Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Đánh giá hiệu quả và đề xuất giải pháp sau dồn điền đổi thửa phục vụ hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp ở huyện hải hậu tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.7 MB, 93 trang )





BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM






TRẦN HUY THÀNH







ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP SAU DỒN
ĐIỀN ĐỔI THỬA PHỤC VỤ HIỆN ĐẠI HÓA SẢN XUẤT
NÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN HẢI HẬU TỈNH NAM ĐỊNH





CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
MÃ SỐ: 60 85 01 03







NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN TOÀN






HÀ NỘI, NĂM 2014

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ
một học vị nào;
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn



Trần Huy Thành














Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Khoa Quản lý đất đai, Học
viện Nông nghiệp Việt Nam đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giảng dạy,
hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Văn Toàn, là người
trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Văn phòng UBND tỉnh Nam Định, Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh Nam Định, UBND huyện Hải Hậu, Phòng Tài nguyên và Môi
trường và phòng Nông nghiệp phát triển nông thôn huyện Hải Hậu và UBND xã
Hải Hưng, Hải Thanh, Hải Cường đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và cung cấp đầy

đủ các thông tin, số liệu trong quá trình nghiên cứu luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin trân trọng cảm ơn các bạn học viên cùng lớp, những người
thân trong gia đình, bạn bè đã giúp đỡ và động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu để hoàn thành luận văn này.
Với lòng biết ơn, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ qúy báu đó!

Hà nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn


Trần Huy Thành
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT viii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài: 1
2. Mục đích nghiên cứu: 2
3. Yêu cầu của đề tài: 2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Một số khái niệm liên quan đến nội dung nghiên cứu: 3
1.1.1. Khái niệm về dồn điền đổi thửa: 3
1.1.2 . Hạn điền và tích tụ ruộng đất 6
1.1.3. Khái niệm về hiện đại hóa: 7

1.1.4. Quy hoạch thiết kế đồng ruộng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nông
nghiệp tại khu vực đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH): 8
1.2. Vấn đề sử dụng đất nông nghiệp ở trong và ngoài nước 8
1.2.1. Vấn đề sử dụng đất nông nghiệp ở nước ngoài 8
1.2.2. Vấn đề sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam: 12
1.2.3. Tình hình nghiên cứu hiệu quả dồn điền đổi thửa ở tỉnh Nam Định: 22
1.3. Hiệu quả sử dụng đất: 24
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp: 28
1.4.1. Yếu tố về điều kiện tự nhiên: 28
1.4.2. Yếu tố về kinh tế - xã hội: 30
1.4.3. Yếu tố về tổ chức cơ sở vật chất, kỹ thuật: 31
1.5. Nhận xét rút ra từ tổng quan: 32
CHƯƠNG 2 : NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 33
2.1. Đối tượng nghiên cứu: 33
2.2. Phạm vi nghiên cứu: 33
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

2.3. Nội dung nghiên cứu: 34
2.3.1. Nghiên cứu đánh giá một số điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của
huyện Hải Hậu liên quan đến sử dụng đất: 34
2.3.2. Hiện trạng sử dụng đất và kết quả thực hiện dồn điền đổi thửa của
huyện Hải Hậu. 34
2.3.3. Đánh giá những tác động của dồn điền đổi thửa đến sản xuất nông
nghiệp tại 3 xã nghiên cứu. 34
2.3.4. Đánh giá những vấn đề phát sinh sau dồn điền đổi thửa trong mối
quan hệ với hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp: 35
2.3.5. Đề xuất một số giải pháp sau dồn điền đổi thửa phục vụ hiện đại hóa
sản xuất nông nghiệp. 35
2.4. Phương pháp nghiên cứu: 35

2.4.1. Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: 35
2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp dựa vào bảng hỏi: 36
2.4.3. Phương pháp thống kê so sánh: 36
2.4.4. Phương pháp điền dã: 37
2.4.5. Phương pháp xác định hiệu quả sử dụng đất: 37
2.4.6. Phương pháp khác: 38
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 40
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Huyện Hải Hậu: 40
3.1.1. Điều kiện tự nhiên: 40
3.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội: 44
3.1.3. Dân số, lao động, việc làm và thu nhập: 48
3.1.4. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội: 49
3.2. Hiện trạng sử dụng đất và kết quả thực hiện dồn điền đổi thửa trên địa
bàn huyện Hải Hậu: 51
3.2.1. Hiện trạng sử dụng đất năm 2013 của huyện Hải Hậu: 51
3.2.2. Kết quả thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa tại huyện Hải Hậu: 55
3.3. Đánh giá những tác động của dồn điền đổi thửa đến sản xuất nông
nghiệp tại 3 xã nghiên cứu: 56
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

3.3.1. Tác động của DĐĐT đến xu hướng hình thành vùng sản xuất chuyên
canh hàng hóa 56
3.3.2. Tác động của DĐĐT đối với việc quản lý quỹ đất công ích đúng luật
và có hiệu quả hơn 58
3.3.3. Tác động của DĐĐT đối với khả năng áp dụng cơ giới hóa vào nông
nghiệp 59
3.3.4. Tác động của dồn điền đổi thửa đến hiệu quả sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp: 63
3.3.5. Tác động của dồn điền đổi thửa đến sự phát triển các mô hình kinh tế

trang trại: 65
3.4. Đánh giá những vấn đề phát sinh sau dồn điền đổi thửa trong mối
quan hệ với hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp: 67
3.4.1. Vấn đề lao động việc làm: 67
3.4.2. Nhu cầu hình thành vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa lớn, nhu cầu
liên kết mới trong sản xuất: 67
3.4.3. Nhu cầu tích tụ đất đai : 70
3.4.4. Công tác quản lý nhà nước về đất đai: 70
3.5. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất theo
hướng hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp sau khi thực hiện dồn điền
đổi thửa: 71
3.5.1. Giải pháp về tổ chức sản xuất: 71
3.5.2. Giải pháp về vốn đầu tư: 73
3.5.3. Giải pháp về chuyển dịch lao động nông nghiệp: 75
3.5.4. Giải pháp về hoàn thiện hồ sơ địa chính: 76
3.5.5. Giải pháp về thúc đẩy thị trường đất nông nghiệp: 79
KẾT VÀ KIẾN NGHỊ
80

1. Kết luận: 80
2. Đề nghị: 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO 82

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu dân số, nguồn nhân lực 48

Bảng 3.2 : So sánh thu nhập bình quân đầu người 49
Bảng 3.3.: Diện tích, cơ cấu đất đai của huyện Hải Hậu năm 2013 52
Bảng 3.4 : Diện tích, cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp của huyện năm 2013 53
Bảng 3.5: Diện tích, cơ cấu sử dụng đất phi nông nghiệp của huyện năm 2013 54
Bảng 3.6: Kết quả thực hiện DĐĐT ở huyện Hải Hậu 55
Bảng 3.7: Kết quả thực hiện DĐĐT ở 3 xã nghiên cứu 57
Bảng 3.8: Diện tích đất công ích trước và sau dồn điền đổi thửa tại các xã
nghiên cứu đại diện 59
Bảng 3.9: Quan hệ chiều rộng máy nông nghiệp với giao thông tại các xã
nghiên cứu 60
Bảng 3.10: So sánh diện tích mặt ruộng tối ưu để vận hành một số loại máy
nông nghiệp hiện đại và mặt ruộng tại các xã nghiên cứu đại diện. 61
Bảng 3.11: Hiệu quả kinh tế sử dụng đất trên một héc ta đất nông nghiệp tại
các xã nghiên cứu đại diện 64




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Đồng đất của các xã nghiên cứu 34
Hình
3.1: Cơ cấu sử dụng các loại đất huyện Hải Hậu năm 2013
52

Hình 3.2: Đào đắp giao thông, thuỷ lợi nội đồng và cứng hóa sau khi đào đắp 60
Hình 3.3: Áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp tại Nam Định 62
Hình 3.4: Mô hình cánh đồng mẫu lớn tại Nam Định 68

Hình 3.5: Phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu đất đai tại Nam Định 78
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Ký hiệu Chú giải
BCĐ : Ban chỉ đạo
BCH : Ban chấp hành
CHN : Cây hàng năm
CN, TTCN : Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hoá
DĐĐT : Dồn điền đổi thửa
DT : Diện tích
ĐBSH : Đồng bằng sông Hồng
GCNQSDĐ : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
GO : Giá trị sản xuất
HTX
HTXNN DV
: Hợp tác xã
: Hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ
IC : Chi phí trung gian
KTCTTL : Khai thác công trình thủy lợi
MI : Thu nhập hỗn hợp
NN : Nông nghiệp
NTTS : Nuôi trồng thuỷ sản
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
UBND : Uỷ ban nhân dân
SXNN : Sản xuất nông nghiệp
VA : Giá trị gia tăng

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đất đai là tài sản, là nguồn lực vô cùng quý giá của mỗi quốc gia. Trong
sản xuất đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không có gì thay thế được. Đối với
Việt Nam, là quốc gia đất chật, người đông, đời sống của đại bộ phận nhân dân
dựa vào sản xuất nông nghiệp (SXNN). Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH, HĐH) chúng ta phải giành đất SXNN cho công nghiệp, thương mại,
dịch vụ phát triển. Do đó quỹ đất SXNN sẽ ngày càng bị thu hẹp, điều này trên
thực tế đã và đang diễn ra trên phạm vi cả nước. Mặt khác, để phát triển SXNN
thì phải tập trung ruộng đất (dồn điền, đổi thửa) để sản xuất lớn nhằm phát huy
hiệu quả quỹ đất nông nghiệp trong điều kiện hiện nay. Hơn nữa, bản thân nông
nghiệp cũng phải hoà nhập cùng sự nghiệp CNH, HĐH. Trong những giải pháp
có giải pháp đẩy nhanh việc dồn điền, đổi thửa (DĐĐT) ruộng đất để phát triển
SXNN theo hướng hàng hoá, nâng cao thu nhập và đời sống cho nông dân là hết
sức cần thiết.
Tỉnh Nam Định thực hiện công tác dồn điền đổi thửa từ năm 2002 (Nghị
quyết số 02/NQ-TU ngày 06/6/2002 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về việc dồn
điền đổi thửa trong sản xuất nông nghiệp) và hiện nay đang tiếp tục thực hiện
(Chỉ thị số 07-CT/TU ngày 19/9/2011 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và Kế hoạch
số 45/KH-UBND ngày 30/8/2011 của UBND tỉnh “Về việc tiếp tục thực hiện
dồn điền, đổi thửa trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh”
Quá trình thực hiện dồn điền đổi thửa đã được nhiều tỉnh thực hiện và
nhiều đơn vị đã cơ bản hoàn thành. Tuy nhiên, mức độ thành công ở mỗi địa
phương rất khác biệt về cách tổ chức, thời gian và kết quả đạt được. Theo

đánh giá kết quả dồn điền đổi thửa đã có tác động tích cực đối với sản xuất
nông nghiệp, gia tăng năng suất, sản lượng nông sản, thúc đẩy quá trình hình
thành các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung chuyển canh, tạo điều
kiện để thúc đẩy cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, so với
yêu cầu của quá trình hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp vẫn đang còn nhiều
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ hơn, trong đó có cả vấn đề
quản lý nhà nước về đất đai.
Huyện Hải Hậu, là huyện đầu tiên của tỉnh Nam Định hoàn thành công
tác dồn điền đổi thửa và xây dựng nông thôn mới vào năm 2012.
Từ những thực tế trên, đề tài luận văn: "Đánh giá hiệu quả và đề xuất
giải pháp sau dồn điền đổi thửa phục vụ hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp ở
huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định" được chọn làm nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Đánh giá được hiệu quả của dồn điền đổi thửa và những vấn đề nảy sinh
so với yêu cầu phát triển của hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp.
- Đề xuất một số giải pháp sau dồn điền đổi thửa phục vụ hiện đại hóa sản
xuất nông nghiệp.
3. Yêu cầu của đề tài:
- Làm rõ kết quả đạt được của công tác dồn điền đổi thửa, đánh giá các
thay đổi sử dụng đất trước và sau dồn điền đổi thửa; thay đổi về quy mô vùng sản
xuất
- Làm rõ được hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp sau dồn điền
đổi thửa tại 3 xã nghiên cứu điểm dựa trên điều tra, thu thập thông tin và nhận
diện được những vấn đề mới phát sinh so với yêu cầu của quá trình hiện đại hoá
sản xuất nông nghiệp.
- Đề xuất được một số giải pháp sau dồn điền đổi thửa theo hướng phục
vụ hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp có tính khả thi.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Một số khái niệm liên quan đến nội dung nghiên cứu:
1.1.1. Khái niệm về dồn điền đổi thửa:
1.1.1.1. Khái niệm về dồn điền đổi thửa và nguyên nhân của việc tiến hành dồn
điền đổi thửa:
Khái niệm dồn điền đổi thửa là việc tập hợp, dồn đổi các thửa ruộng nhỏ
thành thửa ruộng lớn, trái ngược với việc chia các mảnh ruộng to thành các mảnh
ruộng nhỏ. Có 2 cơ chế chủ yếu để thực hiện dồn điền đổi thửa:
Một là để cho thị trường ruộng đất và các nhân tố phi tập trung tham gia
vào, Nhà nước chỉ hỗ trợ sao cho cơ chế này vận hành tốt hơn;
Hai là thực hiện các biện pháp can thiệp hành chính, tổ chức phân chia lại
ruộng đất, thực hiện các quy hoạch có chủ định. Theo cách này, các địa phương
đều xác định là dồn điền đổi thửa sẽ không làm thay đổi các quyền của nông hộ
đối với ruộng đất đã được quy định trong pháp luật. Tuy nhiên, việc thực hiện
quá trình này có thể làm thay đổi khả năng tiếp cận ruộng đất của các nhóm nông
dân hưởng lợi khác nhau dẫn đến thay đổi bình quân ruộng đất ở các nhóm xã hội
khác nhau.
Từ những hạn chế của vấn đề manh mún ruộng đất cho thấy chủ trương và
việc tiến hành dồn điền đổi thửa là rất cần thiết cho sản xuất nông nghiệp theo
hướng hiện đại hóa.
1.1.1.2.Cơ sở thực tiễn của việc dồn điền đổi thửa:
Hơn nửa thế kỷ qua, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu to
lớn, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu lương thực đứng thứ hai
trên thế giới và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, nâng cao đời sống cho
nông dân, ổn định nông thôn và xây dựng đất nước.
Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp gắn liền với chính sách ruộng đất.

Mỗi chính sách ruộng đất có tác dụng trong thời gian nhất định, phù hợp với phát
triển nông nghiệp ở mỗi thời kỳ.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

Chính sách người cày có ruộng phù hợp với lao động thủ công.
Chính sách tập trung hoá ruộng đất sản xuất phù hợp với phát triển nông
nghiệp trong thời kỳ chiến tranh.
Chính sách giao ruộng đất cho nông dân phù hợp với sản xuất nông nghiệp
trong thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ
chế thị trường.
Thực hiện Luật Đất đai, hiện cả nước đang có tới 70 triệu thửa ruộng
manh mún, bình quân mỗi hộ nông dân chỉ có 0,7 ha đất canh tác, có tới 7-8
thửa, có hộ lên tới 28 – 30 thửa. Ruộng đất manh mún đã hạn chế việc áp dụng
cơ giới hoá và ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất.
[5]

Từ năm 1997 đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam có chủ trương lớn là
thực hiện đồn điển đổi thửa, dưới tên gọi “dồn ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn” với
mục đích là cho xuất hiện những vùng chuyên canh lớn. Với Nghị quyết 6 của
Bộ Chính trị (năm 1998), Nghị quyết 03 của Chính phủ (năm 2000) kinh tế trang
trại chính thức được công nhận như một loại hình sản xuất của thời kỳ kinh tế thị
trường. Kinh tế trang trại đã tập trung và tích tụ ruộng đất với nhiều hình thức
khác nhau để tổ chức sản xuất nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn. Đây là mô hình
sản xuất nông nghiệp có hiệu quả trong cơ chế thị trường.
Nhờ có chính sách về đất đai và các chính sách khác của Nhà nước, nông
nghiệp đã có sự phát triển vượt bậc, không chỉ tăng so với các thời kỳ trước, mà
quan trọng là nhiều loại đã đủ dùng trong nước và xuất khẩu với khối lượng lớn
(năm 2005 xuất khẩu thuỷ sản đạt 2,73 tỷ USD, trên 5,25 triệu tấn gạo, 54,5
nghìn tấn lạc, 892,4 nghìn tấn cà phê, 587,1 nghìn tấn cao su, 108,8 nghìn tấn

điều, 235,5 triệu USD rau quả, 109 nghìn tấn hạt tiêu, 87,9 nghìn tấn chè ) và
đứng thứ hạng cao trên thế giới như gạo, cà phê, hạt tiêu, điều.
Xu hướng tích tụ ruộng đất để phát triển kinh tế trang trại ngày càng được
mở rộng với nhiều hình thức như: nhận chuyển nhượng đất, thuê đất, mượn đất,
dồn đổi, tập trung ruộng đất.
Tuy đạt được những thành tựu về tích tụ ruộng đất như trên, nhưng quá
trình tích tụ ruộng đất đã bộc lộ những tồn tại, vướng mắc cần được tháo gỡ về
cơ chế chính sách như:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

Chưa có quy hoạch về phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn, theo
hướng hiện đại bền vững;
Mức hạn điền thấp, thời hạn sử dụng đất ngắn đã không khuyến khích
nông dân tích tụ ruộng đất và yên tâm đầu tư phát triển sản xuất lâu dài.
Chưa có chính sách khuyến khích đầu tư cơ sở hạ tầng phù hợp với tích tụ
ruộng đất để sản xuất hàng hoá lớn.
Chưa có chính sách hỗ trợ đào tạo quản lý, kỹ thuật, thông tin thị trường,
khuyến khích liên kết, chế biến và tiêu thụ nông sản cho nông dân tích tụ ruộng
đất phát triển kinh tế trang trại.
Chưa có chính sách đào tạo, chuyển đổi nghề cho nông dân để rút bớt lao
động nông nghiệp, tạo tiền đề cho tích tụ ruộng đất.
Chưa có chính sách, cơ chế, quy hoạch giải quyết đầu ra, thường thì được
mùa lại mất giá nên người dân không yên tâm đầu tư sản xuất.
Gần 10 năm trở lại đây, vấn đề tích tụ ruộng đất tại Việt Nam được đề cập
khá nhiều, nhưng với nhiều lo lắng và có phần né tránh, vì một loạt những băn
khoăn như trên, nếu không tiến hành thận trọng, tích tụ ruộng đất sẽ trở thành
như bắt bí hộ đói nghèo để mua được đất giá rẻ, hoặc thu hồi đất, lập dự án treo,
hay phân lô bán nhằm làm giàu bất chính vì lợi ích của một nhóm người; hay có
thể làm nẩy sinh tầng lớp địa chủ mới Chính vì thế, nhìn từ tổng thể, việc tích tụ

ruộng đất vẫn đang là một bức tranh vẽ giở và còn quá nhiều rào cản trên con
đường đi đến giấc mơ đại điền của người nông dân. Hai “nút thắt” lớn nhất đang
tồn tại hiện nay trong vấn đề tích tụ ruộng đất là nên tích tụ theo hình thức mua
đất hay thuê đất và xử lý vấn đề lao động nông nghiệp thế nào khi họ rút ra khỏi
thị trường này? Chỉ riêng đối với vấn đề nên mua đất hay chỉ là cho thuê đất, đã
là vấn đề quá khó, khi vừa muốn đảm bảo yêu cầu nông dân không bị áp lực bởi
nỗi lo “không tấc đất cắm dùi”, vừa đảm bảo yêu cầu sớm tích tụ đất đai để tổ
chức được sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, để sản xuất theo kiểu hàng hóa.
Những người tán thành quan điểm mua, bán cho rằng có tích tụ theo cách đó,
mới có thể yên tâm sản xuất bền vững, chứ nếu chỉ là thuê thôi, thì tâm lý cũng
không thể muốn đầu tư lâu dài trên mảnh đất đó. Thực tế, việc tích tụ ruộng đất
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

diễn ra trong thời gian qua chủ yếu là theo hình thức này.
Nhưng luồng quan điểm nên “cho thuê”, “Đây là cách để nông dân “có chỗ
lui về” không mất trắng đất - ít nhất là về mặt tâm lý”. “Thực trạng tích tụ ruộng
đất, dồn điền đổi thửa hiện nay đã làm cho nhiều hộ nông dân mất đất, trắng tay.
Vì vậy, một chính sách cần thiết lúc này là làm sao để nông dân cho thuê đất chứ
không bán đất. Doanh nghiệp đầu tư xây dựng kênh mương, cây giống và tổ chức
sản xuất, nông dân được thuê làm việc trên chính thửa ruộng của mình. Vậy nông
dân vẫn còn sổ đỏ, có thu nhập, có công việc; doanh nghiệp có diện tích lớn sẽ sản
xuất kinh doanh hiệu quả”.
1.1.2 . Hạn điền và tích tụ ruộng đất
Tích tụ ruộng đất là: cá nhân hoặc tổ chức thực hiện dồn, tập trung nhiều
ruộng đất vào một chỗ, là phương thức làm tăng quy mô về diện tích của thửa đất
thông qua việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Hiện nay, hạn điền và tích tụ ruộng đất đang trở thành vấn đề cần phải được
quan tâm trong nền nông nghiệp ở nước ta.
Điều 129 Luật Đất đai 2013 đã đề cập đến hạn mức giao đất nông nghiệp.

Hạn mức giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối cho
mỗi hộ gia đình, cá nhân tại tỉnh Nam Định là: không quá 02 héc ta đối với mỗi
loại đất. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân được giao nhiều loại đất bao gồm đất
trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối thì tổng hạn mức giao
đất không quá 05 héc ta. Quy định hạn mức đất sản xuất nông nghiệp như trên là
để phù hợp với điều kiện quỹ đất và khả năng đầu tư sản xuất của các hộ nông
dân ở nước ta hiện nay.[20]
Tại khoản 1 Điều 130 Luật Đất đai năm 2013 đã nêu rõ: Hạn mức nhận
chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân không quá 10
lần hạn mức giao đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân đối với mỗi loại đất.
Như vậy, chính sách đất đai của Nhà nước ta hiện nay là thực hiện hạn điền
theo nguyên tắc vừa sử dụng có hiệu quả, vừa không để nông dân bị bần cùng hóa
do không có đất để sản xuất, vừa thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất hợp lý theo
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

1.1.3. Khái niệm về hiện đại hóa:
- Sự phát triển hiện đại là giai đoạn phát triển hậu công nghiệp, sự phát
triển này diễn ra với hai cuộc cách mạng: cách mạng khoa học công nghệ và cách
mạng trong kinh tế với sự xác lập của kinh tế thị trường hiện đại và quá trình
quốc tế hóa, toàn cầu hóa kinh tế. Hiện đại hóa được xác lập bởi ba quá trình thay
đổi sâu sắc: thay đổi trong hệ thống phát triển; chuyển từ hệ thống kinh tế thị
trường cổ điển sang hệ thống kinh tế thị trường hiện đại; chuyển từ cách mạng
công nghiệp với cơ khí hóa sang cách mạng khoa học công nghệ và quá trình
quốc tế hóa, toàn cầu hóa sinh hoạt kinh tế.[8]
- Hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển nền nông nghiệp truyền
thống phát triển thành nông nghiệp hiện đại, về thực chất hiện đại hóa các biện
pháp sản xuất nông nghiệp, hiện đại hóa công nghệ sản xuất, hiện đại hóa quản lý
sản xuất kinh doanh và hiện đại hóa lực lượng lao động ngành nông nghiệp; làm

thay đổi căn bản tính chất, phương thức sản xuất, hình thức tổ chức quản lý sản
xuất của một nền nông nghiệp sản xuất tự cung, tự cấp, dự chủ yếu vào điều kiện
tự nhiên với kỹ thuật thủ công sang một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa với
kỹ thuật công nghệ tiên tiến, trong điều kiện trong điều kiện thương mại hóa toàn
cầu và phải đảm bảo cho sự phát triển bền vững về tự nhiên, kinh tế, xã hội.
- Hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển khu vực nông thôn từ
trạng thái nông nghiệp cổ truyền thành khu vực có nền kinh tế thị trường phát
triển, với hệ thống phân công lao động đạt trình độ cao, dựa trên nền tảng kỹ
thuật – công nghệ hiện đại và hội nhập kinh tế toàn cầu trong khuôn khổ quá
trình hiện đại hóa toàn bộ nền kinh tế. Đây cũng là quá trình đô thị hóa cải biến
xã hội nông thôn lên trình độ cao hơn, bảo đảm cho mọi người dân có đời sống
vật chất, tinh thần ngày càng được nâng cao.
- Hiện đại hóa nông nghiệp là việc sử dụng máy móc rộng rãi, áp dụng
khoa học tiên tiến, đặc biệt là công nghệ sinh học và công nghệ thông tin trong
khâu sản xuất. Bảo quản chế biến và tiếp thị mở rộng thị trường tiêu thụ trong
nước và quốc tế, chính vị vậy sẽ thúc đẩy nhanh sự tan rã của nông nghiệp chậm
phát triển và nông nghiệp truyền thống.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

- Hiện đại hóa nông nghiệp phải đảm bảo đáp ứng nhu cầu ăn uống hiện
đại của xã hội: sản xuất nông sản sạch, giảm lương thực, tăng thức ăn giàu đạm,
tăng rau quả, mức tiêu dùng các loại lương thực thực phẩm chất lượng cao tăng
lên, đa dạng hóa các loại thực phẩm, tăng nông phẩm đã qua chế biến.
- Hiện đại hóa nông nghiệp có thể trình bày theo 3 đặc điểm dưới đây:
+ Hiện đại hóa công cụ sản xuất nông nghiệp
+ Hiện đại hóa kỹ thuật sản xuất
+ Hiện đại hóa phương thức sản xuất nông nghiệp.
1.1.4. Quy hoạch thiết kế đồng ruộng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nông
nghiệp tại khu vực đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH):

Tại Việt Nam tiêu chuẩn thiết kế của một thửa ruộng khoảng 0,25ha trước
giai đoạn khoán 10 (Nghị quyết 10 của Chính Phủ Việt Nam, 1988); Diện tích
dành cho giao thông và các công trình thủy lợi nội đồng chiểm khoảng từ 2-3%
tổng diện tích khu ruộng.
Ở ĐBSH, qua nghiên cứu cho thấy rằng kích thước của một khu ruộng
phụ thuộc vào nhiều yếu tố (nhu cầu sản xuất, địa hình nguồn nước, ) Thấy
rằng đề xuất thiết kế tiêu chuẩn thiết kế khu ruộng điểm cho vùng ĐBSH với các
có diện tích 6 ha (canh tác cho 2 vụ lúa/năm) có cấu trúc chi tiết như sau:
1 ô ruộng = 10m x 15m
1 thửa ruộng = 100m x 30m
1 dải thửa = 1 ô ruộng x 10 = 3ha
1 khu ruộng = 1 dải thửa x 2 = 6ha
1 xứ đồng: tuy theo điều kiện qũy đất của địa phương sẽ gồm 1 hay nhiều
khu ruộng.
Đường giao thông nội đồng có chiều rộng là 3m kết hợp với đoạn tránh xe và
cứ 150m bố trí điểm xuống máy cho 1 khu ruộng 6ha, mặt đường bêtông xi măng.
1.2. Vấn đề sử dụng đất nông nghiệp ở trong và ngoài nước
1.2.1. Vấn đề sử dụng đất nông nghiệp ở nước ngoài
Ở Nhật Bản: Để chấn hưng nền nông nghiệp, năm 1961 Chính phủ Nhật
Bản đã ban hành chính sách nông nghiệp là đưa nông nghiệp từ quy mô nhỏ lên
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

quy mô lớn. Để thực hiện mục tiêu này Bộ Nông nghiệp đề ra "sự nghiệp xây
dựng ruộng đất với ba mục tiêu: rộng, chắc chắn, sâu".
- Rộng: nâng kích thước thửa ruộng lên 0,3ha.
- Chắc chắn: cải tạo nền đất yếu, nhiều bùn, hay lên trên cơ sở thiết kế xây
dựng thoát nước cho từng thửa ruộng và từng khu vực để có thể sử dụng máy
móc cho thuận lợi.
- Sâu: cải tạo tầng canh tác ruộng đất đảm bảo độ dầy khoảng 1m.

Để làm được các yêu cầu nêu trên cần phải làm được hai việc:
+ Về mặt hành chính: xử lý chuyển đổi từ các ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn.
+ Về mặt kỹ thuật: gắn liền với việc xử lý kích thước thửa ruộng là việc
xây dựng hệ thống tưới tiêu và san ủi mặt bằng.
Công tác dồn điền đổi thửa, xử lý ruộng đất như nêu trên là khó khăn phức
tạp vì đất đai thuộc sở hữu tư nhân và việc chuyển đổi phải tiến hành với một số
biện pháp như công tác quy hoạch sử dụng đất mới phát huy hiệu quả trong sử
dụng đất. Kết quả là khoảng 2 triệu ha trong 2,7 triệu ha đất trồng lúa nước ở
Nhật Bản đã được chuyển đổi. Trước chuyển đổi, bình quân có 3,4 thửa /hộ, sau
chuyển đổi bình quân có khoảng 1,8 thửa /hộ. Việc chuyển đổi, xử lý đất nông
nghiệp đã tăng sức sản xuất của đất đai, tăng năng suất lao động của người nông
dân; việc áp dụng máy móc vào sản xuất được thuận tiện và hiệu quả, tạo điều
kiện để phát triển nông nghiệp hàng hoá, nâng cao sức cạnh tranh trong nông
nghiệp. Vì vậy cùng với các yếu tố khác, việc chuyển đổi và xử lý đất nông
nghiệp đã góp phần quan trọng đưa năng suất lúa từ 3.000kg gạo/ha/năm vào
năm 1960 lên 6.000kg gạo/ha/năm vào năm 1992.
Ở Indonesia: Đồng bằng Java của Indonesia, ruộng đất cũng bị manh mún.
Năm 1963, số trang trại có diện tích đất nhỏ hơn 0,5ha chiếm trên 52% trong
tổng số 7,9 triệu nông hộ; trang trại có từ 0,5 đến 1,0 ha chiếm 27%, chỉ có 0,4%
loại trang trại có 4 đến 5ha. Trong khi đó, 40% số trang trại do người làm công
quản lý chứ không do chủ đất quản lý. Tình trạng này đã ảnh hưởng nhiều đến
việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật của cuộc cách mạng xanh thời đó. Ở Indonesia
nói riêng và Đông Nam Á nói chung có sự gia tăng áp lực dân số trên ruộng đất
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

nhưng ít xẩy ra phân cực giữa các loại nông hộ, các trang trại quy mô lớn đến
hàng chục ha chỉ là cá biệt, mặc dù số nông dân không có ruộng đất vẫn tăng lên.
Như vậy ruộng đất vẫn không tập trung được vào một số trang trại lớn mà chỉ
được trao đổi giữa các chủ nhỏ. Thậm chí, quy mô ruộng đi thuê ở tất cả các

nhóm hộ đều giảm xuống. Giá ruộng đất (địa tụ) vẫn tăng lên, nhưng lãi từ việc
đầu tư thêm lao động giảm xuống, làm thay đổi một loạt các thể chế nông thôn,
chủ yếu là gia tăng số hộ cho thuê đất. Như vậy thị trường ruộng đất đã không
vận hành hoàn toàn theo nguyên lý kinh tế
Ở Đài Loan: sau năm 1949 dân số tăng đột ngột do sự di dân từ lục địa ra.
Lúc đầu chính quyền Tưởng Giới Thạch thực hiện cải cách ruộng đất theo
nguyên tắc phân phối đồng đều ruộng đất cho nông dân. Ruộng đất đã được
trưng thu, tịch thu, mua lại của các địa chủ rồi bán chịu, bán trả dần cho nông
dân, tạo điều kiện ra đời các trang trại gia đình quy mô nhỏ. Năm 1953, ở Đài
Loan đã có đến 679.000 trang trại với quy mô bình quân là 1,29 ha/trang trại; đến
năm 1991 số trang trại đã lên đến 823.256 với quy mô bình quân chỉ còn 1,08
ha/trang trại. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn sau
này đòi hỏi phải mở rộng quy mô của các trang trại gia đình nhằm ứng dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm,… nhưng do
người Đài Loan coi ruộng đất là tiêu chí đánh giá vị trí của họ trong xã hội nên
mặc dù có thị trường nhưng ruộng đất vẫn không được tích tụ (có nhiều người
tuy là chủ đất nhưng đã chuyển sang làm những nghề phi nông nghiệp). Để giải
quyết tình trạng này, năm 1983 Đài Loan công bố Luật Phát triển nông nghiệp,
trong đó công nhận phương thức sản xuất ủy thác của các hộ nông dân, có nghĩa
là nhà nước công nhận việc chuyển quyền sở hữu đất đai. Ước tính đã có trên
75% số trang trại áp dụng phương thức này để mở rộng quy mô ruộng đất sản
xuất. Ngoài ra để mở rộng quy mô, các trang trại trong cùng thôn xóm còn tiến
hành các hoạt động hợp tác như làm đất, mua bán chung một số vật tư, sản phẩm
nông nghiệp, nhưng không chấp nhận phương thức tập trung ruộng đất, lao động
để sản xuất (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2003).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

Ở Thái Lan: Đồng bằng Chaophraya cách đây khoảng 120 năm dân cư vẫn

còn thưa thớt, chỉ khoảng 300 nghìn người với trên 2 triệu héc ta đất, nhưng sự
đô thị hóa nhanh ở Bangkok vài chục năm gần đây đã làm cho dân số vùng này
tăng nhanh (khoảng 3%/năm). Kể từ năm 1970, đất nông nghiệp giảm trung bình
khoảng 1%/năm. Các trang trại bị chia nhỏ khiến quy mô ruộng đất bị giảm dần,
từ 4,8 ha/hộ (năm 1950) xuống 4,5 ha/hộ (năm 1963), 4,1 ha/hộ (năm 1978) và
3,5 ha/hộ (năm 1993). Quy mô ruộng đất giảm còn do ruộng đất được phân chia
thừa kế cho con cái và công nghệ sản xuất chậm tiến bộ. Từ năm 1955 đến năm
1975 giá thóc giảm khá thấp, trên thực tế giá nông sản thấp và sự bần cùng hóa
của nông dân luôn đi đôi với sự chia nhỏ quy mô sản xuất bởi vì lợi ích đầu tư
vào ruộng đất không cao và người dân cũng không có đủ vốn để mua đất.
Ở Trung Quốc: Vào những năm cuối thập kỷ 70, Trung Quốc đã tiến
hành cuộc cải cách kinh tế và trước tiên là cải cách nông thôn. Sau một số năm
thực hiện đã cho thấy những hạn chế và điểm yết của hệ thống. Trước tiên là sự
xuất hiện của các thửa ruộng nhỏ và manh mún cấp cho từng hộ gia đình. Hơn
nữa từng mạnh ruộng lại khác nhau về tính chất đất, khả năng thủy lợi, vị trí và
được phân hạng khác nhau. Mỗi gia đình đều được nhận được ruộng ở tất cả các
hạng đất. Kết quả là tổng diện tích cấp cho mỗi hộ không những không đủ mà
còn manh mún và rải rác khắc nơi trong làng. Lãnh phí một diện tích đang kể
dùng làm đường và ranh giới chia đất giữa các hộ.
Sau đây là một mô hình thực hiện tập trung đất đai được xem là thành
công và đã được vận dụng trên quy mô rộng lớn của đất nước Trung Quốc. Đo là
mô hình "hệ thống hai loại đất". Tổng diện tích đất canh tác được chi làm hai
phần: đất sản xuất lương thực và đất hợp đồng. Đất sản xuất lương thực để đảm
bảo nhu cầu lương thực của hộ gia đình còn đất hợp đồng để làm kinh tế. Vào
đầu những năm 1990, hệ thống này được áp dụng và đã trở thành phổ biến và
được xem như là biện pháp đổi mới thể chế trong cuộc cải cách ruộng đất.
Tại sao Trung Quốc lại thành công trong một thời gian ngắn như vậy? Lời
giải thích hợp lý nhất là với việc chia đất của hộ gia đình thành hai hệ thống sử
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12


dụng mới, nó vừa đảm bảo được công bằng xã hội mà cũng vẫn cho phép đạt
hiệu quả sử dụng đất cao.
Ở Châu Âu và các nước phát triển khác: kể từ sau cách mạng nông nghiệp
lần thứ 2 (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX), một loạt các trang trại nhỏ, manh mún
năng suất thấp đã bị loại thải, thay vào đó là các trang trại quy mô vừa, năng suất lao
động cao. Ví dụ ở Pháp năm 1955 có xấp xỉ 2,3 triệu nông hộ có quy mô 14 ha/hộ,
đến năm 1993 chỉ còn 800 ngàn nông hộ với quy mô 35 ha/hộ. Ở Mỹ, năm 1950 cả
nước có 5,65 triệu nông hộ với quy mô bình quân 86 ha/hộ, đến năm 1992 chỉ còn
1,92 triệu nông hộ với quy mô 198,9 ha/hộ. Nhìn chung, tiến trình tích tụ ruộng đất
và vốn nhanh chóng của các nông hộ ở Châu Âu chủ yếu là nhờ thành tựu khoa học
công nghệ phát triển trong quá trình cơ giới hoá nông nghiệp của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 2.
1.2.2. Vấn đề sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam:
1.2.2.1. Chính sách giao ruộng qua các thời kỳ:
Giai đoạn 1945-1981: Lịch sử cách mạng giải phóng dân tộc và lịch sử phát
triển kinh tế của Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với các vấn đề về sử dụng đất
đai. Những mâu thuẫn trong chính sách đất đai (vấn đề tiếp cận đất đai, sở hữu và sử
dụng đất đai) đó diễn ra trong suốt thời kỳ thuộc địa của thực dân Pháp; trong thời
kỳ chiến tranh chống Mỹ và các chính sách của Chính phủ từ sau ngày thống nhất
đất nước năm 1975.
Trước năm 1945, đất nông nghiệp được phân chia thành 2 loại chính: đất
sở hữu cộng đồng và đất tư hữu. Khu vực nông thôn được chia làm 2 tầng lớp
dựa trên tính chất sở hữu của đất: Địa chủ và Tá điền. Tầng lớp Địa chủ chiếm
khoảng 2% tổng dân số nhưng chiếm hữu trên 50% tổng diện tích đất, trong khi
đó 59% hộ nông dân là Tá điền không có đất và đi làm thuê cho Địa chủ.
Sau năm 1945, sau khi kết thúc chiến tranh với thực dân Pháp (năm 1954),
miền Bắc thực hiện chương trình cải cách ruộng đất cơ bản. Mục đích là để công
hữu hoá ruộng đất của Địa chủ người Việt và người Pháp, tiến hành phân chia lại
cho hộ nông dân ít đất hoặc không có đất với khẩu hiệu “Người cày có ruộng”.

Giai đoạn tiếp theo của chính sách cải cách ruộng đất đó là miền Bắc bước sang
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

giai đoạn sở hữu tập thể đất nông nghiệp dưới hình thức hợp tác xã từng khâu và
hợp tác xã toàn phần. Đến năm 1960, khoảng 86% hộ nông dân và 68% tổng diện
tích đất nông nghiệp đó vào hợp tác xã bậc thấp. Trong hợp tác xã này người
nông dân vẫn sở hữu đất đai và tư liệu sản xuất. Ở hình thức hợp tác xã bậc cao,
nông dân góp chung đất đai và các tư liệu sản xuất khác (trâu, bò, gia súc và các
công cụ khác) vào hợp tác xã dưới sự quản lý chung.
Sau năm 1975, nền kinh tế Việt Nam nói chung và nông nghiệp nói riêng
phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh để lại và những hậu
quả từ những chính sách trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung và thời kỳ
kinh tế tập thể trong nông nghiệp. Trong thời kỳ sở hữu tập thể trong nông
nghiệp, sản xuất giảm do người nông dân thiếu động cơ làm việc, sản lượng nông
nghiệp tăng hàng năm ở mức rất thấp (2%). Cùng thời điểm này dân số tăng rất
nhanh (2,2-2,35%/ năm) đã dẫn đến việc phải nhập khẩu bình quân hơn một triệu
tấn lương thực mỗi năm trong suốt thời kỳ sau chiến tranh. Điều đó đã dẫn đến
một bộ phận lớn dân số sống trong tình trạng nghèo và đói.
Giai đoạn 1981-1988: Sự thay đổi cơ chế quản lý và sử dụng đất trong lĩnh
vực nông nghiệp bắt đầu bằng Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng hay còn
gọi là Khoán 100: các HTX giao đất nông nghiệp đến nhóm và người lao động.
Những người này có trách nhiệm trong ba khâu của quy trình sản xuất. Sản xuất vẫn
dưới sự quản lý của HTX, cuối vụ hộ nông dân được trả thu nhập bằng thóc dựa trên
sản lượng sản xuất ra và ngày công đóng góp trong 3 khâu của quy trình sản xuất.
Đất đai vẫn thuộc sở hữu của Nhà nước và dưới sự quản lý của HTX. Mặc dù còn
đơn giản nhưng Khoán 100 đã trở thành bước đột phá trong quá trình hướng tới nền
kinh tế thị trường. Sự ra đời của Khoán 100 đã có những ảnh hưởng đáng kể đến sản
xuất nông nghiệp, đặc biệt đối với sản xuất lúa gạo, tăng 6,3%/ năm trong suốt giai
đoạn 1981-1985. Tuy nhiên, sau năm 1985, tăng trưởng trong sản xuất nông nghiệp

bắt đầu giảm, tốc độ tăng trưởng của tổng sản lượng nông nghiệp trong giai đoạn
1986-1988 chỉ là 2,2%/ năm. Đầu năm 1988, sản xuất lương thực không đáp ứng
được nhu cầu dẫn đến sự thiếu ăn ở 21 tỉnh, thành trên miền Bắc. Ở miền Nam một
loạt các mâu thuẫn cũng gia tăng trong khu vực nông thôn, đặc biệt là mối quan hệ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

đất đai bởi sự “cào bằng” về phân chia. Điều này hiển nhiên đặt ra yêu cầu một cuộc
cải cách mới trong chính sách đất đai.
Để giải quyết các vấn đề trên, chính sách đổi mới trong nông nghiệp đã
được thực hiện theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988. Với sự
ra đời của Nghị quyết 10 thường được biết đến với tên Khoán 10, người nông
dân được giao đất nông nghiệp sử dụng từ 10-15 năm và lần đầu tiên hộ nông
dân được thừa nhận như một đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp. Bắt đầu từ
thời kỳ này, các tư liệu sản xuất (máy móc, trâu, bò, gia súc và công cụ khác)
được sở hữu dưới hình thức cá thể. Một khía cạnh khác của chính sách này đó là
người nông dân ở miền Nam được giao lại đất họ đã sở hữu trước năm 1975.
Tuy nhiên, cùng với Khoán 10 chưa có luật tương ứng dẫn đến một số
quyền sử dụng đất như cho tặng hoặc thừa kế chưa được luật pháp hóa và thừa
nhận. Một loạt các vấn đề khác nảy sinh liên quan đến sản xuất chẳng hạn như
trạm điện, hệ thống giao thông nông thôn, thị trường,… mà trước đây thuộc trách
nhiệm quản lý của các HTX nông nghiệp. Để giải quyết các vấn đề này Luật Đất
đai năm 1993 đã ra đời.
Giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới (1988 - 1992):
Văn bản đầu tiên về đất đai do Nhà nước ban hành thể hiện tinh thần đổi
mới của Đại hội Đảng khóa VI là Luật Đất đai năm 1987. Sau Luật Đất đai năm
1987, Thông tư liên bộ số 05/TT-LB ngày 18-12-1991 của Bộ Thủy sản và Tổng
cục Quản lý ruộng đất hướng dẫn giao những ao nhỏ, mương rạch trong vườn nằm
gọn trong đất thổ cư cho hộ gia đình; ao lớn, hồ lớn thì giao cho một nhóm hộ gia
đình; với những mặt nước chưa sử dụng có thể giao cho tổ chức, cá nhân.

Quyết định số 327/QĐ-HĐBT ngày 15-7-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng về chính sách sử dụng đất đồi núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển và mặt nước
với nội dung cơ bản là lấy hộ gia đình làm đơn vị sản xuất để giao đất với những
điều kiện mở. Nhà nước giành 60% vốn dự án để xây dựng kết cấu hạ tầng, 40%
còn lại cho hộ gia đình vay không tính lãi. Những hộ chuyển vùng đến khu kinh tế
mới được phép chuyển QSD đất để lấy tiền làm vốn; đồng thời khuyến khích các
doanh nghiệp tư nhân bỏ vốn đầu tư dưới hình thức đồn điền, trang trại.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

Như vậy, chính sách đất đai giai đoạn này chủ yếu là:
- Thể hiện tinh thần đổi mới nhưng rất thận trọng, thực hiện từng bước
chậm, chủ yếu mang tính thăm dò, thí điểm;
- Điều chỉnh trong nông nghiệp và các đơn vị tập thể như nông, lâm trường,
hợp tác xã;
- Quyền sử dụng đất ổn định lâu dài của hộ gia đình, cá nhân vẫn chưa được
thừa nhận.
Giai đoạn đẩy mạnh thực hiện chính sách đất đai (từ 1993 đến nay):
Trước những kết quả khả quan của Khoán 100 và Khoán 10, Hội nghị lần
thứ Năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ra Nghị quyết về tiếp tục
đổi mới và phát trển kinh tế - xã hội nông thôn. Nghị quyết là cơ sở cho việc
thông qua Luật Đất đai, Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp tại kỳ họp thứ Ba
Quốc hội khóa IX. Luật Đất đai năm 1993 thực chất là thể chế hóa chính sách đất
đai cho phù hợp với yêu cầu kinh tế - xã hội đặt ra.
Sau khi Luật Đất đai năm 1993 ra đời, Chính phủ và các bộ, ngành đã có
văn bản triển khai. Đặc biệt là Nghị định số 64/NĐ-CP của Chính phủ về giao đất
cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào sản xuất nông nghiệp và
Nghị định số 02/NĐ-CP ngày 15-01-1994 về đất lâm nghiệp. Bên cạnh đó có một
loạt các chính sách liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề đất đai.
Luật Đất đai năm 1993 khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân; đồng

thời quy định các nguyên tắc giao đất, giao quyền sử dụng đất, quyền chuyển
nhượng, chuyển đổi, cho thuê, thừa kế và thế chấp quyền sử dụng đất cho tổ
chức, hộ gia đình và cá nhân. Người sử dụng đất được giao đất sử dụng ổn định
lâu dài (20 năm đối với cây hàng năm, 50 năm đối với cây lâu năm). Việc giao
đất sẽ được tiến hành lại khi hết thời hạn nếu như phù hợp với quy hoạch, người
sử dụng đất thực hiện tốt nghĩa vụ đối với nhà nước và có nhu cầu tiếp tục sử
dụng. Luật Đất đai cũng quy định mức hạn điền đối với hộ nông dân, cụ thể đối
với cây hàng năm là không quá 2 ha ở miền Bắc và các tỉnh miền Trung, không
quá 3 ha đối với các tỉnh phía Nam; đối với cây lâu năm tối đa là 10 ha đối với
vùng đồng bằng và 30 ha đối với vùng trung du và miền núi. Cùng với việc giao
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

đất, các cơ quan có thẩm quyền cũng đã cấp GCNQSDĐ cho các hộ nông dân.
Đến năm 1998, GCNQSDĐ đã được cấp cho 71% số hộ, cuối năm 2000 con số
này là trên 90%. Đối với vùng trung du và miền núi, nơi có nhiều phong tục tập
quán thì việc giao đất, cấp GCNQSDĐ diễn ra chậm hơn.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường phát triển kéo theo các quan hệ xã hội trở
nên phức tạp hơn, nhu cầu sử dụng và chuyển quyền sử dụng đất đã làm phát sinh
nhiều vấn đề mà Luật Đất đai năm 1993 chưa thể giải quyết được. Vì vậy, ngày
02-12-1998 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai được ban hành,
theo đó người sử dụng đất được giao thêm 2 quyền nữa đó là quyền cho thuê lại và
quyền được góp vốn đầu tư kinh doanh bằng đất đai.
Luật Đất đai tiếp tục được sửa đổi, bổ sung và ban hành ngày 01-10-2001.
Luật sửa đổi lần này là chú trọng đến khía cạnh kinh tế và vai trò quản lý nhà nước
đối với đất đai, được thể hiện bởi những quy định về khung giá các loại đất, thuế
chuyển quyền sử dụng đất, tính giá trị tài sản khi giao đất, thu hồi đất, quy hoạch
và kế hoạch sử dụng đất, cấp GCNQSDĐ.
Luật Đất đai ngày 26-11-2003 thay thế Luật Đất đai năm 1993 (đã được sửa
đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2001) nhằm để phù hợp với nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, Điều 61, Điều 62 và Điều 63 của Luật Đất đai năm
2003 đã thừa nhận quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản.
Tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XIII,
ngày 29/11/2013 đã thông qua Luật Đất đai; Luật gồm có 14 chương với 212
Điều: Luật Đất đai 2013 được ban hành nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập
của Luật Đất đai năm 2003; tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý chặt chẽ; khai thác,
sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, đất đai, với ý nghĩa là Đất đai là tài nguyên đặc biệt
của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước.
Như vậy, chính sách đất đai từ năm 1993 đến nay đã thừa nhận quyền sử
dụng đất lâu dài của cá nhân và đảm bảo thực hiện, có sự điều chỉnh cho phù hợp
với tình hình thực tiễn.

×