Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Vị từ cầu khiến trong tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (866.44 KB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH




NGUYỄN THỊ LIÊN





VỊ TỪ CẦU KHIẾN TRONG TIẾNG VIỆT



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 602201








NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN




Thành phố Hồ Chí Minh -2007

Lời cảm ơn

Luận văn này là kết quả học tập của tôi từ tháng 10 năm 2004 đến tháng
10 năm 2007 tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh với sự giúp
đỡ của rất nhiều người.
Từ những ngày đầu khoá học, tôi đã ấn tượng sâu sắc về những tri thức
mà các bậc Giáo sư, Tiến sĩ đã truyền giảng trong từng buổi học, tôi say mê
thích thú về những vấn đề mới mẻ được gợi ra. Những ngày cuối khóa miệt mài
với luận văn, tôi lại may mắn nhận được sự chỉ bảo ân cần của các thầy, cô
trong hội đồng khoa học, đặc biệt là Phó Giáo sư Tiến sĩ Dư Ngọc Ngân, người
hướng dẫn khoa học, người cô đã dạy dỗ và động viên tôi rất nhiều.
Tôi cũng không quên những thầy cô của Phòng Khoa học Công nghệ –
Sau đại học của Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều
kiện cho tôi học tập, thực hiện và bảo vệ luận văn.
Sau cùng là lời cảm ơn chân thành của tôi đối với địa phương nơi tôi ở,
cơ quan nơi công tác, cảm ơn gia đình và các đồng nghiệp, bạn bè đã hỗ trợ và
động viên tôi học tập trong suốt thời gian qua.
Thành phố Hồ Chí Minh – 2007



QUY ƯỚC VIẾT TẮT


BN : bổ ngữ
BNĐT : bổ ngữ đối thể
BNND : bổ ngữ nội dung

HĐ : hành động
HĐCK : hành động cầu khiến
TPMR : thành phần mở rộng
VN : vị ngữ
VT : vị từ
VTCK : vị từ cầu khiến
VTHĐ : vị từ hành động
VTNH : vị từ ngôn hành
VTTT : vị từ trung tâm

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Mục đính giao tiếp của con người xét cho cùng là nhằm thoả mãn những
nhu cầu của cá nhân dựa trên các chuẩn mực xã hội. Chính vì vậy mà hành
động cầu khiến của chủ thể nói năng giữ một vai trò hết sức quan trọng. Yêu
cầu, sai khiến, ra lệnh là hành động thường xuyên và quan trọng đến mức hầu
như không một ngôn ngữ nào trên thế giới là không có kiểu câu mang ý nghĩa
này. Thế nhưng không phải bao giờ một hành động cầu khiến đưa ra cũng được
tiếp thể thực hiện theo đúng mục đích của chủ thể phát ngôn. Điều này có nhiều
lý do mà một trong những lý do rất quan trọng, có tính quyết định đó chính là
tùy thuộc vào hiệu lực ngôn trung của phát ngôn cầu khiến.
Trong tiếng Việt có nhiều phương thức để diễn đạt ý nghĩa cầu khiến:
phương thức tỉnh lược chủ ngữ, dùng từ tình thái, dùng vị từ ngôn hành, dùng
các kiểu câu mang ý nghĩa cầu khiến,v.v. Trong đó, cách diễn đạt trực tiếp bằng
biểu thức chứa vị từ cầu khiến có phạm vi sử dụng nhiều hơn cả. Do vậy, xem
xét bản chất, đăc biệt là khả năng hành chức của vị từ cầu khiến (VTCK) có ý
nghĩa rất lớn đối với việc sử dụng loại từ này trong giao tiếp ngôn ngữ thường
ngày.
Tuy nhiên, có thể nói các công trình nghiên cứu Việt ngữ từ trước đến

nay chưa đề cập một cách rõ ràng, đầy đủ bản chất các vấn đề liên quan đến
VTCK. Luận văn của chúng tôi không có tham vọng như vậy nhưng mong
muốn qua khảo sát các cứ liệu thu thập được, sẽ góp phần nhận diện rõ hơn đặc
điểm của vị từ này, làm tăng thêm hiệu quả giao tiếp khi thực hiện một hành
động cầu khiến.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong lịch sử nghiên cứu tiếng Việt, ý nghĩa cầu khiến được các tác giả
đề cập đến từ nhiều góc độ trong quá trình phân loại các lớp từ, phân chia các
kiểu câu và xem xét khả năng hiệu lực tại lời. Nhưng để khẳng định một kiểu
loại vị từ (động từ) cầu khiến thì còn nhiều quan điểm khác nhau.
2.1. Quan điểm ngữ pháp truyền thống
Các tác giả Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm chia động từ
thành 2 loại, nhưng không thấy nhắc đến VTCK trong danh sách phân loại này:
-Động từ đơn: là những tiếng động từ do một tiếng, biểu diễn hẳn một
việc gì: nói, cười, ăn, uống, mua, bán, đứng, ngồi,…
- Động từ ghép: là những tiếng động từ do hai tiếng ghép với nhau thành
một tiếng. Trong đó:
+ Do hai tiếng có nghĩa riêng ghép nhau thành một nghiã: bẩm báo, bênh
vực, buôn bán,…
+ Do hai tiếng ghép nhau mà tiếng sau có công dụng làm cho “lọn nghĩa”
tiếng đứng trước: bán rao, đánh lừa, hỏi thăm,…
+ Do một tiếng động từ ghép với danh từ: biết ơn, đánh hơi, làm việc,…
+ Do một tiếng động từ ghép với một tiếng đệm đặt sau: bàn bạc, gặp
gỡ,…
+ Do hai tiếng không có nghĩa ghép nhau thành một tiếng: ăn năn, cằn
nhằn, phàn nàn,…
Phạm Tất Đắc phân tích tự loại động từ bao gồm:
- Động từ chỉ sự hành động: ăn, nói, gặp gỡ,…
- Động từ chỉ sự thực hiện: là, thì, có.
- Động từ chỉ sự thụ động: bị, được, phải,…

Theo tác giả này “rất nhiều khi động từ không có chủ từ trong những câu
nói có ý sai khiến, khuyên răn” [9;tr.50].
Laurence C.Thompson, trong công trình A Vietnamese Grammar chia
động từ tiếng Việt thành 2 kiểu loại:
- Động từ hành động (action verb): đi, làm, hát, ở,…
- Động từ trạng thái (state verb): khó, tốt, hay, xấu, biết,…
Bùi Đức Tịnh dựa vào nghĩa để phân biệt bốn loại động từ:
-Động từ viên ý: chỉ dùng một mình với chủ ngữ cũng làm nên câu trọn
nghĩa: vâng lời, lo ngại,…
- Động từ khuyết ý: ý nghĩa tự nó không đầy đủ phải dùng với danh từ
hay đại từ bổ túc: gởi, cãi vã,…
- Động từ thụ trạng: động từ chỉ có ý nghĩa khi dùng với một tĩnh từ: trở
nên, trở thành, tức là, …
- Trợ động từ : động từ được dùng chung với động từ khác: muốn, phải,
có thể,…
Nguyễn Tài Cẩn khi khảo sát các thành phần của động ngữ, đã chỉ ra 5
kiểu loại động từ có tính chất đối lập căn bản:
- Động từ chỉ động tác có phương hướng: chạy, mang,… và động từ chỉ
động tác không có phương hướng: ăn năn, trăn trở,…
- Động từ chỉ sự việc có khả năng kết thúc: ăn, mặc, mở,… và động từ chỉ
sự việc không có khả năng kết thúc: biết, ghét, dám,…
- Động từ có khả năng tăng, giảm mức độ hành động: giận, lo,… và động
từ không có khả năng tăng, giảm mức độ: đánh, ngồi,…
- Động từ có khả năng dùng độc lập: đọc, đi, biết,… và động từ không có
khả năng dùng độc lập: toan, dám, ngỡ,…
- Động từ có thể thêm thành tố phụ: khen, thưởng, đánh,… và động từ
không thể thêm thành tố phụ: bơi, ngủ, chết,…
Lê Văn Lý phân loại tự ngữ Việt Nam ra thành:
- Loại A: danh tự
- Loại B: động tự

- Loại B’: tĩnh tự
- Loại C
1
: ngôi tự ; loại C
2
: số

tự ; loại C
3
: phụ tự
Tác giả này không phân chia, miêu tả các tự loại mà chỉ ra phương pháp
dùng các từ chứng để xác định từng loại. Chẳng hạn, những từ ngữ có thể có
ngôi tự đứng trước: tôi viết, mày học, nó chơi,… thì viết, học, chơi chính là
động tự.
Sách Ngữ pháp tiếng Việt (UBKHXH) phân loại động từ gồm:
- Động từ ngoại động: làm, viết,…
- Động từ nội động: ngủ, làm, tắm,…
- Động từ cảm nghĩ: nghe, tin, nhớ, nghi ngờ,…
- Động từ phương hướng: lên, xuống, ra, vào,…
- Động từ tồn tại: có, còn, mất, hết,…
- Động từ biến hóa: trở nên, trở thành,…
- Động từ ý chí: dám, muốn, quyết, toan,…
- Động từ tiếp thụ: bị, được, phải, chịu,…
- Động từ so sánh: bằng, thua, hơn,…
- Động từ là
Lê Cận, Phan Thiều phân loại động từ tiếng Việt có 8 tiểu loại:
- Động từ tác động đến đối tượng: ăn, cắt,viết, vẽ, làm, đánh,…
- Động từ phát nhận: biếu, cho, thu hồi, phát, nhận,…
- Động từ gây khiến: cấm, cho phép, buộc, ép, mời, khuyên, bảo,…
- Động từ chuyển động: ra, về, lăn, bò, bay,…

- Động từ xuất hiện, tồn tại, tiêu hủy: có, còn, hết, mất,…
- Động từ biến hóa: thành, trở thành, trở nên, …
- Động từ tình thái: muốn, cần, phải, nên, định,…
- Động từ cảm nghĩ , nói năng: trông, nhìn, nghe, hiểu, tin tưởng,…
- Động từ không tác động đến đối tượng: nằm, thức, đứng,…
Diệp Quang Ban chia động từ tiếng Việt thành hai tiểu loại:
- Động từ không độc lập: phải, được, bị, toan, muốn,…
- Động từ độc lập, bao gồm:
+ Động từ ngoại động: gặt, đóng, viết,…
+ Động từ gây khiến: bảo, khuyên,…
+ Động từ cảm nghĩ, nói năng: tin, tưởng,…
+ Động từ chuyển động: vào, ra, lên, đến, lăn,…
+ Động từ tồn tại: còn, có,…
+ Động từ biến hóa: trở thành, trở nên, hóa thành,…
Hoàng Văn Thung, Lê A cùng quan điểm phân loại với tác giả Diệp
Quang Ban và khẳng định những từ mời, sai, khuyên, bảo,… thuộc tiểu loại
động từ cầu khiến.
Hoàng Trọng Phiến khi miêu tả kiểu câu cầu khiến đã khẳng định có các
thực từ mang ý nghĩa cầu khiến: cấm, không được, mời, cho phép,…
Nguyễn Kim Thản phân loại động từ theo hai cách. Phân loại theo tính
chất từ pháp thì động từ tiếng Việt gồm 6 tiểu loại:
- Động từ khái quát và vận động xác định: làm lụng, yêu đương,…
- Động từ hoạt động có phương hướng: mang, nhìn,..
- Động từ hoạt động không phương hướng: bãi công, thảo luận,…
- Động từ trạng thái: trúng, tan,…
- Động từ tình cảm: yêu, ghét, ái ngại, bái phục,…
- Động từ tri giác: am hiểu, băn khoăn, mong,…
Phân loại theo tính chất cú pháp, động từ tiếng Việt gồm 6 tiểu loại:
- Động từ ngoại động: làm, ăn, đánh, viết, mang, đem,…
- Động từ bán ngoại động: nhìn, trông, nghe, yêu, ra, vào,…

- Động từ phát nhận: biếu, tặng, lấy, vay, ăn cắp, cướp đoạt,…
- Động từ gây khiến: khuyên, bảo, mời, bắt, cưỡng bức, xúi, cho,…
- Động từ đánh giá nhận xét: coi, gọi, bầu, chọn, cử, phong,…
- Động từ chỉ nhận xét của các bộ phận cơ thể: bạnh, cau, cúi, lắc,…
- Động từ cảm nghĩ, nói năng: nghĩ, tưởng, nhớ, cam đoan,…
- Động từ nội động: bò, lăn, đứng, ngồi,…
- Động từ hệ từ: thành, ra, nên, như, bằng,…
Đinh Văn Đức nêu lên một số tiểu loại động từ cơ bản, đó là:
- Động từ nội động và động từ ngoại động: chặt, viết, làm, đóng, ngồi,
ngủ, chơi, bơi,…
- Động từ tình thái - ngữ pháp: cần, muốn, phải, có thể, toan, định,…
- Động từ tổng hợp: đi đứng, nói năng, dàn xếp, trò chuyện,…
- Động từ chuyển động: ra, vào, lên, xuống,…
Nhìn chung, quan điểm của các nhà ngữ pháp truyền thống về vấn đề này
theo các xu hướng sau:
- Có tác giả không chú ý đến việc phân chia các tiểu loại động từ,
- Có tác giả không phân biệt vị từ cầu khiến với vị từ gây khiến, không
phân biệt VTCK với vị từ tình thái có ý nghĩa cầu khiến,
- Có tác giả không thừa nhận có tiểu loại VTCK trong lớp động từ tiếng
Việt.
- Có tác giả thừa nhận có VTCK nhưng không đi sâu miêu tả đặc điểm
ngữ pháp, ngữ nghĩa của lớp từ này.
2.2. Quan điểm các nhà dụng học
Cầu khiến là hành động ngôn từ, vì thế loại từ biểu hiện hành động này đã
được một số nhà nghiên cứu xem xét dưới góc độ dụng học. Người xây dựng
nền móng cho lý thuyết hành động ngôn từ là nhà triết học John L.Austin với
công trình “How to do things with words”. Austin đã phân loại các hành vi tại
lời bao gồm: phán xử (verdictives), hành sử (exercitives), cam kết
(commissives), trình bày (expositives), ứng xử (behabitives). Hành động cầu
khiến thuộc trong nhóm hành sử.

J.R. Searle cho rằng Austin đã phân loại dựa trên những tiêu chí chồng
chéo nhau và không rõ ràng. Ông đưa ra 3 tiêu chí phân loại hành động tại lời:
- Đích tại lời (illocutionary point).
- Hướng khép lời với hiện thực (direction of fit),
- Trạng thái tâm lý được thể hiện (expressed psychological states).
và 9 phương diện khác liên quan đến sự phân chia này.
Từ đó J.R. Searle đã chia hành động ngôn từ ra thành 5 loại:
i. Tái hiện (representatives):
- Đích ở lời: miêu tả lại sự tình đang được nói đến.
- Hướng thích nghi: từ hiện thực đến lời lẽ.
- Trạng thái tâm lý: niềm tin vào giá trị chân lý của điều được nói.
ii. Điều khiển (directives):
- Đích ở lời: đặt người nghe vào trách nhiệm thực hiện một hành động
tương lai.
- Hướng thích nghi: từ lời nói đến hiện thực.
- Trạng thái tâm lý: người nói (Sp1) mong muốn người nghe (Sp2) thực
hiện một hành động nào đó.
iii. Cam kết (commissives):
- Đích ở lời: trách nhiệm Sp1 phải thực hiện một hành động tương lai.
- Hướng thích nghi: từ lời nói đến hiện thực.
- Trạng thái tâm lý: ý định của Sp1 tùy thuộc vào hành động cam kết.
iv. Biểu cảm (expressives):
- Đích ở lời: bày tỏ một trạng thái tâm lý nào đó.
- Hướng thích nghi: phù hợp với hành vi ở lời và hiện thực.
- Trạng thái tâm lý: không xác định, thay đổi tùy loại hành vi.
v. Tuyên bố (declarations):
- Đích ở lời: gây ra một sự thay đổi bởi hành vi tuyên bố.
- Hướng thích nghi: từ lời nói đến hiện thực và ngược lại.
- Trạng thái tâm lý: không có đặc trưng nhưng có các thể chế tâm lý làm
cho lời tuyên bố có giá trị.

Trong cách phân loại của một số tác giả khác: D.Wunderlich, F. Recanati,
K.Bach và R.M. Harnish, ta thấy hành động cầu khiến cũng được kể đến trong
nhóm điều khiển, đề nghị, thỉnh cầu.
Ở Việt Nam, các công trình của Nguyễn Đức Dân (2000), Nguyễn Thiện
Giáp (2000), Đỗ Hữu Châu (2001) cũng đã xem xét hành động cầu khiến ở góc
độ dụng học. Nguyễn Thiện Giáp cho rằng cầu khiến là hành động mà người
nói sử dụng để khiến người nghe làm cái gì đó… Thuộc nhóm này có các hành
động như: đề nghị, yêu cầu, cho phép, ra lệnh, mời mọc, rủ rê, thỉnh cầu,
khuyên, cấm đoán, hỏi, chỉ thị,v.v. (hỏi cũng là một hành động cầu khiến)
[13,tr.48].
2.3. Quan điểm ngữ pháp chức năng
Cao Xuân Hạo (cùng các cộng sự) trong Ngữ pháp chức năng tiếng Việt -
Ngữ đoạn và Từ loại (2005) đã phân chia vị từ hành động thành hai loại:
-Vị từ chuyển tác, gồm có:
+ Vị từ hành động chuyển thái (làm cho đối tượng thay đổi trạng thái):
ách, băm, cán, dùi, đánh, ép,…
+ Vị từ hành động chuyển vị (làm cho đối tượng thay đổi vị trí): áp, ban,
dắt, đặt, gắn, giữ, hút,…
+ Vị từ hành động tạo tác (tạo ra một vật trước đó chưa có): ấp, bảo, cất,
che, in, khai, may, nói,…
+ Vị từ hành động hủy diệt (làm cho đối tượng không còn tồn tại): hủy,
xóa, bôi, giết, tẩy,…
- Vị từ vô tác, gồm có:
+ Vị từ hành động di chuyển: vào, ra, lên, xuống, chạy, đi,,…
+ Vị từ hành động cử động (thay đổi tư thế của thân thể): bấm, dậy, đạp,
húc, múa, ngẩng,…
+ Vị từ ứng xử (bộc lộ những phản ứng về thể xác và tinh thần): cười,
đùa, giỡn, khóc,…
+ Vị từ tri giác (nhằm nhận thức một đối tượng): xem, ngắm, học,…
+Vị từ cầu khiến (điều khiển một đối tượng thực hiện một hành động nào

đó): cấm, bảo, sai, xin,…
Nguyễn Thị Quy là tác giả đã trình bày khá rõ các quan điểm từ trước đến
nay về động từ tiếng Việt và có kiến giải riêng về cách phân loại vị từ hành
động theo cấu trúc tham tố, trong đó tác giả này đã xem VTCK chiếm một vị trí
đặc biệt trong các vị từ [+ tác động] ba diễn tố.
Gần đây, các bài viết trên các tạp chí ngôn ngữ, trong các công trình khoa
học của một số tác giả: Đào Thanh Lan, Chu Thị Thủy An, Nguyễn Thị Thanh
Ngân, Nguyễn Thị Thuận, Đào Nguyên Phúc, Nguyễn Thị Lương, Lê Đình
Tường, Vũ Thị Thanh Hương, Nguyễn Vân Phổ,v.v. có nhiều kiến giải rất lý
thú về khả năng hành chức của hành động cầu khiến, câu cầu khiến dưới nhiều
góc độ: tính lịch sự của hành động cầu khiến, đặc điểm nói năng của hành động
cầu khiến,v.v.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở tham kiến các nhà nghiên cứu đi trước, luận văn của chúng tôi:
- Xác định rõ đối tượng nghiên cứu là VTCK trong tiếng Việt và tiến
hành phân loại các VTCK.
- Xem xét đặc trưng ngữ nghĩa, ngữ pháp của VTCK.
- Khảo sát khả năng hành chức của VTCK trong hoạt động nói năng.
Phạm vi khảo sát của chúng tôi là những biểu thức có sử dụng VTCK
trong nói năng hàng ngày, trong một số văn bản văn chương và văn bản hành
chính - công vụ. Những ví dụ sử dụng của các tác giả đi trước nhằm mục đích
minh xác cho lý lẽ riêng sẽ được chúng tôi chú thích rõ xuất xứ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chính:
-Phương pháp thống kê, phân loại: thống kê, phân loại hệ thống VTCK
trong tiếng Việt và tần số sử dụng của chúng trên các cứ liệu được khảo sát.
-Phương pháp đối chiếu, so sánh: đặt VTCK trong hệ thống vị từ hành
động và so sánh với một số vị từ khác (vị từ tình thái, vị từ gây khiến) để xác
định rõ bản chất của VTCK.
-Phương pháp phân tích ngữ nghĩa - cú pháp: là phương pháp đặc trưng

để nghiên cứu ngữ nghĩa, cấu trúc của đối tượng.
-Phương pháp phân tích ngữ nghĩa - ngữ dụng: phân tích đặc điểm hành
chức của VTCK trong một số phạm vi sử dụng.
- Các phương pháp lập luận như: diễn dịch, quy nạp,v.v. cũng được chúng
tôi sử dụng trong khi trình bày các luận điểm.
Tùy vào từng nội dung nghiên cứu, tùy vào từng đối tượng cụ thể, các thủ
pháp, phương pháp có khi được vận dụng kết hợp hoặc sử dụng chủ yếu một
phương pháp nào đó thích hợp.
5. Y nghĩa của luận văn
5.1. Về mặt lý luận, luận văn hy vọng sẽ chỉ ra được các đặc điểm cơ bản
(về ngữ nghĩa, ngữ pháp và ngữ dụng) của một loại vị từ có ý nghĩa rất lớn
trong nói năng; hệ thống và phân loại được các VTCK trong tiếng Việt, góp
thêm tiêu chí để phân định vị từ cầu khiến (directive verb) với các loại vị từ gây
khiến (causative verb) và vị từ tình thái (modal verb) mang ý nghĩa cầu khiến.
5.2. Về mặt thực tiễn, khi hiểu được khả năng kết hợp cú pháp, phạm vi
hành chức, ý nghĩa trong nói năng của vị từ cầu khiến, người sử dụng tiếng Việt
(với tư cách là chủ thể cầu khiến) sẽ thực hiện một cách hiệu quả những mong
muốn đối với người nghe (với tư cách là đối thể thực hiện các yêu cầu).
Mặt khác, những lý giải của chúng tôi trong luận văn hy vọng cũng sẽ
góp phần làm rõ thêm một số nội dung giảng dạy từ ngữ tiếng Việt hiện nay ở
nhà trường.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phần
chính của luận văn bao gồm 2 chương.
Ở chương một, qua xem xét bản chất của hành động cầu khiến, luận văn
xác lập khái niệm vị từ cầu khiến, cung cấp một danh sách VTCK và phân loại
các nhóm VTCK trong tiếng Việt.
Ở chương hai, luận văn khảo sát đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của
VTCK trong các phạm vi hành chức. Nghĩa của một VTCK đã chi phối các
tham tố của nó, xác lập tư cách của nó khi tham gia tạo lập các biểu thức ngôn

ngữ trong giao tiếp. Ở chương này, khi xem xét VTCK trong các biểu thức ngữ
vi, bước đầu chúng tôi cũng đã chỉ ra một số đặc điểm ngữ dụng của lớp từ này.









CHƯƠNG MỘT :
VỊ TỪ CẦU KHIẾN CÁC NHÓM VỊ TỪ CẦU
KHIẾN TRONG TIẾNG VIỆT


1.1. Hành động cầu khiến
Trong phần này, luận văn sẽ đề cập một số vấn đề liên quan đến ý nghĩa cầu
khiến, hành động cầu khiến và phân loại các hành động cầu khiến, từ đó xác
định VTCK và các vấn đề liên quan mà đề tài đã đặt ra.
1.1.1. Khái niệm cầu khiến
Cầu khiến (directive) là hành động “yêu cầu làm hay không làm một việc
gì” [29,tr.122]. Trong thực tế giao tiếp, hành động này được thực hiện ở nhiều
mức độ khác nhau, có nhiều cách thức biểu đạt khác nhau trong các ngôn ngữ.
Trong các ngôn ngữ biến hình, ý nghĩa cầu khiến được gắn với phạm trù
ngữ pháp thức (mood). Những thức thường gặp trong các ngôn ngữ đó là: thức
tường thuật, thức mệnh lệnh, thức giả định, thức điều kiện. Trong đó, thức
mệnh lệnh biểu thị nguyện vọng của người nói đối với việc thực hiện hành
động. Ý nghĩa cầu khiến trong các ngôn ngữ này thường được xác định bằng
các dấu hiệu hình thức. Chẳng hạn trong tiếng Anh, nó được đặc trưng bằng sự

vắng mặt của chủ ngữ, động từ ở nguyên dạng, không có từ tình thái cũng như
những phương tiện đánh dấu thời, thể đi kèm. Ví dụ: Don’t go out! Come in!.
Nhưng trong tiếng Việt, một ngôn ngữ thuộc loại ngôn ngữ không biến
hình, việc xác định ý nghĩa cầu khiến thật không dễ dàng. Như đã điểm qu
a ở
phần Mở đầu, có nhiều quan điểm không thống nhất trong việc phân loại
có/không có động từ cầu khiến, hoặc lẫn lộn giữa động từ cầu khiến với động từ
gây khiến. Ngay trong cách phân loại câu theo mục đính phát ngôn, ngữ pháp
truyền thống vốn đã chia câu tiếng Việt gồm: câu nghi vấn, câu cầu khiến, câu
cảm thán, câu trần thuật; nhưng đến nay đã có tác giả đặt lại vấn đề: “Không coi
câu cầu khiến là một kiểu câu riêng trong tiếng Việt mà c
hỉ là một dạng của câu
trần thuật” [15,tr.211].
Trong các công trình nghiên cứu gần đây, ý nghĩa cầu khiến trong tiếng
Việt đã được xác định có phần rõ hơn. Tác giả Bùi Thị Kim Tuyến [39,tr.46]
chỉ ra các phương thức thể hiện ý nghĩa cầu khiến trong tiếng Việt như sau:
- Phương thức trực tiếp:
+ Phương thức tỉnh lược chủ ngữ ở ngôi thứ hai: Dậy!Dậy!Dậy!
+ Phương thức dùng tiểu từ tình thái: Đấy muốn thì ăn đi!.
+ Phương thức dùng vị từ, phụ từ tình thái: Hãy nhớ lấy lời tôi!
+ Phương thức dùng vị từ ngôn hành: Bố cấm con hút thuốc!
- Phương thức gián tiếp:
+ Dùng hình thức câu khẳng định: Mẹ muốn con chăm chỉ học bài.
+ Dùng hình thức câu nghi vấn: Cái áo mưa đâu rồi nhỉ?
Chu Thị Thủy An khẳng định: “Một câu ngôn hành có vị ngữ là một động
từ ngữ vi có ý nghĩa cầu khiến sẽ trở thành một câu cầu khiến” [TL1] và công
nhận một danh sách gồm 13 động từ mang ý nghĩa cầu khiến: cấm, cho, cho
phép, đề nghị, khuyên, nhờ, mời, lạy, ra lệnh, van, xin, xin phép, yêu cầu.
Nguyễn Thị Lương chỉ ra 32 động từ biểu thị hành động cầu khiến trong
tiếng Việt là: yêu cầu, ra lệnh, hạ lệnh, lệnh, chỉ thị, đề nghị, kiến nghị, chỉ

định, phân công, phái, cấm, nghiêm cấm, buộc, bắt, cấm chỉ, xin phép, can,
bảo, cử, khuyên, mời, xin, cầu, cầu xin, cầu mong, năn nỉ, nài nỉ, nài xin, van,
van nài, van xin, nhờ [TL24].
Vũ Thị Thanh Hương cho rằng ở nghĩa hẹp, cầu khiến được hiểu là các
hành động mà S thực hiện nhằm buộc H làm một điều gì đó theo ý muốn của
mình để đem lại lợi ích cho S và thường gây thiệt hại cho H; ở nghĩa rộng, cầu
khiến là hành vi mà thông qua đó S muốn tạo ra bất kỳ một sự thay đổi nào
trong hành động của H bất kể hành động đó có lợi hay hại cho S hay H; theo
đó, cầu khiến không chỉ bao gồm ra lệnh, sai bảo, yêu cầu, nhờ vả, mà còn cả
mời mọc, xin phép [20,tr.35]. Đây cũng là quan điểm chúng tôi thừa nhận khi
xem xét các vấn đề tiếp theo.
1.1.2. Hành động cầu khiến
Cầu khiến là hành động được thực hiện bằng một phát ngôn ngữ vi. Khi yêu
cầu, sai khiến ai làm một việc gì đó, người nói phải thực hiện ngay một phát
ngôn mà cái lõi của nó phải là một biểu thức ngữ vi mang ý nghĩa cầu khiến.
Theo cách phân loại của Austin, cầu khiến là một hành vi tại lời.
J.L.Austin phân các hành động ngôn ngữ thành 3 loại lớn: hành vi tạo lời
(locutionary act) , hành vi mượn lời (perlocutionary act) và hành vi tại lời
(illocutionary act). Hành vi tại lời là hành vi người nói thực hiện ngay khi phát
ngôn. Hiệu quả của những hành vi này nằm ngay trong hiệu lực của phát ngôn
(lực ngôn trung). Chúng đặt người nói và người nghe vào những nghĩa vụ và
quyền lợi mới so với trước khi phát ngôn. Chẳng hạn, khi ra lệnh cho ai, ngay
sau đó chúng ta phải chịu trách nhiệm về cái lệnh của mình và đặt người nghe
vào tình trạng phải thực hiện (hay không thực hiện) lệnh của chúng ta. Hành vi
tại lời là một hành vi có đích, được quy ước và có thể chế (dù không được hiển
ngôn) mà mọi người trong một cộng đồng ngôn ngữ phải tuân theo.
Theo Austin có 3 điều kiện để đảm bảo hành vi tại lời thực hiện được [dẫn
theo Đỗ Hữu Châu-6,tr.112]:
i) Phải có thủ tục có tính chất quy ước và thủ tục này phải có hiệu quả cũng
có tính quy ước; hoàn cảnh và con người phải thích hợp với những điều quy

định trong thủ tục;
ii) Thủ tục phải được thực hiện một cách đúng đắn và đầy đủ;
iii) Thông thường thì những người thực hiện hành vi ở lời phải có ý nghĩ,
tình cảm và ý định đúng như đã được đề ra trong thủ tục và khi hành động diễn
ra thì ý nghĩ, tình cảm, ý định đúng như nó đã có.
J.R. Searle bổ sung thêm các điều kiện cần để cho một hành vi tại lời đạt
hiệu quả đúng với đích của nó:
i) Điều kiện nội dung mệnh đề: chỉ ra bản chất nội dung của hành động. Nội
dung mệnh đề có thể là một hành động của người nói hay một hành động của
người nghe.
ii) Điều kiện chuẩn bị: đó là những hiểu biết của người phát ngôn về năng
lực, lợi ích, ý định của người nghe và về các quan hệ giữa người nói và người
nghe.
iii) Điều kiện chân thành: chỉ ra các trạng thái tâm lý tương ứng của người
phát ngôn.
iv) Điều kiện căn bản: đây là điều kiện đưa ra kiểu trách nhiệm mà người
nói hoặc người nghe bị ràng buộc khi phát ngôn.
Ông miêu tả các điều kiện của một hành động thỉnh cầu như sau:
- Nội dung mệnh đề: hành vi tương lai A của người nghe H.
- Chuẩn bị: H có khả năng thực hiện A (theo chủ ý của người nói S). Nếu
không thỉnh cầu thì cả đối với S cả đối với H không chắc rằng H sẽ tự thực hiện
A bất kể thế nào.
- Chân thành: S mong muốn rằng H sẽ thực hiện A.
- Căn bản: nhằm dẫn H đến việc thực hiện A.
Như vậy có thể nói, hành động cầu khiến là một hành động ngôn từ nhằm
điều khiển một đối tượng thực hiện một hành động nào đó.
1.1.3. Phân loại hành động cầu khiến
Theo hướng phân loại của Austin và Grice, tác giả Bùi Thị Kim Tuyến đã
chia hành động cầu khiến gồm hai loại [39,tr.35]:
- Cầu khiến cạnh tranh: là loại HĐCK với lợi ích của việc thực hiện thường

thuộc về người nói hoặc trung hòa hoặc không thuộc về người nghe. Đó là
những hành động như: ra lệnh, thỉnh cầu, nhờ vả, xin phép,v.v. Xét về vị thế
giao tiếp, loại này có thể chia ra hai loại: vị thế người nói cao hơn người nghe
(ra lệnh, bắt buộc), vị thế người nói thấp hơn hoặc ngang bằng người nghe
(thỉnh cầu, nhờ vả,v.v.)
- Cầu khiến hòa đồng: là loại HĐCK với lợi ích của việc thực hiện thường
thuộc về người nghe hoặc trung hòa hoặc không thuộc về người nói. Đó là
những hành động như: khuyên răn, mời mọc,v.v.
Cũng có quan điểm căn cứ vào phương thức thể hiện, chia HĐCK thành
HĐCK trực tiếp và HĐCK gián tiếp [x.mục 1.1.1].
Căn cứ vào lý thuyết hành vi ngôn ngữ và các quy tắc hội thoại, chúng tôi
đề nghị có bốn cách phân loại HĐCK như sau:
a) HĐCK thực hiện/không thực hiện một việc.
- HĐ thực hiện: sai, nhờ, mời, phân công,v.v.
- HĐ không thực hiện: can, cấm, nghiêm cấm, v.v.
b) HĐCK có lợi/không có lợi đối với người nghe.
- HĐ có lợi đối với người nghe: khuyên, mời, cử,v.v.
- HĐ không có lợi đối với người nghe: ra lệnh, bức, cấm,v.v.
c) HĐCK lịch sự/không lịch sự.
- HĐ lịch sự: xin, mời, xin mời, xin phép,v.v.
- HĐ không lịch sự: cấm, buộc, yêu cầu, đề nghị,v.v.
d) HĐCK có vai giao tiếp ngang bằng/không ngang bằng.
- Ngang bằng: bảo, can, nhờ, v.v.
- Không ngang bằng: yêu cầu, cấm, van xin, khẩn cầu,v.v.
Thật ra, sự phân loại này chỉ mang tính tương đối vì trong thực tế nói năng
việc nhận diện đích tại lời, các điều kiện mệnh đề, các vai tham thoại hoặc mức
độ lịch sự/không lịch sự,v.v. còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố của ngữ cảnh.
Chẳng hạn, trong phong cách hành chính, hành vi xin được sử dụng ở mọi vai
giao tiếp. Ví dụ:
(1)

Xin các đồng chí cho biểu quyết!
(2)
Tôi xin được phát biểu ý kiến!
Đối với hành vi mời, tùy hoàn cảnh giao tiếp mà có lợi hoặc không có lợi
đối với người nghe:
(3)
Tôi mời anh đi ra ngay!
(4)
Mời anh lên hàng ghế trên ngồi!
Chấp nhận việc phân loại theo nhiều tiêu chí như trên sẽ giúp ta hiểu được
đặc điểm hoạt động của HĐCK dưới nhiều giác độ.
1.2. Vị từ cầu khiến
1.2.1. Vị từ
“Vị từ là một từ có thể tự mình làm thành một vị ngữ (hay một ngữ đoạn
biểu thị nội dung của cái sự tình được trần t
huật trong câu) hoặc làm trung tâm
cho ngữ đoạn ấy” [14,tr.355].
Liên quan đến định nghĩa trên, cần nói rõ thêm mấy vấn đề sau:
Câu trong tiếng Việt có hai thành phần chính. Có nhiều cách gọi tên khác
nhau đối với hai thành phần này (Chủ ngữ - Vị ngữ, Chủ đề - Thuật đề, Đề -
Thuyết,v.v.) nhưng về cơ bản các tác giả đều thống nhất mỗi thành phần là một
ngữ đoạn có cấp bậc cao nhất trong các bộ phận bậc dưới câu. Ngữ đoạn ở
thành phần thứ hai là ngữ vị từ (vị ngữ). Ngữ vị từ làm cái lõi của sự tình do
một vị từ đảm nhiệm.
Căn cứ vào nghĩa biểu hiện người ta chia vị từ thành hai loại: VT biểu thị
nội dung sự tình (một hành động, một trạng thái, một tư thế, một quá trình) và
VT tình thái biểu thị thái độ của người nói đối với nội dung sự tình hoặc với
tham tố của sự tình. Đăc điểm của vị từ được xem xét ở nghĩa của VT và các
tham tố (diễn tố và chu tố) của nó. Diễn tố là tham tố bắt buộc cùng với VT tạo
thành vị ngữ hạt nhân. Chu tố là tham tố không bắt buộc, bổ sung cho VN hạt

nhân, là thành phần mở rộng của VN hạt nhân. Trong kết hợp cú pháp với VT,
các tham tố đảm nhận một số vai nghĩa nhất định (do một ngữ danh từ, một ngữ
vị từ, một tiểu cú biểu hiện) như: vai tác thể, vai hành thể, vai động thể, vai
nghiệm thể, vai đương thể, vai tạo thể, vai tiếp thể, vai mục tiêu, vai đích, vai
nguồn, vai công cụ, vai vị trí, vai thời gian, vai nguyên nhân, vai mục đích, vai
phương thức, vai nội dung, v.v.
Là một ngữ đoạn biểu hiện nội dung của sự tình, vị từ có thể đảm đương
một trong các chức năng cú pháp sau: làm một thành phần chính của câu, làm
trung tâm cho một ngữ đoạn, làm phụ ngữ cho một ngữ đoạn chính phụ có bậc
cao hơn.
Ngữ pháp truyền thống vốn xem động từ (verb) và tính từ (ad
jective) là
những loại từ có khả năng làm vị ngữ (ngữ vị từ) của câu. Những từ tự thân làm
ngữ vị từ không phải chỉ có từ chỉ hành động (động từ), từ chỉ tính chất (tính từ)
mà còn có các từ chỉ trạng thái, tư thế,v.v. Ví dụ: Nước hết rồi. Mưa đã tạnh.
Cửa đã mở.
Chính vì vậy, Dik.S.C (1978) đã đưa ra một cách phân loại vị từ căn cứ vào
tính [+
động], [+ chủ ý], theo đó vị từ có bốn loại: vị từ hành động, vị từ tư thế,
vị từ trạng thái, vị từ quá trình.
[ + động]
Biến cố
[ - động]
Tình trạng
[ + chủ ý]
Hành động Tư thế
[ - chủ ý]
Quá trình Trạng thái
Trên cơ sở đó, các nhà ngữ pháp chức năng tiếng Việt đã chia vị từ tiếng
Việt thành các loại như sau [18,tr.28]:









Trong đó vị từ hành động (VTHĐ) được chia thành:
- VTHĐ chuyển tác: tác động (chuyển thái, chuyển vị) và tạo diệt (tạo tác,
hủy diệt).
- VTHĐ vô tác: di chuyển (có hướng, không có hướng) và không di chuyển
(cử động, ứng xử).
1.2.2. Vị từ cầu khiến
VTCK là một tiểu loại của vị từ hành động. Nguyễn Thị Quy khi phân loại
các vị từ hành động đã xem VTCK là vị từ hành động có khả năng tham gia vào
những kết cấu cầu khiến [32,tr.68]. Từ đó tác giả này đã đưa ra một danh sách
các vị từ cầu khiến bao gồm VTCK chuyên biệt bao giờ cũng được dùng trong
những kết cấu cầu khiến: mời, sai, cho phép, thỉnh cầu, ra lệnh, cho, giục và
VTCK không chuyên biệt có thể dùng trong nhiều kết cấu khác: bảo, bắt, cầu,
cầu xin, cử, đòi, nài, nài nỉ, năn nỉ, phái, van, van nài, van xin, xin, dặn,v.v.
Vì hành động cầu khiến là hành động được thực hiện bằng một phát ngôn
ngữ vi (có hoặc không có VTCK). Cho nên, từ điểm này, Nguyễn Vân Phổ đã
xem VTCK là một “nhóm biểu hiện” của VT nói năng có thể tham gia vào kết
TIÊU CHÍ
VỊ TỪ
động chủ ý
Vị từ hành động + +
Vị từ quá trình + -
Vị từ tư thế - +

Vị từ trạng thái - -
Vị từ tình thái + +
cấu cầu khiến [31,tr.22]. Chẳng hạn: bảo, dặn, sai, nhờ, ra lệnh, đề nghị, yêu
cầu, thuyết phục, kêu gọi, năn nỉ, nài, nài nỉ, nhắc, cầu xin, mời, rủ, khuyên,
giục, thúc giục, hối thúc, xúi giục,v.v. Thật ra, VTCK cũng là một tiểu loại của
vị từ nói năng nhưng không phải bất cứ VTCK nào cũng có thể tham gia vào
hành động nói; có những VT chỉ có giá trị miêu tả hành động cầu khiến (x. mục
2.4.2.).
Các tác giả Ngữ pháp chức năng tiếng Việt – Ngữ đoạn và Từ loại xem
VTCK là một loại vị từ ứng xử, điều khiển một đối tượng thực hiện một hành
động nào đó (nhưng không gây nên một quá trình hiện thực, không có lực
xuyên ngôn). Chẳng hạn: bầu, bổ, cấm, cử, hứa, khuyên, mời, sai, xin,v.v.
[18,tr.53].
VTCK là vị từ biểu thị một hành động cầu khiến (tỏ ý muốn, bắt ai đó làm
một việc gì đó). Như đã nói, hành động cầu khiến không chỉ bao gồm ra lệnh,
sai bảo, yêu cầu, nhờ vả, mà còn cả mời mọc, xin phép. Cho nên, một VT hành
động khi có một trong các nghĩa như trên (hoặc tiềm tàng những nét nghĩa như
trên) mới có khả năng tham gia vào kết cấu cầu khiến.
Trên cơ sở đó, chúng tôi đề nghị một danh sách các VTCK trong tiếng Việt
bao gồm: yêu cầu, ra lệnh, lệnh, đề nghị, kiến nghị, cấm, nghiêm cấm, bắt buộc,
bắt, cho, cho phép, phân công, phái, can, cử, bảo, sai, mời, nhờ, xin, xin phép,
khuyên, cầu, cầu xin, van, van xin, năn nỉ, nài nỉ, chúc, lạy, v.v.(xem phụ lục 1).
1.2.3. Phân biệt vị từ cầu khiến/vị từ gây khiến
VTCK hàm chứa các nét nghĩa cầu khiến, thể hiện hành động yêu cầu, sai
khiến của người nói đối với người nghe. Trong các phát ngôn ngữ vi, VTCK thể
hiện ý mong muốn của người nói, không co ý nghĩa hiện thực, được thực hiện
trong một hoàn cảnh nói năng nhất định, thực hiện chỉ một lần ngay khi phát
ngôn với một đối tượng có khả năng nhận thức được. Ví dụ:
(5)
Tôi bảo anh đi ra ngoài!

“Bảo”là VT biểu thị một hành động ra lệnh, “tôi” là chủ thể của hành động
này. Khi phát ngôn, người nói có mong muốn, yêu cầu người nghe thực hiện
một nội dung “đi ra ngoài”. Phát ngôn này đồng thời cũng là một hành động ra
lệnh. Mặc dù hành động mang tính bắt buộc, nhưng việc thực hiện điều mong
muốn “đi ra ngoài”đó có hay không là còn tùy thuộc vào khả năng của người
nghe, là việc ở phía sau lời nói chứ chưa phải là hiện thực.
Còn trong ví dụ sau:
(6)
Tôi làm nó giận.
“Làm” là một vị từ biểu hiện hành động chuyển tác có ý gây khiến, “tôi” là
chủ thể của hành động này. Làm không phải là hành động ngôn hành. Làm là
một hành động vật lý tác động đến một đối tượng, gây ra một kết quả trong hiện
thực (nó giận).
Trong kết hợp cú pháp, VT cầu khiến và VT gây khiến tuy có hình thức kết
cấu giống nhau: CT + V
1
+ D
n
+ V
2
(CT: chủ thể, V
1
: vị từ thứ nhất, D
n
: danh
ngữ, V
2
: vị từ thứ hai) nhưng bản chất là rất khác. Nguyễn Thị Quy đưa ra 7 chỗ
khác nhau giữa hai loại kết cấu này như sau [32,tr.70]:
i. Kết cấu gây khiến kết quả, ngoài dạng trên đây còn có thể có dạng

V
1
V
2
D
n
(làm vỡ bát); kết cấu cầu khiến không thể có dạng này. (chỉ có thể nói
sai con đi, không thể nói sai đi con).
ii. Vị từ trung tâm của kết cấu cầu khiến là một vị từ có nghĩa “nói”; vị từ
trung tâm của kết cấu gây khiến - kết quả là một vị từ chuyển tác (cập vật), bất
kỳ, không có nghĩa nói: làm (cho), khiến (cho), buộc, bẻ (gãy), đốt (cháy), đánh
(gục, chết, bại, sập, vỡ).
iii. Chủ thể của vị từ thứ hai (V
2
) trong kết cấu cầu khiến là một người hay
một động vật có thể sai khiến được; chủ thể thứ hai trong kết cấu gây khiến -
kết quả là một vật bất kỳ (động vật hay bất động vật).
iv. Vị từ thứ hai (V
2
) trong kết cấu cầu khiến là một vị từ [+ chủ ý], vị từ
thứ hai trong kết cấu gây khiến là một vị từ bất kỳ, và thường là một vị từ quá
trình
- Chủ ý hay trạng thái - Chủ ý
+ Động - Động
v. Trong kết cấu gây khiến, hành động của chủ thể gây ra một kết quả hiện
thực, dù là tích cực hay tiêu cực (bẻ gãy cái que, bẻ cái que gãy đôi, bẻ cái que
không gãy). Vị từ thứ hai (V
2
) biểu hiện cái kết quả ấy. Nó có thể được phủ
định bằng không, chẳng, chả.

So sánh:
a. N bẻ cái que gãy đôi, * nhưng nó không gãy.
a’. N bảo em đi chợ nhưng nó không đi.
b. N bẻ cái que không gãy, * nhưng nó vẫn gãy.
b’. N bảo đứa em đừng đi nhưng nó vẫn đi.
b’’. ? N bảo đứa em không đi (chẳng đi, chả đi).
Trong kết cấu cầu khiến, hành động của chủ thể là một phát ngôn mà nội
dung là phần D
n
V
2
. Cái nội dung này chỉ là một sự mong muốn chứ không phải
là một sự việc hiện thực, cho nên V
2
có thể được khẳng định bằng hãy, nên và
được phủ định bằng đừng, chớ (chứ không phải bằng không, chẳng, chả).
vi. Giữa D
n
chỉ chủ thể và V
2
của kết cấu cầu khiến không thể chen bất cứ
từ nào, trừ phải (nếu V
1
là bắt, ra lệnh, cho, đòi)

và được (nếu V
1
là cho phép);
giữa D
n

chỉ chủ thể và V
2
của kết cấu gây khiến có thể chen từ phủ định không
hay chưa và từ chỉ mục tiêu cho.
vii. Trong một kết cấu cầu khiến, chủ thể của V
2
chỉ có thể là danh ngữ làm
bổ ngữ, trong một kết cấu gây khiến - kết quả, chủ thể của V
2
có thể là chủ ngữ
của V
1
, nghĩa là chủ thể của hành động gây khiến.
Cũng theo tác giả này, vì sự khác nhau ở hai điểm iii và iv, chỉ có kết cấu
cầu khiến mới có thể dùng làm một tiêu chí hình thức để phân biệt các vị từ [+
chủ ý] và [- chủ ý].
Theo Cao Xuân Hạo: “Những vị từ như bảo, khuyên, sai,v.v. được ngữ pháp
truyền thống gọi là “động từ gây khiến”. Thực ra, nếu cần phải gọi tên những vị
từ này thì phải gọi chúng là những vị từ biểu thị hành động điều khiển (một loại
vị từ ứng xử) và chúng hoàn toàn khác với những vị từ biểu thị hành động gây
khiến. Hành động gây khiến thực chất là một hành động chuyển tác. Hành động
này gây nên những quá trình hiện thực (có thể được nói ra hoặc không được nói
ra trong câu), chẳng hạn: đánh đổ, đánh tan, làm vỡ,v.v. Trong khi đó hành
động điều khiển có thể không gây nên một kết quả như vậy (không có lực
xuyên ngôn) [18,tr.53].
Có thể xem có/không có lực xuyên ngôn cũng là một tiêu chí để phân biệt
vị từ gây khiến/vị từ cầu khiến trong tiếng Việt.
1.3. Các nhóm vị từ cầu khiến trong tiếng việt
1.3.1. Các quan điểm phân chia tiểu loại VTCK
Có rất ít công trình nghiên cứu đi sâu vào việc phân chia các tiểu loại trong

VTCK. Người ta căn cứ vào các tiêu chí khác nhau để đưa ra những cách phân
loại như sau:
1.3.1.1. Căn cứ vào tính áp đặt của vị từ
Chu Thị Thủy An cho rằng các động từ ngữ vi có nghĩa cầu khiến là các
động từ có tình thái áp đặt với các mức độ khác nhau; căn cứ vào mức độ áp đặt
có thể chia động từ này thành bốn nhóm:
Nhóm 1: nhóm có tính áp đặt tuyệt đối, gồm: ra lệnh, cấm, yêu cầu. Khi sử
dụng các động từ này, vị thế người nói cao hơn người nghe.
Nhóm 2: nhóm có tính áp đặt trung bình, gồm: cho, cho phép, đề nghị,
khuyên. Trong nét nghĩa của các động từ này có sắc thái thương lượng. Người
nghe vẫn có phản hồi về việc thực hiện hay không thực hiện nội dung cầu
khiến.
Nhóm 3: nhóm có tính áp đặt thấp, gồm: nhờ, mời. Người nói ở vị thế nào
khi sử dụng các từ này cũng phải tự hạ mình, hạ vị thế giao tiếp của mình.
Nhóm 4: nhóm có tính áp đặt rất thấp, gồm: xin, xin phép, lạy, van. Đặc
điểm chung nhóm này là mang đậm sắc thái thương lượng. Người nói phải tự
hạ vị thế của mình rất thấp mới có thể thuyết phục được người nghe.
Tác giả này đã đưa ra thang độ về tính áp đặt của các động từ ngữ vi có
nghiã cầu khiến như sau:



Ra lệnh, cấm
Yêu cầu
Đề nghị
Cho phép
Khuyên
Mời
Nhờ
Xin phép, xin, van, lạy

1.3.1.2. Căn cứ vào nghĩa của các vị từ
Căn cứ vào nghĩa của các vị từ, Chu Thị Thủy An còn đưa ra một hướng
phân loại khác như sau:
Nhóm các động từ: ra lệnh, cấm, yêu cầu, đề nghị. Đây là các động từ có
chung nét nghĩa: đưa ra một yêu cầu tỏ ý muốn người khác thực hiện. Sự khác
nhau giữa các động từ trong nhóm là ở mức độ bắt buộc.
Nhóm các động từ: nhờ, mời, khuyên. Đây là các động từ có sự đối lập nhau
về tính lợi ích (thuộc về người nói hoặc thuộc về người nghe).
Nhóm các động từ: xin, xin phép, cho, cho phép. Các động từ này có đích
đến là hành vi cho phép của người nghe.
Nhóm các động từ: van, xin, lạy. Cả ba động từ có nhiều nét tương đồng
trong hoạt động giao tiếp, thể hiện sự khẩn khoản, tha thiết, nhún nhường của
người nói khi cầu xin một điều nào đó.
Hai cách phân loại trên tuy đã được tác giả miêu tả chi tiết nhưng cũng
không thỏa đáng với khá nhiều trường hợp trong thực tế. Chẳng hạn, xin là một
cách nói tỏ ý lịch sự nhưng nhiều khi lại mang tính áp đặt rất cao, vai người nói
cao hơn người nghe. Những cách nói sau đây được hiểu là một lời yêu cầu, ra
lệnh: Xin anh đi ngay cho! Xin anh im đi!v.v.
1.3.1.3. Căn cứ vào tính thuận/nghịch chủ ý tiếp nhận

×