Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Đề tài "Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam "

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.74 KB, 87 trang )


LUẬN VĂN
"Một số giải pháp hạn chế rủi ro
trong phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ tại Sở giao dịch I -
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam "
LỜI CẢM ƠN
Trước khi trình bày luận văn, tôi xin trân trọng cảm ơn thày Đinh
Xuân Trình - giáo viên hướng dẫn cùng toàn thể các anh, chị công
tác tại phòng Thanh toán quốc tế, Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu
tư và phát triển Việt Nam đã chỉ bảo tận tình, hết lòng giúp đỡ tôi
hoàn thành khoá luận này.
Sinh viên
Lưu Phương Lan
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................1
CHƯƠNG I: RỦI RO VÀ CÁC RỦI RO TRONG PHƯƠNG THỨC
THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG
TỪ.......................................................4
I. Khái niệm về rủi ro và phân loại...........................................................4
1. Khái niệm..................................................................................................5
2. Phân loại....................................................................................................6
II. Các rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng
từ..............6
1. Các rủi ro thường gặp trong phương thức thanh toán tín dụng chứng
từ...6
1.1 Rủi ro kỹ thuật.....................................................................................6
1.2 Rủi ro đạo đức...................................................................................12
1.1 Rủi ro chính trị..................................................................................15
2. Các loại L/C và những rủi ro tiềm


ẩn.......................................................17
2.1 Khái niệm L/C...................................................................................17
2.2 Nội dung của L/C..............................................................................17
2.3.Các loại L/C và những rủi ro tiềm ẩn................................................19
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG THANH TOÁN TÍN
DỤNG CHỨNG TỪ TẠI SỞ GIAO DỊCH I - NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ
VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM......................................................................23
I. Lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam và Sở giao dịch
I...................................................................24
1. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam luôn xứng đáng là ngân hàng
xung kích phục vụ đầu tư phát
triển.........................................................24
2. Sự ra đời và phát triển của Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam...............................................................................29
2.1 Sự ra đời............................................................................................29
2.2.Hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam trong những năm gần đây.................................30
II. Thực trạng rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao
dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam.............................32
1. Khái quát về tình hình thanh toán quốc tế tại
SGDI................................32
2. Tình hình rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam...............................................38
2.1. Vận dụng phương thức tín dụng chứng từ trong hoạt động thanh
toán xuất nhập khẩu tại
SGDI..........................................................38
2.2. Thực trạng về rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở
giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt

Nam...................46
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN
CHẾ RỦI RO TRONG PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG
CHỨNG TỪ TẠI SỞ GIAO DỊCH I - NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ
PHÁT TRIỂN VIỆT NAM.............................................................................55

I. Quan điểm định hướng trong việc đưa ra các giải
pháp....................55
1. Các định hướng
chung.............................................................................55
1.1. Các giải pháp phải phù hợp với thông lệ quốc
tế.............................56
1.2. Tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu phát triển..................57
1.3. Phù hợp với tình hình thực tế Việt
Nam..........................................58
2. Định hướng hoạt động của Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam................................................................................58
2.1 Định hướng hoạt động chung..........................................................58
2.2 Định hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế bằng
phương thức thư tín dụng tại SGDI - Ngân hàng ĐT & PT
VN......59
II. Những giải pháp chủ yếu......................................................................60
1. Những giải pháp tầm vĩ mô.....................................................................60
1.1. Sớm nghiên cứu, soạn thảo và áp dụng hệ thống luật, tạo môi
trường pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc
tế............................60
1.2. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.................................................61
1.3. Tổ chức thực hiện tốt thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, tạo điều
kiện cho thị trường hối đoái Việt Nam ngày càng phát triển..........62
2. Những giải pháp tầm vi mô.....................................................................62

2.1. Chuẩn hoá quy trình nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng
từ.........62
2.2. Nâng cao trình độ nghiệp vụ thanh toán
viên..................................63
2.3. Tăng cường công tác quản lý và sử dụng tốt các hình thức
L/C......63
2.4. Mở rộng có hiệu quả mạng lưới ngân hàng đại lý và cơ cấu tiền
gửi ngoại tệ hợp lý...........................................................................64
2.5. Những giải pháp về hoạt động nghiệp
vụ.........................................65
2.6. Giải pháp về nguồn ngoại tệ để thanh toán L/C..............................67
2.7. Đảm bảo khả năng thanh toán trên cơ sở quản trị rủi ro hoạt
động ngoại bảng..............................................................................68
2.8. Giải pháp về mặt kiểm tra - kiểm
soát.............................................69
2.9. Giải pháp về hạn chế rủi ro từ phía khách hàng..............................69
3. Kiến nghị.................................................................................................70
3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước và các ngành có liên
quan..................70
3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà
nước...........................................73
3.3. Kiến nghị đối với Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam.........................................................................................73
KẾT LUẬN .....................................................................................................81
Danh sách tài liệu tham khảo.........................................................................82
DANH SÁCH BẢNG BIỂU
* Biểu đồ
1. Biểu đồ 1: Tổng doanh số TTQT và thanh toán bằng L/C các năm qua
* Bảng biểu
1. Bảng 1. Tình hình thanh toán xuất nhập khẩu qua Sở giao dịch I trong

những năm gần đây
2. Bảng 2. Doanh số thanh toán xuất khẩu, nhập khẩu tại SGDI - Ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong những năm qua.
3. Bảng 3. Tỷ trọng các phương thức thanh toán quốc tế trong SGDI
4. Bảng 4. Hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức L/C tại SGDI
5. Bảng 5. Dư nợ bảo lãnh L/C trả chậm tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu
tư và phát triển Việt Nam
DANH SÁCH CÁC KÝ TỰ VIẾT TẮT
1. ATM : Máy rút tiền tự động
2. HĐBT : Hội đồng bộ trưởng
3. L/C : Thư tín dụng
4. BIDV : Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
5. SGDI : Sở giao dịch I
6. UCP 500 : Quy tắc thống nhất và thực hành về tín dụng
chứng từ số 500
7. USD : Đô la Mỹ
8. VND : Việt Nam đồng
9. XNK : Xuất nhập khẩu
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, trong xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá của nhân loại, hoạt
động kinh tế quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ và chiếm một vị trí quan
trọng đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta. Với
tư cách là chất xúc tác cho sự phát triển của thương mại quốc tế, công tác thanh
toán quốc tế cũng không ngừng được mở rộng và phát triển. Song, khi thương
mại quốc tế càng phát triển thì mối quan hệ giữa người mua và người bán càng
trở nên đa dạng và phức tạp. Điều này đồng nghĩa với nguy cơ rủi ro ngày càng
cao trong buôn bán quốc tế nói chung và thanh toán quốc tế nói riêng. Bằng
chứng là nếu nhìn lại công tác thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương
mại Việt Nam trong thời gian qua, điều làm chúng ta không khỏi lo ngại là

những con số thiệt hại đáng kể trong nghiệp vụ thanh toán hàng hoá xuất nhập
khẩu theo phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Nếu xét trong cả nền
kinh tế, hàng năm rủi ro trong phương thức này có thể lên tới hàng trăm triệu
USD, đe dọa sự an toàn trong kinh doanh của cả ngân hàng và các doanh
nghiệp.
Trong khi đó, với sự non trẻ và còn ít kinh nghiệm thực tế trong thanh
toán quốc tế, các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Sở giao dịch I
- Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nói riêng đang gặp rất nhiều khó
khăn trong việc đối phó với xu thế hội nhập ngân hàng khu vực và quốc tế
cũng như tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt. Do vậy, việc hoàn thiện và
phát triển công tác thanh toán quốc tế cụ thể là nghiên cứu và phòng tránh các
rủi ro trong thanh toán quốc tế là một trong các mối quan tâm hết sức cấp bách
và thường xuyên của mỗi ngân hàng.
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài
khóa luận tốt nghiệp là: Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong phương thức
thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam

cũng chỉ với mục đích làm sáng tỏ vị trí, vai trò của phương
thức thanh toán tín dụng chứng từ trong nền kinh tế, luận giải có tính hệ thống
cơ sở lý luận và thực tiễn, các ưu nhược điểm và nguyên nhân gây ra rủi ro
trong phương thức thanh toán này. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện và hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán tín
dụng chứng từ nói riêng.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đây là đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề chung nhất về các rủi ro
trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ và những giải pháp để hạn chế
rủi ro đó.
3. Phạm vi nghiên cứu
Với phạm vi của một khoá luận, tôi cũng chỉ xin tập trung nghiên cứu và

trình bày các cơ sở lý luận theo thông lệ quốc tế liên quan đến hoạt động thanh
toán tín dụng chứng từ, thực tiễn về hoạt động này tại Sở giao dịch I - Ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong những năm gần đây (từ năm 1999
đến 2002).
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu và cho ra đời sản phẩm có hiệu quả, tôi đã sử dụng tập
hợp các phương pháp như duy vật biện chứng, phân tích, tổng hợp, thống kê,
so sánh... cùng với việc tham khảo các sách, tài liệu trong và nước ngoài có
liên quan.
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận này có bố cục như sau:
Chương I: Rủi ro và các rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ.
Chương II: Thực trạng rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở
giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro trong
phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I - Ngân hàng
đầu tư và phát triển Việt Nam.
CHƯƠNG I
RỦI RO VÀ CÁC RỦI RO TRONG PHƯƠNG THỨC
THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ.
I. Khái niệm về rủi ro và phân loại
Kể từ đại hội Đảng VI - năm 1986, với chủ trương phát triển nền kinh tế
mở cửa nhằm nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với các nước
trong khu vực và trên thế giới, quan hệ thương mại giữa nước ta với các nước
đang không ngừng tăng lên. Hằng năm, kim ngạch xuất nhập khẩu ở nước ta
đạt bình quân khoảng từ 15 đến 18 tỷ USD (năm 1997 đạt khoảng 20 tỷ USD)
trong đó ước tính đến 90% sử dụng phương thức thanh toán bằng thư tín dụng.
Qua đó có thể thấy được rằng nhờ vào tính ưu việt của mình, phương thức tín
dụng chứng từ đã được sử dụng rộng rãi và đã góp phần đáng kể trong việc tạo

ra những kết quả đáng khích lệ nói trên. Vì vậy, nếu một doanh nghiệp mới vào
nghề kinh doanh xuất nhập khẩu cần một lời khuyên của ngân hàng trong thanh
toán thì lời khuyên đó sẽ là: "hãy chọn phương thức thanh toán tín dụng chứng
từ để đảm bảo Quyền và Nghĩa vụ của cả hai phía: người bán giao hàng sẽ
được trả tiền, người mua trả tiền được quyền nhận hàng, trên cơ sở các nguyên
tắc của UCP 500".
Tuy nhiên, do chúng ta đang trong quá trình hội nhập và mới làm quen
với các giao dịch kinh tế trong điều kiện cơ chế thị trường trong khi đối tác là
các nhà buôn chuyên nghiệp nước ngoài đã có kinh nghiệm hàng trăm năm nên
không tránh khỏi nhiều bỡ ngỡ, sai lầm dẫn đến những thiệt hại nghiêm trọng.
Thêm vào đó, đội ngũ chuyên gia giỏi thuộc các lĩnh vực liên quan còn thiếu
do công tác giáo dục, đào tạo chưa kịp đáp ứng yêu cầu. Khâu yếu nhất hiện
nay là không ít giám đốc và cán bộ chủ chốt của các doanh nghiệp kinh doanh
xuất nhập khẩu chưa sử dụng thành thạo ngoại ngữ khi đàm phán. Theo điều
tra gần đây, có tới 70 % số giám đốc doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa qua đào
tạo chính quy về nghiệp vụ ngoại thương. Chính vì sự thiếu hụt kể trên mà rủi
ro là không thể tránh khỏi. Rủi ro trong thanh toán nói chung và trong phương
thức thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng rất đa dạng, có thể xuất phát từ
phía khách hàng cũng có thể từ phía các ngân hàng.
1. Khái niệm
Khi đề cập đến rủi ro, mọi người hay quan đó là những điều không tốt
lành, tổn thất hay thậm chí thiệt hại về vật chất vô hình hay hữu hình xảy ra
ngoài dự kiến do những nguyên nhân chủ quan hay khách quan.
Ta có thể định nghĩa rủi ro như sau:
Trong cuộc sống hàng ngày, trong hoạt động kinh tế của con người
thường có những tai họa, tai nạn, sự cố bất ngờ, ngẫu nhiên xảy ra gây thiệt hại
về người và tài sản. Những tai nạn, tai họa, sự cố xảy ra một cách bất ngờ ngẫu
nhiên như vậy được gọi là rủi ro.
Để đối phó với các loại rủi ro không lường trước được đó, con người đã
cố gắng tìm kiếm mọi phương cách để phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Từ biện

pháp không thực hiện những việc làm quá mạo hiểm, chú ý đến những quy tắc
về an toàn lao động, các chuẩn mực trong kinh tế... thậm chí lập ra những quỹ
dự phòng để dự trữ một khoản tiền nào đó nhằm bù đắp những rủi ro có thể gặp
phải. Tất cả những hành động đó nhằm một mục đích duy nhất là cố gắng hạn
chế đến mức tối đa và phòng tránh các loại rủi ro để mọi quá trình sản xuất,
kinh doanh được diễn ra tốt đẹp.
Trong thanh toán quốc tế cũng vậy, tuy là hoạt động mang đến cho ngân
hàng thương mại nhiều lợi ích, nhưng có thể nói lợi ích đó đồng hành với rủi
ro. Người ta định nghĩa rủi ro trong thanh toán quốc tế là:
Rủi ro trong thanh toán quốc tế là những hiện tượng khách quan có liên
quan và làm ảnh hưởng đến quá trình thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế.
Nó do các nguyên nhân phát sinh từ quan hệ giữa các bên tham gia quan hệ
thanh toán quốc tế (nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu, ngân hàng, các tổ chức, cá
nhân và các tác nhân trung gian...) hoặc do các nhân tố khách quan khác gây
nên. Con người có thể nhận biết được các hiện tượng khách quan đó, song
không thể lượng hóa các hiện tượng đó xảy ra vào lúc nào? ở đâu? và mức độ
thiệt hại thực sự đến thanh toán quốc tế.
2. Phân loại
Các rủi ro trong thanh toán quốc tế có thể được phân loại như sau:
- Rủi ro kỹ thuật (rủi ro tác nghiệp)
- Rủi ro tín dụng
- Rủi ro pháp lý
- Rủi ro ngoại hối
- Rủi ro đạo đức
- Rủi ro hàng hoá
- Rủi ro chính trị
II. Các rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
1. Các rủi ro thường gặp trong phương thức thanh toán tín dụng chứng
từ.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong thanh toán theo phương

thức thanh toán tín dụng chứng từ. Trong phạm vi của luận văn này, chỉ xin
được đề cập đến những rủi ro thường gặp nhất trong thực tế, có thể chia thành
ba loại chính là: rủi ro kỹ thuật, rủi ro đạo đức và rủi ro chính trị trong đó rủi ro
kỹ thuật xảy ra nhiều nhất vì vậy phần đầu trước hết xin dành để nói về rủi ro
kỹ thuật.
1.1. Rủi ro kỹ thuật
Là những rủi ro do những sai sót mang tính chất kỹ thuật trong quy trình
thanh toán L/C, thường do các bên tham gia thực hiện sai một khâu trong quy
trình nghiệp vụ thanh toán.
Rủi ro đối với người xuất khẩu
Như ta đã biết, trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, ngân
hàng phát hành đứng ra cam kết thanh toán cho người xuất khẩu khi họ xuất
trình bộ chứng từ phù hợp với L/C trong khi đó để đảm bảo việc giao hàng theo
quy định của hợp đồng thương mại, L/C thường đòi hỏi nhiều điều khoản rất
chi tiết và khắt khe. Chỉ với một sai khác dù rất nhỏ cũng có thể bị ngân hàng
mở và người mua từ chối thanh toán với lý do có sự sai biệt hoặc không phù
hợp với L/C. Việc duy nhất mà người xuất khẩu có thể làm để tránh được rủi ro
trên là nhanh chóng, khẩn trương lập bộ chứng từ phù hợp với L/C. Một bộ
chứng từ thanh toán phù hợp với L/C phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Các chứng từ phải được lập ra đúng yêu cầu về số lượng, số loại, nội dung
như đã quy định trong L/C.
- Nội dung của các chứng từ không được mâu thuẫn với nhau.
- Bộ chứng từ phải được xuất trình tại địa điểm trả tiền quy định trong L/C
trong thời hạn hiệu lực của L/C.
Nhưng trong thực tế có rất nhiều sai sót xảy ra trong quá trình lập chứng
từ mà thường gặp nhất là:
- Sai lỗi chính tả, sai tên, địa chỉ...
- Chứng từ không hoàn chỉnh về mặt số lượng như số loại chứng từ, số
bản của mỗi loại.
- Các sai sót trên bề mặt chứng từ như:

+ Số tiền trên chứng từ vượt quá giá trị L/C.
+ Các chứng từ không ghi số L/C.
+ Hối phiếu ghi nhầm người bị ký phát.
+ Chứng từ không đánh dấu bản gốc.
+ Các chứng từ không khớp nhau hoặc không khớp với L/C về số
lượng, trọng lương hàng hoá...
+ Các chứng từ không tuân theo quy định của L/C về cảng bốc dỡ,
về hãng vận tải, phương thức vận chuyển...
Tất cả những sai sót trên đều có thể là nguyên nhân gây nên rủi ro trong
thanh toán, gây thiệt hại cho nhà xuất khẩu.
Khi nộp chứng từ cho ngân hàng chiết khấu, nếu ngân hàng phát hiện ra
các sai sót mà có thể sửa chữa được thì việc sửa chữa sẽ làm chậm quá trình
thanh toán. Nếu sai sót không thể sửa chữa thì bộ chứng từ không được chiết
khấu hoặc chấp nhận mà phải đợi ý kiến của ngân hàng mở và người mua để
giải quyết. Như vậy, quá trình thanh toán sẽ bị kéo dài làm cho người bán
không thể thu hồi vốn nhanh được. Hơn nữa, người mua và ngân hàng mở có
thể dựa vào những sai biệt rất nhỏ của chứng từ để từ chối thanh toán trong khi
đó hàng hoá đã được gửi đi. Nhà xuất khẩu sẽ chịu thiệt hại khi phải bán giảm
giá hàng hoá hoặc tìm khách hàng khác để tiêu thụ và cùng với nó là một các
chi phí như phí đền bù, cước lưu kho và các phí tổn phát sinh khác.
Một rủi ro kỹ thuật nữa là việc người bán phạm phải các sai lầm khi tiến
hành giao hàng như việc vi phạm thời hạn thanh toán thư tín dụng, giao hàng
muộn, xuất trình chứng từ muộn... Nếu việc xuất trình chứng từ thể hiện sự vi
phạm một trong các thời hạn nói trên cũng sẽ bị từ chối thanh toán.
Rủi ro đối với người nhập khẩu
Rủi ro lớn nhất đối với người nhập khẩu là việc nhận hành hoá không
đúng với hợp đồng mua bán. Sở dĩ xảy ra tình trạng trên là do bị lợi dụng tính
độc lập giữa L/C và hợp đồng thương mại. Việc thanh toán giữa ngân hàng hai
bên mua bán chỉ thực hiện trên cơ sở bộ chứng từ đã giao hàng xuất trình phù
hợp với quy định của L/C tức là ngân hàng chỉ chịu trách nhiệm về sự khớp

đúng trên bề mặt giữa bộ chứng từ thanh toán với L/C chứ không chịu trách
nhiệm về tính chân thực của chứng từ và tình hình thực tế giao hàng. Do vậy,
người mua sẽ phải chịu rủi ro khi tiền hàng đã trả theo bộ chứng từ xuất trình
cho ngân hàng đều phù hợp cả về số lượng, chất lượng... nhưng thực tế thì
hàng hoá nhận được lại không đúng với mong muốn, không giống như trong
hợp đồng thương mại mà trước đó hai bên đã thoả thuận.
Rủi ro đối với ngân hàng
Trong nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ, ngân hàng đóng vai trò
quan trọng không thể thiếu. Vì vậy, cũng giống như khách hàng của mình, với
vị trí khác nhau, ngân hàng cũng có thể gặp những rủi ro khác nhau.
Cũng như rủi ro trong nghiệp vụ tín dụng, rủi ro trong nghiệp vụ thanh
toán L/C không hẳn là những mất mát, thiệt hại xảy ra cho các ngân hàng do
không thu hồi được vốn đã thanh toán cho nước ngoài, nhiều khi còn là việc
không thu hồi vốn đúng hạn, hoặc làm phát sinh các khoản chi phí vô ích khác.
 Ngân hàng mở L/C
Ngân hàng mở L/C là người cam kết trả tiền cho người xuất khẩu. Vì vậy,
nguy cơ rủi ro đối với ngân hàng mở là rất lớn.
- Rủi ro trong nghiệp vụ mở:
Việc đầu tiên của các ngân hàng thương mại khi mở L/C nhập khẩu là
phải kiểm tra tính pháp lý của doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp mới giao
dịch lần đầu), hợp đồng thương mại, đơn xin mở L/C, nguồn vốn thanh toán
bao gồm vốn vay hay vốn tự có và các chứng từ có liên quan khác. Rủi ro ở
công đoạn này thường xảy ra ở phía doanh nghiệp thể hiện trong các điều
khoản của hợp đồng ngoại thương như giá cả, phương thức thanh toán, phương
thức vận tải, điều khoản trọng tài... Vì vậy, để giảm thiểu rủi ro, các cán bộ tác
nghiệp của ngân hàng hết sức lưu ý nghiên cứu kỹ các điều khoản trong hợp
đồng ngoại thương và đơn xin mở L/C để tư vấn cho doanh nghiệp lấy lại lợi
thế nếu thấy cần thiết. Thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp mà lợi thế thuộc về
khách hàng nước ngoài và ngân hàng đã tư vấn dàn xếp ổn thoả theo đúng luật
của nước phát hành và quốc tế.

Một rủi ro nữa mà ngân hàng có thể gặp phải khi mở L/C là dùng sai
hoặc sót trong từng chữ, dấu chấm, dấu phẩy... so với đơn xin mở L/C của
doanh nghiệp. Tất nhiên phí tu chỉnh cho những sai sót đó ngân hàng phải chịu.
Vì vậy, để khắc phục rủi ro này, cần phải tiến hành kiểm tra lại kỹ càng sau khi
đã mở L/C trên máy. Một điều cũng cần quan tâm là ngân hàng mở tuyệt đối
không được tự thêm bớt nội dung vào L/C so với đơn xin mở, ngoại trừ sự
thêm bớt đó làm tăng thêm lợi thế cho khách hàng của mình và phù hợp với
hợp đồng ngoại thương, và các văn bản pháp luật điều chỉnh đã được dẫn chiếu
trong L/C như UCP 500 và Incoterms 2000.
- Rủi ro khi kiểm tra bộ chứng từ đến và khi thanh toán.
Có thể nói đây là nghiệp vụ "vạch lá tìm sâu" của ngân hàng mở nhằm
phát hiện những sai sót, những điểm không phù hợp của bộ chứng từ so với nội
dung và bề mặt của L/C đã mở. Rủi ro cho ngân hàng sẽ xảy ra khôn lường nếu
ngân hàng không kiểm tra kỹ bộ chứng từ mà vẫn thực hiện thanh toán hoặc
chấp nhận thanh toán. Bởi lẽ từ trước đến nay đã có những bộ chứng từ giả,
đặc biệt là B/L giả nhằm mục đích lừa đảo hoặc rửa tiền, cũng có trường hợp
ghi "theo lệnh" (to order...) không đúng tên người nhận, làm cho việc nhận
hàng bị chậm trễ, tăng chi phí lưu kho bãi, gây thiệt hại không chỉ cho khách
hàng mà cả cho ngân hàng mở nếu lô hàng đó ngân hàng cho vay thanh toán.
Nhằm hạn chế phần nào các trường hợp trên, các doanh nghiệp cũng như các
ngân hàng thương mại khi mở L/C nhập khẩu nên quy định thêm điều khoản:
Gửi lên tàu ngay sau khi giao hàng một bản sao bộ chứng từ cho người mở
L/C, nhằm mục đích để cho người mở kiểm tra trước, nếu có sai sót thì kịp thời
tu chỉnh sửa đổi, đồng thời có tác dụng tăng thêm độ tin cậy rằng hàng đã được
bốc xếp lên tàu.
Sau khi kiểm tra chứng từ, ngân hàng cũng có thể vấp phải một số rủi ro
kỹ thuật như không tuân thủ UCP, ví dụ: chuyển giao bộ chứng từ không
phù hợp cho người mở đi nhận hàng, hoặc làm mất không trả lại chứng
từ cho phía xuất trình nguyên vẹn như khi nó nhận được, hoặc không
giao chứng từ đó cho bên thứ ba do phía xuất trình chỉ định.

Chúng ta đều biết rằng bằng việc đồng ý mở L/C, ngân hàng mở cam kết
thay mặt người mua thanh toán cho người xuất khẩu nếu anh ta thực hiện đúng
như quy định của L/C. Chính vì tính thay mặt cho người mua đã làm xuất hiện
khả năng xảy ra rủi ro đối với ngân hàng mở. Đó là rủi ro không đòi được tiền
từ phía nhà nhập khẩu do người nhập khẩu mất khả năng thanh toán hoặc bị
phá sản. Đây chính là rủi ro gây thiệt hại nặng nề nhất cho ngân hàng mở.
Nguyên nhân có thể là do ngân hàng không tiến hành thẩm định khi doanh
nghiệp lần đầu tiên đến quan hệ mở L/C thậm chí ngân hàng có tiến hành thẩm
định nhưng không phải lúc nào kết quả thẩm định cũng chính xác do thông tin
không đầy đủ, không tin cậy hoặc do lúc ngân hàng thẩm định thì tình hình tài
chính của khách hàng rất tốt nhưng trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhà
nhập khẩu bị thua lỗ liên tục mà ngân hàng không hay biết, chẳng hạn như
hàng nhập khẩu về bán không thu được tiền, nợ đọng thuế nhập khẩu kéo dài bị
hải quan cưỡng chế không cho nhận hàng.
Trong nghiệp vụ thông báo L/C, ngân hàng mở có thể bị rủi ro do không
hành động đúng theo UCP mà L/C đã dẫn chiếu. Theo UCP 500, ngân hàng mở
được miễn trách nhiệm thanh toán nếu toàn bộ chứng từ có sai biệt hay không
phù hợp với L/C. Tuy nhiên nếu ngân hàng mở không hành động đúng theo
những quy định tại điều 13 UCP 500 thì ngân hàng mở gặp rủi ro trên chính
những bộ chứng từ không phù hợp đó. Đó là các trường hợp:
+ Thông báo từ chối nhưng không nói rõ sự sai biệt của chứng từ hoặc
những điểm không phù hợp bị ngân hàng chiết khấu phủ nhận và trở nên không
có giá trị.
+ Thông báo những sai biệt, không phù hợp và từ chối chứng từ vượt
quá 7 ngày làm việc của ngân hàng.
 Ngân hàng thông báo
Rủi ro xảy ra đối với ngân hàng thông báo khi ngân hàng này quyết định
thông báo phải một L/C giả hoặc một tu chỉnh L/C không có hiệu lực trong khi
chính ngân hàng chưa xác định được tình trạng mã khoá (hay mẫu chữ ký uỷ
quyền đối với trường hợp phát hành L/C bằng thư) hoặc khi ngân hàng thông

báo quyết định của mình cho ngân hàng mở biết một cách chậm trễ.
Theo quy định của UCP 500, khi trên thư tín dụng chuyển bằng điện có
ghi "các chi tiết đầy đủ gửi sau" hay những từ có nội dung tương tự hoặc ghi
rằng thư xác nhận sẽ là văn bản có hiệu lực của thư tín dụng... thì điện chuyển
sẽ không được xem như là văn bản có hiệu lực. Vì vậy, nếu ngân hàng thông
báo về thư tín dụng cho khách hàng thì phải ghi rõ trên thông báo: "thông báo
sơ bộ chưa có hiệu lực thi hành". Khi ngân hàng thông báo không làm đúng
điều đó để khách hàng hiểu lầm rằng đó là L/C có hiệu lực và thực hiện giao
hàng thì mọi rủi ro ngân hàng sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm.
 Ngân hàng xác nhận (nếu có)
Rủi ro xảy ra đối với ngân hàng xác nhận là do không nắm chắc năng lực
tài chính của ngân hàng mở lại vội đi xác nhận theo yêu cầu của họ để rồi cuối
cùng phải nhận lãnh trách nhiệm thanh toán thay cho ngân hàng mở trong
trường hợp ngân hàng mở thiếu thiện chí hoặc mất khả năng thanh toán thậm
chí bị phá sản.
 Ngân hàng chiết khấu (nếu có)
Đối với ngân hàng chiết khấu rủi ro xảy ra phần nhiều tuỳ thuộc vào
thiện chí của ngân hàng mở và nhà nhập khẩu. Ngân hàng chiết khấu sẽ không
thu hồi được tiền hoặc thu chậm là do nhà nhập khẩu trì hoãn thanh toán, thậm
chí từ chối thanh toán thông qua việc "bới bèo ra bọ" trong việc kiểm tra chứng
từ của ngân hàng mở. Lý do để người nhập khẩu trì hoãn chủ yếu là do gặp khó
khăn trong thanh toán hoặc cũng có thể do bên mua không tin tưởng bên bán vì
hay giao hàng trễ, giao hàng kém chất lượng. Mục đích của người mua là muốn
hàng thật sự về cảng, nhìn thấy hàng rồi mới trả tiền. Để trì hoãn thanh toán, họ
sẽ yêu cầu ngân hàng mở thông báo những sai biệt của chứng từ trong vòng 7
ngày làm việc để dành quyền được từ chối thanh toán sau này. Đối với ngân
hàng chiết khấu, thời gian trì hoãn thanh toán càng dài, ngân hàng bị chiếm
dụng vốn càng lâu.

1.2. Rủi ro đạo đức

Mặc dù trong phương thức tín dụng chứng từ, quyền lợi và nghĩa vụ của
mỗi bên tham gia được quy định rõ ràng, song không phải lúc nào
nguyên tắc đó cũng được tôn trọng. Rủi ro đạo đức là những rủi ro khi
một bên tham gia cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, làm
ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên còn lại.
Về phía người xuất khẩu, họ có thể lợi dụng về tính độc lập giữa bộ
chứng từ thanh toán và tình hình giao hàng thực tế để lập ra những bộ chứng từ
giả mạo phù hợp với L/C nhằm đòi tiền hàng. Vấn đề chứng từ giả mạo hiện
đang là vấn đề khó khăn chưa có giải pháp nào quy định trong UCP 500. Điều
đáng chú ý là trong UCP 500, có quy định cho ngân hàng được miễn trách
nhiệm về chứng từ giả mạo vì thực tế ngân hàng cũng khó phát hiện chứng từ
giả mạo nhưng dù sao quy định này lại trở thành khe hở để cho hành vi gian
lận, giả mạo dễ bề len lỏi.
Về phía người nhập khẩu, họ có thể không hoặc kéo dài thời gian đi
nhận chứng từ và trả tiền khi không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng do cơ
hội kinh doanh đã mất hay do các mối hàng khác hoặc tình hình trên thị trường
hàng hoá có những biến động bất lợi. Đặc biệt khi vay ngân hàng để mở L/C,
họ có thể sử dụng số tiền bán hàng vào mục đích khác, kinh doanh quay vòng
thay vì thanh toán cho ngân hàng ngay như là một hình thức chiếm dụng vốn
của ngân hàng.
Đặc biệt các ngân hàng mở cũng có thể vi phạm cam kết của mình như
đứng về phía người nhập khẩu từ chối hoặc trì hoãn thanh toán cho người xuất
khẩu. Đó là chưa kể tới không ít trường hợp cán bộ ngân hàng và khách hàng
thông đồng với nhau cố tình vi phạm quy trình thanh toán của ngân hàng nhằm
chiếm dụng vốn của ngân hàng và bạn hàng.
Tất cả những rủi ro do những vi phạm nêu trên đều được coi là rủi ro đạo
đức. Ngày nay, khi quan hệ thương mại và thanh toán quốc tế được mở
rộng thì rủi ro đạo đức trở thành mối quan tâm lớn không chỉ của các
ngân hàng mà cả doanh nghiệp nhằm bảo toàn vốn và an toàn trong kinh
doanh. Mặc dù trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đã có sự

cam kết của ngân hàng mở, nhưng sự tin tưởng và thiện chí giữa người
bán và người mua vẫn được coi là yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự an
toàn và hiệu quả của thanh toán quốc tế. Khi người mua có thiện chí thì
việc thanh toán sẽ diễn ra thuận lợi hơn rất nhiều cho dù bộ chứng từ có
sai sót cũng dễ được chấp nhận. Ngược lại, khi họ có ý không muốn tiếp
tục thực hiện hợp đồng có thể do cơ hội kinh doanh đã mất hay do các
mối hàng khác... họ có thể dựa vào những sai sót dù là rất nhỏ của chứng
từ để đòi giảm giá, kéo dài thời gian để chiếm dụng vốn của người bán,
thậm chí từ chối thanh toán. Với người mua, sự trung thực của người bán
cũng rất quan trọng, bởi vì ngân hàng chỉ làm việc với những chứng từ
mà không cần biết việc giao hàng có đúng hợp đồng hay không. Do đó,
người mua có thể vẫn phải thanh toán L/C với ngân hàng mà không nhận
được hàng hoá theo đúng hợp đồng. Các vi phạm về hợp đồng có thể
được giải quyết sau đó nhưng phải mất nhiều thời gian và phí tổn, trước
hết là người mua mất cơ hội kinh doanh và bị chiếm dụng vốn. Song,
không chỉ người mua và người bán mà cả ngân hàng cũng đang đứng
trước mối đe dọa to lớn đó. Con số thiệt hại hàng năm trong thanh toán
xuất nhập khẩu của các ngân hàng thương mại không phải nhỏ, gây khó
khăn cho hoạt động của ngân hàng. Trước hết, ngân hàng chịu ảnh
hưởng gián tiếp từ những rủi ro của khách hàng. Khi người mua không
nhận được hàng theo đúng yêu cầu và kế hoạch kinh doanh của họ bị phá
vỡ thì họ không thể trả ngân hàng số tiền đã vay của ngân hàng để thanh
toán L/C. Khi người bán không nhận được tiền hàng thị họ không thể
thanh toán cho ngân hàng khoản vay để sản xuất, thu gom hàng xuất
khẩu. Song ảnh hưởng gián tiếp chỉ là rất nhỏ so với những rủi ro trực
tiếp mà nó có thể gây ra. Nguyên nhân chủ yếu của rủi ro đạo đức là vấn
đề thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác về tình hình tài chính, hoạt
động kinh doanh cũng như về uy tín và tính trung thực của đối tác.
Chính vì vậy mà đưa ra những phán quyết sai lầm gây nên rủi ro trong
thanh toán.

Để hạn chế rủi ro đạo đức, vấn đề cốt lõi là khắc phục tình trạng thông
tin không cân xứng. Đứng ở góc độ ngân hàng, phải tiến hành điều tra, thu thập
thông tin chính xác về khách hàng để có thể sàng lọc những khách hàng chất
lượng. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn cả vẫn là uy tín của khách hàng.
1.3. Rủi ro chính trị
Rủi ro chính trị trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng
chứng từ là những rủi ro bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế, chính trị của các
nước có liên quan trong quá trình thanh toán.
Tham gia vào nhiều lĩnh vực ngành nghề, có quan hệ với nhiều đối
tượng kinh tế của nhiều quốc gia, thanh toán quốc tế mà chủ yếu là phương
thức thanh toán tín dụng chứng từ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường
kinh tế - chính trị - xã hội của các quốc gia. Một khi các yếu tố trên biến động
dù là nhỏ cũng sẽ ảnh hưởng tới sự vận động của tự do thương mại, đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp... và từ đó ảnh hưởng tới quá trình
thanh toán.
Rủi ro chính trị thường gặp nhất là rủi ro do thay đổi môi trường pháp lý
đặc biệt ở những nước có hệ thống pháp luật chưa ổn định, thường xuyên có
sửa chữa bổ sung. Những rủi ro pháp lý thường liên quan đến việc thay đối các
quy định về dự trữ, thuế hay việc ban hành các quy định cản trở hoạt động của
ngân hàng trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Trong thực tế, những thay đổi này
thường khiến các bên xuất nhập khẩu và ngân hàng không thực hiện nghĩa vụ
của mình, làm cho L/C bị huỷ bỏ, gây thiệt hại cho các bên. Sự phong toả kinh
tế của các quốc gia vì mục đích chính trị như trường hợp CuBa. Iraq hay Việt
Nam trước đây cũng mang lại những rủi ro tương tự.
Bên cạnh đó, các cuộc nổi loạn, biểu tình, bạo động hay chiến tranh, đảo
chính, đình công... cũng có thể gây ra rủi ro cho quá trình thanh toán như mất
chứng từ, hàng hoá bị mất mát, hư hỏng, ngân hàng bị phong toả hoặc tạm
ngừng hoạt động.
Những biểu hiện bất lợi của các yếu tố kinh tế - chính trị còn được nhân
lên gấp nhiều lần khi nó ảnh hưởng đến sự ổn định giá trị đồng tiền. Vì phương

thức thanh toán tín dụng chứng từ thường liên quan đến nhiều quốc gia khác
nhau với đồng tiền khác nhau nên rủi ro do thay đổi tỷ giá cũng là một rủi ro
rất lớn tuy không xuất phát từ quá trình thanh toán. Một ngân hàng có thể bị
thiệt hại khi cho khách hàng vay để mở L/C hoặc chiết khấu chứng từ khi tỷ
giá thay đổi. Trong các giao dịch, người ta thường dùng các ngoại tệ mạnh hơn
để làm đơn vị tiền tệ, mà chủ yếu là USD. Thông thường, ngân hàng cho khách
hàng vay ngoại tệ để thanh toán L/C, và có thể phải mua ngoại tệ này ở nơi
khác. Khi người mua trả tiền cho ngân hàng, nếu tỷ giá tăng thì ngân hàng thu
được một khoản chênh lệch tỷ giá bổ sung. Ngược lại, nếu tỷ giá giảm thì
khoản phí thu được chưa chắc đã bù đắp được khoản lỗ do chênh lệch tỷ giá
gây ra. Ngoài việc ngân hàng buộc khách hàng phải ký quỹ mở L/C bằng ngoại
tệ mạnh sẽ không chỉ gây thiệt hại cho khách hàng trong giai đoạn tỷ giá không
ổn định mà nhiều khi còn tiềm ẩn những rủi ro đối với ngân hàng. Vì ngân
hàng nhà nhập khẩu không thể lường trước được mức độ trượt giá đồng nội tệ
so với ngoại tệ mạnh nên khi hàng nhập về, tỷ giá trượt mạnh, đối với những
mặt hàng bán giá cạnh tranh không thể tăng giá được, nhà nhập khẩu không
muốn nhập hàng vì sợ bị lỗ. Trong trường hợp đó, nếu tỷ lệ ký quỹ không bù
đắp tỷ lệ trượt giá nội tệ thì rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng phát hành.
Các biến động kinh tế, chính trị, xã hội dù trực tiếp hay gián tiếp, tức thì
hay lâu dài đều gây những ảnh hưởng tới hoạt động của các ngân hàng và
khách hàng. Vì vậy, rủi ro chính trị luôn là mối đe dọa đến hoạt động thanh
toán quốc tế của ngân hàng.
Bên cạnh những rủi ro trên, hoạt động thanh toán quốc tế theo phương
thức tín dụng chứng từ cũng như các hoạt động khác của ngân hàng còn gặp
phải nhiều rủi ro bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn... gây thiệt hại cho các
bên nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Ngoài ra, các loại L/C cũng tiềm ẩn trong nó những rủi ro riêng. Hiện
nay, L/C là phương thức thanh toán có nhiều loại hình đa dạng và thuận tiện
nhất cho các hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng mở rộng và phát triển. Do
đó, việc nghiên cứu các loại L/C hiện có và rủi ro của nó cũng rất cần thiết.

2. Các loại L/C và những rủi ro tiềm ẩn
2.1. Khái niệm L/C:
Thư tín dụng (viết tắt là L/C - Letter of Credit) là một chứng thư trong
đó ngân hàng mở cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình được
một bộ chứng từ phù hợp với nội dung của thư tín dụng. Nó là căn cứ pháp lý
để ngân hàng trả tiền, chấp nhận hay chiết khấu chứng từ và cũng là cơ sở để
người mua quyết định trả tiền cho ngân hàng phát hành.
Về tính chất, L/C hoàn toàn độc lập với hợp đồng thương mại, có nghĩa
là khi thanh toán các ngân hàng chỉ căn cứ vào bộ chứng từ mà không cần biết
đến nội dung của hợp đồng mua bán cũng như không phụ thuộc vào mối quan
hệ giữa người mua và người bán hay mối quan hệ giữa ngân hàng với người
mua mà chỉ căn cứ vào nội dung của L/C để trả tiền. Ngân hàng cũng không có
nghĩâ vụ xem xét nội dung của L/C có đúng hợp đồng hay không, việc giao
hàng thực tế có đúng với nội dung của chứng từ xuất trình cho ngân hàng hay
không, mà chỉ căn cứ vào những chứng từ do người bán xuất trình. Ngân hàng
sẽ trả tiền cho người bán nếu các chứng từ đó phù hợp trên bề mặt với các điều
khoản và điều kiện của L/C.
Thông thường, thư tín dụng được bên nhập khẩu mở trước ngày giao
hàng một thời gian nhất định để bên xuất khẩu có đủ thời gian cần thiết chuẩn
bị hàng hoá gửi đi. Nếu L/C được mở sớm thì người xuất khẩu sẽ có lợi vì có
đủ điều kiện tốt để gửi hàng đi. Nhưng ngược lại, nếu mở L/C quá sớm trước
ngày giao hàng thì bên nhập khẩu sẽ bị đọng vốn đối với khoản ký quỹ là một
phần hay toàn bộ L/C. Vì vậy, thời gian mở L/C cần phải hợp lý cho cả hai bên
xuất và nhập khẩu.
2.2. Nội dung của L/C
Theo khái niệm trên thì thư tín dụng là một phương tiện thanh toán rất
quan trọng trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Nó liên quan chặt
chẽ tới quyền lợi của các bên. Trong trường hợp thư tín dụng không mở được
thì phương thức thanh toán này không được xác lập và tất yếu sẽ không có việc
giao hàng cũng như việc thanh toán giữa người mua và người bán. Còn khi thư

tín dụng đã được mở thì nội dung của nó là một bộ phận vô cùng quan trọng và
trở thành cốt lõi để các bên thực hiện nghĩa vụ, đảm bảo quyền lợi cho đối tác
cũng như bản thân mình. Vì vậy, nội dung của thư tín dụng phải đầy đủ, rõ
ràng và chính xác. Mỗi thư tín dụng mang một nội dung riêng biệt tuỳ theo nội
dung của từng thương vụ, nhưng nhìn chung chúng có những nội dung cơ bản
giống nhau và thường không thể thiếu được trong một L/C, bao gồm: địa điểm
mở thư tín dụng, ngày mở thư tín dụng, số hiệu của thư tín dụng, loại thư tín
dụng, số tiền, thời hạn hiệu lực, thời hạn giao hàng, thời hạn thanh toán, nội
dung về hàng hoá, các nội dung về vận tải và giao nhận và đặc biệt là bộ chứng
từ mà người xuất khẩu phải xuất trình...
Các bên liên quan khi sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
cần chú ý tới tất cả các nội dung nêu trên, đặc biệt là điều khoản yêu cầu
về bộ chứng từ mà người bán phải xuất trình cho ngân hàng mở bởi đây
chính là điều kiện để cam kết thanh toán được thực hiện. Đối với người
mua, thông thường họ muốn bộ chứng từ phải thật đầy đủ. Ngược lại,
người bán lại muốn bộ chứng từ càng đơn giản càng tốt, tránh mất nhiều
thời gian và chi phí. Bởi ngoài giấy tờ mà họ thể chủ động lập ra còn có

×