu và đề xuất các giải pháp nhằm
xử lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh tỉnh Bắc
Giang (Agribank tỉnh Bắc Giang).
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về nợ xấu ngân hàng và vấn đề xử lý nợ xấu
của các NHTM.
- Đánh giá thực trạng tình hình nợ xấu và xử lý nợ xấu tại Agribank tỉnh Bắc
Giang.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể, có tính khả thi nhằm xử lý có hiệu quả các
khoản nợ xấu tại Agribank tỉnh Bắc Giang.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn về nợ xấu và xử lý
nợ xấu tại các NHTM hiện nay.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu
+ Vấn đề nợ xấu và xử lý nợ xấu tại các NHTM.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng công tác xử lý nợ xấu tại Agribank tỉnh Bắc
Giang.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm xử lý có hiệu quả các khoản nợ xấu tại
Agribank tỉnh Bắc Giang.
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu tại Agribank tỉnh Bắc Giang.
- Phạm vi về thời gian: Việc xử lý nợ xấu tại Agribank tỉnh Bắc Giang trong
thời gian 5 năm gần đây, từ năm 2009 đến năm 2013.






Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3


PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

2.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
2.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền
kinh tế. Tùy thuộc vào tính chất và mục tiêu hoạt động cũng như sự phát triển của
nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, hệ thống ngân hàng bao gồm:
Ngân hàng nhà nước (NHNN), Ngân hàng chính sách - xã hội, Ngân hàng phát triển,
các NHTM và các loại hình ngân hàng khác. Trong đó các NHTM chiếm tỷ trọng
lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. NHTM được xem là
một trung gian tài chính có chức năng dẫn vốn từ nơi có khả năng cung ứng vốn đến
những nơi có nhu cầu sử dụng vốn nhằm tạo điều kiện cho đầu tư phát triển kinh tế -
xã hội (KT-XH).
Chúng ta có thể xem xét khái niệm về NHTM như sau:
- Theo tài liệu Tiền tệ ngân hàng (2009) do TS. Lê Thị Tuyết Hoa và PGS.TS.
Nguyễn Thị Nhung chủ biên thì NHTM là một tổ chức tín dụng chuyên kinh doanh
tiền tệ và các hoạt động ngân hàng vì mục tiêu lợi nhuận.
- Theo Luật các Tổ chức tín dụng (TCTD) do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 16/06/2010 thì: Ngân hàng là loại hình TCTD
có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này.

Trong đó TCTD được định nghĩa là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả
các hoạt động ngân hàng. TCTD bao gồm ngân hàng, TCTD phi ngân hàng, tổ chức
tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.
- Cũng theo Luật các TCTD (2010) thì: NHTM là loại hình ngân hàng được
thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo
quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận. Trong đó, hoạt động ngân hàng là
việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ là nhận tiền
gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
- Nếu xét trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4


thì NHTM là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục dịch vụ tài chính đa dạng
nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng
tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Như vậy, theo tác giả, có thể nói NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh
doanh về tiền tệ với hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu,
bảo lãnh, cung cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan. Ngoài
ra, NHTM còn là một định chế tài chính trung gian rất quan trọng trong nền kinh tế
thị trường. Nhờ vào hệ thống này mà các nguồn vốn nhàn rỗi nằm rải rác trong xã
hội được huy động và tập trung lại với số lượng đủ lớn để cung cấp tín dụng cho các
tổ chức kinh tế (TCKT) và các cá nhân nhằm mục đích phục vụ phát triển KT-XH.
Sự có mặt của NHTM trong hầu hết các hoạt động của nền KT-XH đã chứng minh
rằng: Ở đâu có một hệ thống NHTM phát triển thì ở đó sẽ có sự phát triển với tốc độ
cao của nền KT-XH và ngược lại.
2.1.2 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
2.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Ngoài nguồn vốn tự có (huy động vốn chủ sở hữu), hoạt động huy động vốn

(huy động vốn nợ) có ý nghĩa quan trọng đối với NHTM trong việc tạo lập nguồn
vốn để hoạt động kinh doanh. Hoạt động huy động vốn nợ của NHTM bao gồm:
- Huy động tiền gửi: Huy động theo hình thức này chủ yếu là tiền gửi của dân
cư và tổ chức dưới hình thức có kỳ hạn (chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền
gửi chờ thanh toán của tổ chức) và không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán của tổ chức, cá
nhân). Đây là nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn nợ
của NHTM.
- Huy động từ phát hành các công cụ nợ: Chủ yếu là phát hành kỳ phiếu và
trái phiếu. Kỳ phiếu dùng chủ yếu huy động vốn ngắn hạn. Trái phiếu phát hành để
huy động vốn trung - dài hạn. Hình thức huy động này mang tính ổn định hơn, làm
tăng khả năng huy động vốn của NHTM trong thời gian ngắn và hoàn toàn chủ động
trong sử dụng nguồn vốn.
- Huy động từ vay các NHTM: Các NHTM thực hiện việc đi vay nhằm điều
hoà vốn trong toàn hệ thống, tăng dự trữ, bảo đảm khả năng thanh khoản của NHTM.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5


Việc huy động vốn thông qua hình thức này thường đơn giản và nhanh gọn, có thể
vay trực tiếp, vay qua ngân hàng đại lý và khoản vay thường không có bảo đảm.
- Huy động từ vay Ngân hàng Trung ương: Thường là hình thức huy động
cuối cùng trong hoạt động huy động vốn của NHTM, áp dụng cho việc vay để đảm
bảo duy trì dự trữ bắt buộc hay thiếu hụt thanh toán. Hình thức huy động này thường
làm giảm uy tín của NHTM trên thị trường.
- Huy động từ nợ khác: Bao gồm huy động các khoản uỷ thác; tiền ký quỹ;
các khoản nợ thuế chưa nộp, lương chưa trả đây là hình thức huy động mang tính
thụ động và chiếm tỷ trọng không đáng kể.
2.1.2.2 Hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động cấu thành nên tài sản có và có ý nghĩa quan

trọng đối với khả năng tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Hoạt động tín dụng
mang lại thu nhập chính cho các NHTM, là hoạt động không thể thiếu làm nền tảng
nhằm thu hút các dịch vụ khác cho NHTM, nhưng ngược lại đó cũng là hoạt động
tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nếu hoạt động tín dụng không hiệu quả, sẽ gây ảnh hưởng lớn
đến tính thanh khoản, thậm chí có thể dẫn đến sự sụp đổ của NHTM. NHTM được
cấp tín dụng cho tổ chức và cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu, tái chiết
khấu, cầm cố giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo
quy định của pháp luật (Luật các Tổ chức tín dụng, 2010).
2.1.2.3 Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của NHTM, bao gồm:
- Dịch vụ cung ứng các phương tiện thanh toán;
- Dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng;
- Dịch vụ thanh toán quốc tế; kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, đá quý;
- Dịch vụ thu hộ, chi hộ các tổ chức và cá nhân;
- Các sản phẩm ngân hàng điện tử;
- Các sản phẩm khác như giữ hộ tài sản, thanh toán séc
2.1.2.4 Các hoạt động khác
- Góp vốn đầu tư, mua cổ phần của doanh nghiệp, TCTD khác từ nguồn
vốn tự có để đa dạng hoá danh mục đầu tư, hạn chế rủi ro và nâng cao hiệu quả

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6


kinh doanh.
- Tham gia thị trường tiền tệ: Thị trường đấu giá trái phiếu kho bạc, thị
trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo
quy định của NHNN.
- Hoạt động uỷ thác và đại lý liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc
quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng.

- Các hoạt động khác như cho thuê két, dịch vụ cầm đồ và các dịch vụ khác
theo quy định của pháp luật.
2.2 Một số vấn đề chung về nợ xấu ngân hàng
2.2.1 Khái niệm nợ xấu ngân hàng
Tùy theo quan điểm và mức độ đánh giá rủi ro khác nhau mà có những khái
niệm về nợ xấu khác nhau. Tuy nhiên, xét về bản chất thì nợ xấu là các khoản nợ khó
có khả năng thu hồi, thu hồi không hết hoặc không có khả năng thu hồi nợ.
2.2.1.1 Theo quan niệm của Ngân hàng Trung ương Châu Âu
- Nợ xấu là nợ không được thanh toán đầy đủ cho ngân hàng, bao gồm:
+ Những khoản nợ người vay khó có thể trả nợ và yêu cầu điều chỉnh lại lịch
trả nợ nhưng không thanh toán được trong khoảng thời gian đã được điều chỉnh.
+ Những khoản nợ mà giá trị tài sản bảo đảm (TSBĐ) không đủ để trả nợ
hoặc không được chấp thuận về mặt pháp lý dẫn đến người vay không thể trả nợ
ngân hàng đầy đủ.
+ Những khoản nợ mà tòa án tuyên bố người vay phá sản và phần bồi hoàn
cho ngân hàng ít hơn số nợ phải thanh toán.
- Nợ xấu là những khoản nợ không thể thu hồi được, bao gồm:
+ Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có đủ căn cứ
để thanh toán từ người vay.
+ Người vay bỏ trốn hoặc mất tích, không có tài sản giữ lại để thanh toán nợ.
+ Những khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được với người vay hoặc
không thể tìm được người vay.
+ Những khoản nợ mà người vay chấm dứt hoạt động kinh doanh, hoặc thanh
lý tài sản, hoặc kinh doanh thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7


Theo quan điểm của Ngân hàng Trung ương Châu Âu, khái niệm nợ xấu được

hiểu qua hai yếu tố: (1) khoản vay có thể thu hồi được nhưng giá trị thu hồi là không
đầy đủ và (2) khoản vay không có khả năng thu hồi được. Như vậy, quan điểm về nợ
xấu được tiếp cận dựa trên kết quả thu hồi nợ của ngân hàng.
2.2.1.2 Quan niệm nợ xấu của Phòng Thống kê - Liên Hợp Quốc
Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống kê - Liên Hợp Quốc: “về cơ bản
một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc
các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm
trả theo thỏa thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng
có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”.
Như vậy, nợ xấu về cơ bản được xác định dựa trên 2 yếu tố: (1) quá hạn trên
90 ngày và (2) khả năng trả nợ nghi ngờ. Quan niệm này vừa mang tính định tính
vừa mang tính định lượng và được áp dụng khá phổ biến trên thế giới.
2.2.1.3 Quan niệm nợ xấu của Việt Nam
Kể từ sau khi Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống
đốc NHNN Việt Nam được ban hành, Việt Nam mới thực sự đề cập đến khái niệm
về nợ xấu. Mặc dù đã dần tiếp cận với những chuẩn mực quốc tế, đề cập đến việc
đánh giá các khoản nợ trên cả khía cạnh định lượng và định tính, tuy nhiên vẫn có
những sự khác biệt nhất định.
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, nợ xấu được định nghĩa như sau:
“Nợ xấu (NPL) là các khoản nợ thuộc nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4
(nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) quy định tại Điều 6 và Điều 7
Quy định này”. Theo đó, nợ xấu cũng được xác định dựa trên yếu tố định lượng (quá
hạn trên 90 ngày) và yếu tố định tính (đánh giá của TCTD về khả năng trả nợ của
khách hàng).
Như vậy, quan niệm về nợ xấu giữa các quốc gia và theo thông lệ quốc tế đều
căn cứ trên hai yếu tố là định tính và định lượng. Tuy nhiên, các quan niệm này mới
chỉ dừng lại ở việc đánh giá khoản vay thông thường trên cơ sở khả năng trả nợ hiện
thời của khách hàng vay, mà không đề cập đến những khoản vay đã được xử lý bằng
quỹ dự phòng của TCTD. Những khoản nợ đã được xử lý bằng quỹ dự phòng của


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8


TCTD về bản chất cũng như quy định của pháp luật thì vẫn cần được theo dõi, quản
lý và thu hồi.
Vì vậy, theo quan niệm của tác giả: “Nợ xấu là những khoản nợ phát sinh từ
hoạt động cho vay, không được thanh toán đầy đủ cho ngân hàng hoặc được đánh
giá là không có khả năng thu hồi, bao gồm cả các khoản nợ xấu thông thường đang
hạch toán nội bảng cân đối kế toán (nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 theo Điều 7 Quyết
định 493/2005/QĐ-NHNN) và các khoản nợ đã xử lý bằng quỹ dự phòng của ngân
hàng được theo dõi tại ngoại bảng”.
2.2.2 Bản chất của nợ xấu ngân hàng
Tổ chức hay cá nhân người đi vay (khách hàng vay) phải có trách nhiệm hoàn
trả đầy đủ khoản nợ gốc và lãi cho ngân hàng khi đến thời điểm thanh toán là hành
động hoàn tất mối quan hệ tín dụng hoàn hảo giữa ngân hàng và khách hàng vay.
Như vậy, nợ xấu trong hoạt động tín dụng NHTM là hiện tượng phát sinh từ mối
quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi khách hàng vay không thực hiện được nghĩa vụ
trả nợ của mình cho ngân hàng đúng hạn.
Nợ xấu được xem như một dấu hiệu của vấn đề rủi ro tiềm ẩn, để xác định
bản chất vấn đề phải tìm hiểu được nguyên nhân của khoản nợ đó. Nếu khoản nợ xấu
là một biểu hiện của việc khách hàng không muốn hoặc không có khả năng hoàn trả
thì có thể khoản vay đã có vấn đề nghiêm trọng và có nguy cơ không cứu vãn được.
Nếu khoản nợ xấu chỉ hình thành do việc tiêu thụ hàng hóa hoặc thu hồi các khoản
phải thu chậm hơn dự tính hoặc do việc chậm trễ không tính trước được trong việc
chuyển từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ trên thị trường, thì vấn đề chưa đến mức
nghiêm trọng.
Bản chất của nợ xấu gắn liền với bản chất của mối quan hệ tín dụng, đây là mối
quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có quan hệ với nhau
thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và

hàng hóa từ người cho vay chuyển sang người đi vay và sau một thời gian nhất định
quay về với người cho vay với giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Do đó, tín dụng
được tạo nên từ 3 yếu tố chính là: lòng tin, thời hạn của quan hệ tín dụng và sự hứa hẹn
hoàn trả. Người ta chỉ cho vay khi người ta tin rằng việc sử dụng giá trị đó sẽ thu được

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9


lượng giá trị lớn hơn, có tính hiệu quả hơn sau một thời gian nhất định.
Như vậy, có thể thấy bản chất nợ xấu là kết quả của mối quan hệ tín dụng
không hoàn hảo, trước hết vì nó vi phạm đặc trưng cơ bản của tín dụng là tính thời
hạn, sau nữa nó vi phạm đến đặc trưng thứ hai là tính hoàn trả đầy đủ, gây nên sự đổ
vỡ lòng tin của người cung cấp tín dụng đối với khách hàng nhận tín dụng.
2.2.3 Phân loại nợ xấu ngân hàng
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc
NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong
hoạt động ngân hàng của các TCTD và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày
25/4/2007 về việc sửa đổi, bổ sung quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN thì nợ xấu
được xác định dựa trên cả yếu tố thời hạn nợ và khả năng thu hồi nợ. Cụ thể:
Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày.
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng
trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng (HĐTD).
Nợ xấu thuộc nhóm này được coi là các khoản nợ xấu có khả năng thu hồi cao
nhất. Ngân hàng sẽ trích lập một tỷ lệ dự phòng rủi ro (DPRR) cho nợ xấu nhóm này
là 20% tính trên số dư nợ của nhóm.
Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.

Nợ xấu thuộc nhóm này được đánh giá là có khả năng thu hồi thấp hơn so với
các khoản nợ thuộc nhóm 3. Các khoản nợ này được xếp vào những khoản nợ mà
ngân hàng có sự nghi ngờ về khả năng trả nợ. Tỷ lệ trích lập DPRR cho nợ xấu thuộc
nhóm này là 50% tổng dư nợ của nhóm.
Nợ nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần hai.
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10


Khả năng thu hồi nợ của nhóm này được coi như bằng 0, do vậy tỷ lệ trích lập
DPRR tương ứng là 100% tổng dư nợ của nhóm.
Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý, được trích lập dự
phòng cụ thể theo khả năng tài chính của TCTD.
2.2.4 Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của ngân hàng
- Tổng số nợ xấu: Đây là chỉ tiêu phản ánh giá trị tuyệt đối của toàn bộ các
khoản nợ xấu của ngân hàng. Chỉ tiêu này cho thấy chất lượng tín dụng của ngân
hàng tốt hay xấu, tuy nhiên nó chưa phản ánh một cách chính xác mức độ rủi ro của
ngân hàng do không thể hiện được con số nợ xấu không có khả năng thu hồi.
- Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu/tổng dư nợ cho vay: Chỉ tiêu này phản
ánh mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cho biết với 100 đơn vị tiền tệ khi ngân
hàng cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà ngân hàng xác định khó có khả năng
thu hồi hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định. Tỷ lệ này càng cao
thì khả năng rủi ro càng cao, nếu như tỷ lệ này lớn hơn 7% thì ngân hàng bị coi là có
chất lượng tín dụng yếu kém, còn nếu nhỏ hơn 5% thì được đánh giá là có chất lượng
tín dụng tốt, các khoản cho vay an toàn. Tuy nhiên các con số được sử dụng để tính

chỉ số này chỉ mang tính thời điểm.
- Tỷ lệ nợ khó đòi/tổng dư nợ và nợ khó đòi/nợ xấu: Các chỉ số này phản ánh
chỉ tiêu tương đối của nợ khó đòi - một thành phần quan trọng của nợ xấu. Đây là
những chỉ tiêu phản ánh khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân
hàng. Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng càng cao. Cụ thể,
với hai ngân hàng có cùng số nợ xấu thì ngân hàng nào có tỷ lệ nợ khó đòi/nợ xấu
cao hơn sẽ có nguy cơ mất vốn cao hơn.
- Tỷ lệ quỹ DPRR/ nợ xấu: Tỷ lệ này cho biết quỹ DPRR có khả năng bù đắp
bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành các khoản nợ mất vốn. Nếu
tỷ lệ này cao, có nghĩa là khả năng quỹ DPRR đủ bù đắp các thiệt hại có thể xảy ra
trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng và ngược lại.
Theo hệ thống PEARLS của Hiệp hội tín dụng thế giới về đánh giá tình hình
tài chính của ngân hàng thì một ngân hàng được coi là hoạt động với độ an toàn cao

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11


nếu ngân hàng đó phân bổ đủ dự phòng cho 100% nợ quá hạn trên 12 tháng và cho
35% nợ quá hạn từ 1 - 12 tháng.
Ngoài ra, tuỳ theo tình hình cụ thể của mỗi ngân hàng hoặc quốc gia trong
từng thời kỳ mà có thể có thêm các chỉ tiêu khác để đánh giá, so sánh thực trạng nợ
xấu nhằm xây dựng các biện pháp xử lý phù hợp.
2.2.5 Nguyên nhân phát sinh nợ xấu ngân hàng
Phân tích nguyên nhân nợ xấu là một trong những nội dung quan trọng cần
phải thực hiện, để từ đó đưa ra được chiến lược quản lý cũng như giải pháp xử lý phù
hợp, khả thi và có hiệu quả.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian, do vậy
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: môi trường pháp lý, môi trường kinh tế cũng như
điều kiện tự nhiên, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, đạo đức khách

hàng và cả những yếu tố thuộc về chính bản thân ngân hàng.
2.2.5.1 Nhóm nguyên nhân khách quan
- Điều kiện tự nhiên
Thiên tai, hoả hoạn, bão lụt, mất mùa, dịch bệnh là những nguyên nhân
khách quan ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay, nhất
là các khoản cho vay nông nghiệp, dẫn đến nợ xấu phát sinh. Nguyên nhân này nằm
ngoài tầm kiểm soát và mong muốn của cả NHTM và khách hàng vay. Đây là
nguyên nhân gây ra rủi ro bất khả kháng, những mất mát do nguyên nhân này gây ra
cần được sự chia sẻ của nhà nước và toàn xã hội.
- Môi trường kinh tế xã hội
Môi trường kinh tế chưa thực sự phát triển, cạnh tranh trên thị trường thiếu
bình đẳng, tốc độ cũng như trình độ phát triển kinh tế không đồng đều cũng sẽ ảnh
hưởng đến các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp có tiềm lực tài chính chưa đủ mạnh.
Mặt khác, với sự thay đổi liên tục trong các chính sách kinh tế vĩ mô như sự thay đổi
về cơ chế lãi suất, tỷ giá, chính sách xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng, thay đổi quy
hoạch xây dựng hạ tầng, thay đổi cơ chế tài chính, cơ chế sử dụng đất đai cũng ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, khiến các đối
tượng này rơi vào thế bị động.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12


Chúng ta có thể lấy ví dụ về sự thay đổi lãi suất, với mặt bằng lãi suất có xu
hướng tăng nhanh, sẽ làm gia tăng các khoản nợ xấu. Điều này có thể được giải thích
dễ dàng, vì những doanh nghiệp mạnh sẽ không chấp nhận mức lãi suất quá cao, họ
có khả năng tìm đến những nguồn vốn khác thông qua thị trường chứng khoán. Nghi
vấn đặt ra đối với những doanh nghiệp dám chấp nhận mức lãi suất cao. Phần lớn sự
chấp nhận đó xuất phát từ sự thiếu vốn trầm trọng, năng lực tài chính hạn chế, độ tín
nhiệm thấp nên không tiếp cận được những nguồn vốn khác. Và tất nhiên, nguy cơ

nợ xấu tăng lên từ nhóm đối tượng này.
- Môi trường pháp lý
Hệ thống luật pháp là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động tài chính ngân
hàng. Một hệ thống luật hoàn chỉnh là yêu cầu quan trọng cho sự phát triển của hoạt
động ngân hàng. Sự thiếu chặt chẽ, hoàn chỉnh của môi trường pháp luật tác động
xấu tới hoạt động ngân hàng nói chung và nợ xấu ngân hàng nói riêng. Kẽ hở của hệ
thống văn bản pháp luật tạo điều kiện cho khách hàng lừa đảo, chiếm dụng vốn ngân
hàng, chây ỳ không chịu trả nợ hoặc gây khó khăn cho quá trình xử lý nợ của ngân
hàng. Hệ thống pháp luật hay thay đổi, kém minh bạch, hiệu lực thực thi yếu cũng có
thể làm cho hệ thống ngân hàng trở nên kém lành mạnh, trong đó thường là tỷ lệ nợ
xấu cao, tồn đọng lâu trong các ngân hàng. Hệ thống pháp luật vừa thiếu, vừa yếu
chính là rào cản lớn nhất đối với ngân hàng trong việc xử lý nợ tồn đọng và làm gia
tăng nợ xấu. Sự bất cập, chồng chéo của các luật khiến cơ quan hữu quan lúng túng
trong việc xử lý tranh chấp về TSBĐ, các quy định về kế toán kiểm toán chưa đủ sức
mạnh thực hiện khiến số liệu không đủ cơ sở tin cậy để thẩm định cho vay.
- Những yếu kém trong hoạt động kinh doanh của khách hàng
Năng lực tài chính của doanh nghiệp không cao, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả kinh doanh. Mặt khác khách hàng yếu kém trong quản lý và tổ chức sản xuất
kinh doanh, đặc biệt là quản lý tài chính, không có khả năng tính toán kỹ lưỡng
những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn
trong kinh doanh sẽ dẫn tới sử dụng vốn vay không hiệu quả. Ngoài ra, việc yếu kém
trong quản lý tài chính có thể dẫn tới trường hợp quá trình sản xuất kinh doanh có

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13


hiệu quả, nhưng vẫn thất thoát vốn, dẫn đến nguồn trả nợ không bảo đảm, doanh
nghiệp không có khả năng hoàn trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn cho ngân hàng.
- Một số vấn đề liên quan đến đạo đức khách hàng

Một số doanh nghiệp cố tình cung cấp số liệu tài chính không chính xác cho
ngân hàng, gây sai lệch về kết quả thẩm định và quyết định cấp tín dụng, dẫn đến
khó khăn trong việc thu hồi nợ vay. Một số doanh nghiệp thiếu ý thức trong vấn đề
sử dụng vốn vay và trả nợ ngân hàng, kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho
ngân hàng đúng hạn, có tư tưởng sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt, hoặc lợi dụng
kẽ hở của pháp luật để tính toán, móc ngoặc, lừa đảo ngân hàng, sử dụng vốn sai mục
đích để kiếm lời, vay nhưng không có thiện chí trả nợ.
2.2.5.2 Nhóm nguyên nhân chủ quan
Đây là những nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân các ngân hàng. Có thể
do một chính sách tín dụng kém hiệu quả, sự lỏng lẻo trong công tác kiểm tra, giám
sát hay các vấn đề liên quan đến chất lượng nguồn nhân lực ngân hàng.
- Chính sách tín dụng
Một chính sách tín dụng không đầy đủ, không đồng bộ và thống nhất sẽ dẫn
tới việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cho ngân hàng.
Mặt khác, để thu hút khách hàng và chiếm lĩnh thị phần, nhiều NHTM đã bỏ qua một
số bước trong quy trình tín dụng, cơ chế cho vay được đơn giản hoá, tự ý hạ thấp tiêu
chuẩn đánh giá khách hàng. Bài học khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 xuất phát
từ thị trường tài chính Hoa Kỳ có nguồn gốc sâu xa chính là những món cho vay
dưới chuẩn. Đây là những khoản cho vay chất lượng thấp với mức rủi ro cao. Các
khoản cho vay này không được xem xét kỹ lưỡng về khả năng thanh toán của khách
hàng như: thu nhập hàng năm, tiểu sử nghề nghiệp, tài sản và thường được bảo
đảm bởi rất ít hoặc không có giấy tờ chứng minh khả năng tài chính của người đi
vay. Mặc dù các khoản cho vay này chỉ chiếm 16% tổng số món cho vay thế chấp
nhưng nó lại chiếm tới hơn 50% các khoản vỡ nợ tại Hoa Kỳ.
- Công tác kiểm tra, kiểm soát
Nhiệm vụ của công tác kiểm tra, kiểm soát là phát hiện sớm những sai phạm
trong hoạt động cho vay để ngăn ngừa rủi ro. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, kiểm soát

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14



của các NHTM nếu quá yếu kém và mang tính hình thức sẽ dẫn đến việc không phát
hiện, xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm, lợi dụng trong hoạt động cho vay và
nợ xấu phát sinh là điều tất yếu. Bên cạnh đó việc kiểm soát, theo dõi danh mục
khoản vay không được thực thi một cách có hiệu quả; buông lỏng việc kiểm tra,
giám sát tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của khách hàng, không
kiểm soát hoặc kiểm soát thiếu chặt chẽ mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng
sẽ dẫn đến khả năng phát sinh nợ xấu trong tương lai.
- Chất lượng cán bộ và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng
Cán bộ tín dụng (CBTD) là người trực tiếp giao dịch với khách hàng, nắm bắt
đặc điểm cũng như chất lượng khách hàng, chất lượng khoản vay. Điều này đòi hỏi
CBTD phải có kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm làm việc cũng như khả năng
phân tích, dự báo Một bộ phận CBTD trình độ yếu kém, không đánh giá được hết
các khả năng rủi ro liên quan đến khoản vay, sẽ dẫn đến quyết định cho vay sai lầm
là nguy cơ phát sinh nợ xấu. Một bộ phận CBTD sa sút về phẩm chất, đạo đức nghề
nghiệp, lợi dụng nhiệm vụ chuyên môn được giao để móc ngoặc với khách hàng, lợi
dụng kẽ hở của luật pháp để làm lợi bất chính cho bản thân, gây thiệt hại về tài sản
và tiền vốn cho ngân hàng. Đây là rủi ro về đạo đức của cán bộ ngân hàng.
Ngoài ra, năng lực lãnh đạo, điều hành của tập thể lãnh đạo không tốt như:
buông lỏng quản lý, khoán trắng công việc cho CBTD; một số cán bộ năng lực hạn
chế dẫn đến những sai lầm trong các quyết định cho vay, hậu quả là chất lượng tín
dụng yếu kém kéo dài; vấn đề rủi ro cũng xảy ra khi lãnh đạo ngân hàng có quan hệ
lợi ích với khách hàng.
2.2.6 Tác động của nợ xấu
2.2.6.1 Tác động của nợ xấu đối với hoạt động của NHTM
Nợ xấu là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo, bởi nó vi phạm
đặc trưng cơ bản của tín dụng là tính thời hạn và tính hoàn trả không đầy đủ, gây nên
sự đổ vỡ lòng tin. Tỷ lệ nợ xấu cao sẽ gây nên những hậu quả vô cùng nghiêm trọng
đối với nền kinh tế và chính bản thân ngân hàng.

a. Nợ xấu ảnh hưởng tới nguồn vốn của ngân hàng
Nợ xấu làm cho nguồn vốn của NHTM bị đóng băng, có thể mất vốn. Các

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15


khoản nợ xấu phát sinh, dẫn đến ngân hàng không thu được gốc và lãi đúng hạn,
vòng quay vốn tín dụng chậm, giảm tốc độ chu chuyển vốn làm giảm hiệu quả sử
dụng vốn, thậm chí mất vốn, giảm doanh thu và lợi nhuận của ngân hàng. Nếu các
khoản nợ xấu vượt quá khả năng bù đắp của ngân hàng sẽ dẫn đến phá sản ngân hàng
và kéo theo sự sụp đổ dây chuyền của cả hệ thống ngân hàng trong nước.
b. Nợ xấu ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng là nhận tiền gửi và cho vay. Nếu các khoản
tín dụng gặp rủi ro thì việc thu hồi nợ vay sẽ gặp nhiều khó khăn, không thu hồi được
hoặc thu hồi không đầy đủ nợ gốc và lãi đã cho vay. Trong khi đó, ngân hàng vẫn
phải thanh toán đầy đủ, đúng hạn đối với các khoản tiền gửi và huy động. Sự mất cân
đối trên đến một mức nào đó tất yếu sẽ dẫn tới ngân hàng mất khả năng thanh toán
các khoản đến hạn thanh toán. Như vậy, nợ xấu làm giảm khả năng thanh toán của
ngân hàng.
c. Nợ xấu làm giảm uy tín của ngân hàng
Một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao tức là mức độ rủi ro của các tài sản có cao,
ngân hàng đó thường đứng trước nguy cơ đánh mất uy tín của mình trên thị trường.
Không một khách hàng nào muốn gửi tiền vào một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn, nợ
xấu vượt mức cho phép, có chất lượng tín dụng không tốt và gây ra nhiều vụ thất
thoát lớn. Thông tin về việc một ngân hàng có mức độ rủi ro cao, khả năng thanh
toán suy giảm thường được báo chí đưa tin và lan truyền trong dân chúng rất nhanh,
điều này sẽ khiến cho việc huy động vốn của ngân hàng gặp nhiều khó khăn và ảnh
hưởng dây chuyền là tất yếu.
d. Nợ xấu làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.

Nợ xấu làm cho doanh thu thấp (do không thu được lãi vay), dẫn đến lợi
nhuận thu được thấp (nằm ngoài dự kiến), thậm chí là lỗ. Hơn nữa, khi phát sinh nợ
xấu, ngân hàng phải thực hiện trích lập đủ DPRR theo quy định. Như vậy, khi nợ xấu
tăng cao, thu nhập của ngân hàng bị suy giảm do phải tăng số tiền trích lập DPRR
cho các khoản nợ xấu, khiến cho lợi nhuận còn lại của ngân hàng càng bị suy giảm,
thậm chí không còn lợi nhuận.
Chi phí phát sinh do nợ xấu tăng lên là rất lớn: chi trả lãi tiền gửi (vì không

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 16


thu hồi được nợ để thanh toán); chi phí quản lý, xử lý nợ xấu và các chi phí khác liên
quan. Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng, giảm uy tín, đồng thời
ảnh hưởng đến các lĩnh vực kinh doanh khác.
e. Nợ xấu có thể là nguyên nhân làm phá sản ngân hàng
Với một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng cao, kéo dài và không có biện pháp
xử lý triệt để, tất yếu dẫn đến lợi nhuận giảm, khả năng thanh toán bị suy giảm, mất
dần uy tín trên thị trường, các khách hàng không còn tin tưởng vào ngân hàng đó và
đổ xô đến ngân hàng để rút tiền gửi. Khi đó, với khả năng thanh toán thấp, ngân hàng
không đáp ứng được nhu cầu rút tiền của khách hàng và dễ dàng đi đến phá sản.
f. Nợ xấu làm giảm khả năng hội nhập
Trong nền kinh tế hội nhập quốc tế như hiện nay, các NHTM đang đứng trước
những cơ hội và thách thức khi hội nhập quốc tế. Yêu cầu đòi hỏi đầu tiên khi tham
gia hội nhập quốc tế là tính minh bạch trong thông tin công bố và hiệu quả hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, với tỷ lệ nợ xấu cao, vượt quá chuẩn mực cho
phép, các ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc chiếm lòng tin của khách hàng, bạn
hàng trong nước cũng như quốc tế và tự mình đánh mất cơ hội tham gia thị trường tài
chính tiền tệ quốc tế.
2.2.6.2 Tác động của nợ xấu đối với nền kinh tế

Nợ xấu không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của chính NHTM mà
còn có tác động rất lớn tới nền kinh tế. Nợ xấu tác động đến nền kinh tế chủ yếu
thông qua mối quan hệ gián tiếp: ngân hàng - khách hàng - nền kinh tế. Có thể liệt kê
ra một số tác động xấu của nợ xấu đến nền kinh tế như sau:
Thứ nhất, làm chậm quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của các TCTD,
giảm vòng quay vốn, giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận của các doanh
nghiệp và ngân hàng, từ đó kìm hãm sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế.
Thứ hai, chi phí phát sinh do nợ xấu gây ra là rất lớn bao gồm: chi trả lãi tiền
gửi, chi phí quản lý, xử lý nợ xấu và các chi phí liên quan. Những chi phí này làm
giảm đáng kể, thậm chí gây lỗ cho các ngân hàng khi hạch toán kết quả kinh doanh,
dẫn đến nguồn thu của ngân sách nhà nước bị suy giảm.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 17


Thứ ba, nợ xấu hạn chế khả năng mở rộng và tăng trưởng tín dụng, hạn chế
khả năng kinh doanh của TCTD. Nợ xấu tác động trực tiếp đến khả năng tài chính
của TCTD, giảm khả năng cạnh tranh, chậm phát triển và hội nhập.
Nợ xấu phát sinh do khách hàng, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu
quả sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế do vốn ứ đọng, sản xuất kinh doanh đình trệ.
2.3 Xử lý nợ xấu trong hoạt động của ngân hàng
2.3.1 Khái niệm về xử lý nợ xấu
Xử lý nợ xấu là những hoạt động của ngân hàng được triển khai khi nợ xấu đã
phát sinh nhằm giảm thiểu những tổn thất do nợ xấu gây ra bằng các công cụ phổ
biến như: đòi nợ; tái cơ cấu các khoản nợ; bán nợ; phong tỏa tài sản của người vay,
thanh lý tài sản thế chấp, gán nợ, xiết nợ; yêu cầu bồi thường từ những người có trách
nhiệm liên đới; sử dụng công cụ pháp lý để đòi nợ hoặc xử lý từ quỹ DPRR tín dụng
và các biện pháp tài trợ rủi ro tín dụng khác.

2.3.2 Nội dung xử lý nợ xấu
Trên cơ sở xác định được nợ xấu, chính sách nợ xấu, việc xử lý nợ xấu cần
được lập kế hoạch và triển khai đảm bảo hiệu quả về mặt thời gian và chi phí.
- Đôn đốc thu hồi nợ: Các NHTM cần tiến hành phân tích, phân loại các
khoản nợ xấu để từ đó đề ra biện pháp đôn đốc thu hồi, xử lý phù hợp với từng khoản
vay. Các biện pháp đôn đốc thu hồi chỉ nên thực hiện trong một thời gian nhất định,
đồng thời cần vận dụng kết hợp với một số biện pháp khác.
- Tái cơ cấu các khoản nợ, tái cấu trúc doanh nghiệp: Biện pháp này được áp
dụng đối với những khoản nợ có khả năng thu hồi. Sau khi thương lượng với khách
hàng về giải pháp thực thi cũng như nội dung cam kết của khách hàng, ngân hàng có
thể áp dụng các phương pháp như gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, cấp thêm vốn
cho khách hàng nếu việc cấp thêm vốn giúp khách hàng vượt qua giai đoạn khó khăn
và chắc chắn có hiệu quả, chứng khoán hóa các khoản nợ.
- Xử lý tài sản bảo đảm, yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh:
Khi các khoản nợ xấu không thể cơ cấu, khách hàng trây ỳ không thanh toán hoặc
không có khả năng thanh toán nợ thì ngân hàng sẽ tiến hành các biện pháp xử lý tài

×