Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt trong các bieur tượng tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.35 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH



Nguyễn Thị Hương Thảo




QUAN HỆ GIỮA CÁI BIỂU ĐẠT VÀ
CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT TRONG CÁC BIỂU
TƯỢNG TÔN GIÁO


Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ
Mã số: 60 22 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. NGUYỄN ĐỨC DÂN












Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến:
Thầy Nguyễn Đức Dân, người đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong suốt quá
trình thực hiện và hoàn thành luận văn.
Các thầy cô trong khoa Ngữ Văn và các cán bộ Phòng KHCN – SĐH, thư viện trường
ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh, thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
Cảm ơn linh mục Giuse Nguyễn Thể Hiện (nhà thờ Kỳ Đồng), TS. Thích Phước Đạt
(Trưởng khoa Phật giáo Việt Nam tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại tp. HCM) đã nhiệt
tình giúp đỡ tôi về những vấn đề liên quan đến tôn giáo.
Cảm ơn vợ chồng em Nguyễn Thành Nhân đã giúp tôi tìm những tài liệu liên quan để
thực hiện đề tài này.
Cảm ơn bạn Võ Trần Bạch Lê đã cùng tôi đến các nhà thờ và các ngôi chùa lớn tại
tp.HCM chụp hình các biểu tượng.
Cảm ơn gia đình đã hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để tôi yên tâm học tập và nghiên
cứu.

Thành phố Hồ Chí Minh, 2010

Nguyễn Thị Hương Thảo



DẪN NHẬP

1. Lí do chọn đề tài
F. De Saussure nói rằng, mỗi kí hiệu gồm có hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt.
Quan hệ của chúng được coi là võ đoán. Tuy nhiên, những biểu tượng, một loại kí hiệu trong
tôn giáo, thì giữa cái biểu đạt viết là Sa (phương diện hình thức của kí hiệu) và cái được biểu
đạt viết là Se (phương diện nội dung của kí hiệu) lại có quan hệ rất mật thiết. Trong luận văn
này, chúng tôi thử tìm hiểu, phân tích mối quan hệ đó trong những biểu tượng tôn giáo.
Chúng ta đang sống trong một thế giới kí hiệu. Kí hiệu không chỉ là từ. Nó gồm hình
ảnh, hình vẽ, màu sắc, âm thanh, cử chỉ, hương vị, các nghi thức lễ hội, cúng bái, các kiểu
dệt áo quần…nghĩa là tất cả các phương tiện dùng để thông tin có thể mã hóa và chuyển
thành thông điệp mà người khác tiếp nhận được.
Ví dụ: Các kí hiệu âm nhạc, biển chỉ dẫn giao thông, các kí hiệu hóa học…
Bản thân ngôn ngữ cũng là một hệ thống kí hiệu (ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu
biểu hiện những ý niệm). Vì thế việc nghiên cứu kí hiệu đã được nhiều người quan tâm. Tuy
nhiên có nhiều lĩnh vực của bộ môn kí hiệu học chưa được quan tâm thỏa đáng. Thế nên
trong luân văn này, chúng tôi chọn một phần nhỏ trong lĩnh vực kí hiệu học để nghiên cứu,
cụ thể là: nghiên cứu mối quan hệ giữa hai mặt nội dung và hình thức của hệ thống biểu
tượng trong Phật giáo và Cơ đốc giáo.
Dọc theo lịch sử văn minh nhân loại, con người luôn tìm hiểu và lý giải thế giới xung
quanh. Trong quá trình ấy, có những vấn đề rất trừu tượng, khó hiểu. Từ đó, con người đã
sáng tạo việc dùng một hình ảnh này để thay thế cho một vật hay hiện tượng khác theo
hướng đơn giản, dễ hiểu và gần gũi hơn.
Ví dụ: Chim bồ câu là biểu tượng của hòa bình, cây thánh giá là biểu tượng của những
người theo Cơ đốc giáo* (PL AII), tiên rồng là biểu tượng của dân tộc Việt, trái tim, hoa
hồng là biểu tượng của tình yêu, lá cờ là biểu tượng của một quốc gia, hai thanh gươm bắt
chéo nhau là biểu tượng của chiến tranh, chiên con là biểu tượng chỉ Chúa Jesus, hoa sen là
biểu tượng chỉ Đức Phật…Biểu tượng được dùng trong những ngành nghệ thuật, những tổ
chức xã hội, tôn giáo, những phạm trù tinh thần, tâm linh…
Biểu tượng gắn liền với ngành Kí hiệu học (Semiotics), Sémiotique trong tiếng Pháp

có lúc được dùng với nghĩa kí hiệu học của những hệ thống kí hiệu phi ngôn ngữ, đặc biệt là
kí hiệu học của những biểu tượng.
Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy các tôn giáo khác nhau, đôi lúc khi biểu
đạt một nội dung nào đó cũng có sự trùng hợp trong việc sử dụng các phương tiện hình thức,
rồi cùng nội dung nhưng hình thức khác và cũng có trường hợp hình thức giống nhau và nội
dung giống nhau. Vì thế trong luận văn này ngoài việc tìm hiểu mối liên hệ giữa mặt nội
dung và hình thức của các biểu tượng trong Cơ đốc giáo và Phật giáo chúng tôi còn tiến hành
nghiên cứu và so sánh hệ thống các biểu tượng chính trong hai tôn giáo trên (có so sánh với
các biểu tượng của hai tôn giáo này tại Việt Nam).
Việc làm này, nhằm tìm hiểu lịch sử hình thành, ý nghĩa cũng như những nét tương
đồng và khác biệt của các biểu tượng trong Cơ đốc giáo và Phật giáo. Đề tài này không chỉ
có ý nghĩa về mặt văn hóa mà còn giúp mọi người có cái nhìn chi tiết hơn về kí hiệu học (kí
hiệu học không phải chỉ bó hẹp trong lĩnh vực ‘Ngôn ngữ kí hiệu’).


2. Lịch sử vấn đề
Kí hiệu học có rất nhiều phân ngành nhỏ, và việc nghiên cứu biểu tượng đã được các
học giả rất quan tâm. Tuy nhiên nghiên cứu vấn đề này thật không đơn giản, để có thể hiểu
cách thức hình thành, lối xếp đặt, cũng như cách giải thích các biểu tượng không chỉ là
nhiệm vụ của ngành kí hiệu học, ngôn ngữ học mà còn có sự đóng góp của các ngành khoa
học khác như: khoa lịch sử các nền văn minh và các tôn giáo, khoa văn hóa nhân chủng học,
khoa phê bình nghệ thuật, khoa tâm lí học, y học… Các học giả không chỉ nghiên cứu về các
biểu tượng trong tôn giáo mà còn nghiên cứu về nhiều lĩnh vực khác của biểu tượng như:
biểu tượng của giấc mơ, biểu tượng được dùng trong các ngành nghệ thuật, những biểu
tượng y học, biểu tượng thiên văn học (chiêm tinh), biểu tượng chính trị…
Thật vậy, biểu tượng luôn có sức hấp dẫn riêng của nó (có lẽ do nguyên nhân hình
thành hết sức thú vị và cách giải thích các biểu tượng không bao giờ theo nguyên mẫu
chung), vì thế mà nhà phân tâm học người Thụy Sĩ Carl Gustav Jung đã mất một nửa thế kỉ
để nghiên cứu những biểu tượng tự nhiên và ông đi đến kết luận rằng: “Giấc mơ và biểu
tượng giấc mơ không phải là nhảm nhí, mà cũng không phải là không có ý nghĩa. Trái lại,

giấc mơ đem lại cho ta những sự hiểu biết quí giá, nếu ta chịu khó tìm hiểu những biểu tượng
của nó”. Tác phẩm “Thăm dò tiềm thức” của ông khái quát những nét đại cương về phâm
tâm học trong đó ông có dành trọn chương 8 để trình bày về vai trò của biểu tượng.
Ở nhiều nước trên thế giới có nhiều bộ sách bách khoa toàn thư có giá trị, và tri thức
nhân loại ngày càng phát triển vì vậy mà cần phải tập hợp vốn tri thức phong phú này, song
song với các bộ bách khoa toàn thư còn xuất hiện nhiều bộ từ điển tri thức chuyên ngành
giúp người đọc dễ dàng tra cứu và tìm hiểu. Cuốn “Từ điển các biểu tượng” (Dictionnaire
des symbols) của hai tác giả Jean Chevalier và Alain Gheerbrant đã tập hợp và giải thích ý
nghĩa các biểu tượng của thế giới thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau (sách được nhà xuất bản
Robert Laffont ấn hành lần đầu năm 1969). Đây là tác phẩm bao quát được nhiều khu vực
văn hóa trên thế giới liên quan đến các phương diện: dân tộc học, xã hội học, tâm lý học,
thần thoại học, tôn giáo học… Ngoài ra còn có thể kể ra nhiều cuốn từ điển khác cũng đề cập
đến các biểu tượng chung của thế giới như:
- Tom Chetwynd (1982), A dictionary of symbols, NXB Granada (England). Cuốn từ
điển này bao gồm 450 trang chủ yếu giải thích những biểu tượng thuộc về giấc mơ.
- Eduardo Cirlot (1969), Diccionario de simbolos (Dictionary of symbols) tái bản lần
thứ hai, tại nhà xuất bản Labor S.A, Barcelona. Cuốn từ điển dày 500 trang đề cập đến
mối quan hệ của biểu tượng đối với văn học. Quyển sách này đã được dịch sang tiếng
Anh.
- Goblet d’ Alviella (1894), The migration of symbols, London. Nội dung chính của
cuốn từ điển này đề cập đến các biểu tượng chính như: biểu tượng cây thập tự giá,
biểu tượng chữ Phạn, và biểu tượng về cái đinh ba… trong những nền văn hóa khác
nhau.
Ngoài ra sức thu hút của biểu tượng cũng được tiểu thuyết gia Dan Brown sáng tác
nhiều tác phẩm gây tiếng vang: Mật mã Da Vinci (The Da Vinci code), Pháo đài số (Digital
Fortress), Thiên thần và ác quỉ (Angels and demons), Biểu tượng đánh mất (The lost
symbol). Trong các tác phẩm này tác giả giúp người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên
khác khi cùng nhà biểu tượng học người Mỹ Robert Langdon giải mã những điều ẩn giấu
đằng sau các biểu tượng tôn giáo (chủ yếu là các biểu tượng Cơ đốc giáo).
Chúng ta đã điểm qua những công trình nghiên cứu về biểu tượng nhưng có thể nói hệ

thống các biểu tượng trong tôn giáo được các học giả hết sức quan tâm. Có thể kể ra đây các
tác phẩm tiêu biểu như:
1. David Fontana (1993), The serect language of symbols, Pavilion. Nội dung của cuốn
sách này đề cập đến vai trò cũng như cách sử dụng biểu tượng trong các lĩnh vực như:
nghệ thuật cũng như những ứng dụng của việc nghiên cứu biểu tượng để giải thích ý
nghĩa của giấc mơ. Vấn đề quan trong tiếp theo tác giả trình bày thế giới biểu tượng
theo từng chủ đề như: màu sắc, hình dáng, con vật, thế giới tự nhiên…
2. Carl G. Liungman (1994), Dictionary of symbols, W.W. Norton & Company. Cuốn từ
điển này tác giả trình bày các biểu tượng theo từng nhóm nhỏ (dựa vào quá trình phát
triển về hình dáng cấu trúc của các biểu tượng). Bao gồm những biểu tượng có từ thời
xa xưa và cả những biểu tượng được sử dụng trong thời hiện đại.
3. Dean Moe (1985), Christian symbols handbook, Augsburg Publishing House. Nội
dung của cuốn sách giải thích ý nghĩa của những biểu tượng chủ yếu được dụng trong
Cơ đốc giáo (kèm hình vẽ).
4. Dagyab Rinpoche (1995), Buddhist symbols in Tibetan Culture, Wisdom
Publications. Trong cuốn sách này tác giả trình bày tất cả những biểu tượng được sử
dụng trong Phật giáo Tây Tạng theo hệ thống (có hình vẽ minh họa kèm lời giải thích).
5. Sign and symbols (2003), Pepin. Cuốn sách tập trung tất cả những hình ảnh về biểu
tượng và các kí hiệu ở tất cả các lĩnh vực.
6. Carroll E. Whittemore (1987), Symbols of the church, Abingdon.
7. Dahlby, Frithiof (1963), De heliga tecknens hemlighet (The serect of the holy signs),
Stockholms.

Ở Việt Nam có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề biểu tượng:
- Nguyễn Đức Dân trong công trình “Kí hiệu học – một số vấn đề cơ bản” có đề cập đến
vấn đề biểu tượng và tác giả cũng dành hẳn chương III trình bày về biểu tượng và
những kí hiệu phi ngôn ngữ.
- Hoàng Tuệ trong tác phẩm “Cuộc sống ở trong ngôn ngữ” có bài viết đề cập đến vấn
đề “Tín hiệu và biểu trưng”.
- Đỗ Thị Hồng Nhung trong khóa luận tốt nghiệp của mình nghiên cứu về vấn đề “Ý

nghĩa biểu trưng của các con số trong tiếng Việt”.
- Nguyễn Thị Hồng Ngân trong hội thảo khoa học trẻ lần I cũng có bài nghiên cứu về
“Biểu tượng nước trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”.
- Nguyễn Thị Ngân Hoa có bài viết đề cập đến vấn đề: “Tìm hiểu những nhân tố tác
động đến ý nghĩa của biểu tượng”. Bài viết được đăng trên tạp chí Ngôn ngữ số 10
năm 2006.
Ngoài ra trên các trang web tiếng Việt rải rác có nhiều bài viết giải thích về ý nghĩa
biểu tượng của Phật giáo và Cơ đốc giáo như: giải thích ý nghĩa của biểu tượng chữ Vạn, ý
nghĩa của biểu tượng thánh giá…
Có thể nói vấn đề nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam đã được các học giả quan tâm,
trong đó ý nghĩa biểu trưng của các con số và màu sắc được quan tâm khá nhiều. Tuy nhiên
việc nghiên cứu về các biểu tượng tôn giáo chỉ là những bài nghiên cứu nhỏ, mang tính chất
tôn giáo nhiều hơn. Vì thế người viết chọn đề tài này với mong muốn nghiên cứu sâu hơn về
hệ thống giao tiếp đặc biệt của con người được hình thành khá lâu (trước khi ra đời chữ viết).
Như chúng ta biết, các biểu tượng có lịch sử hình thành tương đối lâu dài và mang đặc
trưng văn hóa của từng dân tộc (thánh giá, ngôi sao...là các biểu tượng được tạo nên từ hàng
nghìn năm trước). Nếu như văn hóa phương Tây khá quen thuộc với các biểu tượng của Cơ
đốc giáo thì phương Đông rất gần gũi với các biểu tượng Phật giáo.
Thông qua luận văn này người viết mong muốn đóng góp phần nhỏ vào vấn đề khá lí
thú nhưng còn bỏ ngõ ở Việt Nam: “Quan hệ giữa hình thức và nội dung trong các biểu
tượng tôn giáo”.
3. Đối tượng nghiên cứu
Trong cuộc sống hằng ngày “dẫu ta có nhận biết hay không, đêm ngày trong hành
ngôn, trong các cử chỉ, hay trong các giấc mơ của mình, mỗi chúng ta đều sử dụng các biểu
tượng…Ngày nay tất cả các khoa học về con người cũng như các ngành nghệ thuật và tất cả
các ngành kỹ thuật bắt nguồn từ các khoa học ấy…Nói là chúng ta sống trong một thế giới
biểu tượng thì vẫn còn chưa đủ, phải nói một thế giới biểu tượng sống trong ta” [1;XIII-
XIV].
Qua nhận xét trên của hai tác giả Jean Chevalier và Alain Gheerbrant chúng ta thấy rõ
vai trò quan trọng của các biểu tượng. Biểu tượng không chỉ hiện diện trong lĩnh vực tôn

giáo mà còn xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác nữa. Nhiều biểu tượng cổ xưa đã được các
nhà khảo cổ phát hiện và nghiên cứu: các biểu tượng trong tín ngưỡng của Ai Cập, Hi Lạp,
Do Thái giáo, Cơ đốc giáo, Phật giáo…
Mỗi tôn giáo đều có hệ thống biểu tượng riêng, Cơ đốc giáo và Phật giáo cũng vậy: hệ
thống các biểu tượng mà hai tôn giáo này sử dụng rất phong phú (Cơ đốc giáo có gần một
trăm biểu tượng, các biểu tượng trong Phật giáo cũng phong phú không kém). Trong luận
văn này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu những biểu tượng tiêu biểu trong hai tôn giáo
trên.
4. Phạm vi nghiên cứu
Các biểu tượng trong tôn giáo rất đa dạng, đó là: những mẫu gốc (theo Carl.G.Jung
chúng giống như những nguyên mẫu của các tập hợp biểu tượng ăn sâu trong vô thức đến nỗi
chúng trở thành như một cấu trúc, ví dụ như thần núi Tản Viên (sơn thần trong tứ bất tử)),
những hình ảnh minh họa, các hành vi tôn giáo, những hiện tượng tự nhiên… Trong tôn giáo
người ta cũng xem các văn bản tôn giáo, các nghi lễ là các biểu tượng.
Thế nên trong phạm vi một luận văn khó có thể đi sâu nghiên cứu từng lĩnh vực cụ thể
của các biểu tượng trong tôn giáo. Vì thế phạm vi nghiên cứu của luận văn này chủ yếu là
“các biểu tượng đồ họa” (graphic) (có thể là chữ viết, hình vẽ được viết, vẽ hay chạm khắc).
Cơ đốc giáo hình thành nên ba nhánh chính (PL AII), ở đây chúng tôi không khảo sát
hệ thống biểu tượng của Tin lành (biểu tượng của đạo Tin lành không nhiều) mà chủ yếu
khảo sát hệ thống biểu tượng của Công giáo. Còn đối với Phật giáo chúng tôi chủ yếu nghiên
cứu các biểu tượng cơ bản của phái Đại thừa.
Ngoài việc tìm hiểu mối quan hệ giữa hai mặt: hình thức và nội dung của hệ thống
biểu tượng trong hai tôn giáo trên chúng tôi còn mong muốn tìm hiểu xem khi các biểu
tượng của hai tôn giáo này du nhập vào Việt Nam thì chúng chịu ảnh hưởng của các yếu tố
văn hóa Việt như thế nào?
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê: Để hoàn thành luận văn chúng tôi cần phải dựa vào nguồn
dữ liệu lớn, trước hết cần phải hệ thống lại tất cả các biểu tượng phục vụ cho việc
nghiên cứu. Ngoài ra chúng tôi còn phải tập hợp các tài liệu có liên quan để giải quyết

phần nội dung của luận văn liên quan đến các lĩnh vực như: ngôn ngữ học, tâm lí học,
lịch sử, văn hóa…
Về nguồn dữ liệu chúng tôi tập hợp trên các sách báo viết về các biểu tượng tôn giáo,
trên mạng internet. Bên cạnh đó chúng tôi trực tiếp đến các nhà thờ và các chùa lớn tại
thành phố Hồ Chí Minh để thu thập tư liệu.
- Phương pháp phân loại: Sau khi tập hợp được nguồn dữ liệu thô chúng tôi tiến hành
phân loại các biểu tượng dựa theo mặt hình thức (cái biểu đạt). Phương pháp này giúp
chúng ta có thể tìm thấy những nét tương đồng trong việc sử dụng các phương tiện
hình thức để biểu thị nội dung của biểu tượng giữa các tôn giáo khác nhau.
- Phương pháp so sánh – đối chiếu: Sau khi phân loại chúng tôi sẽ tiến hành so sánh
và đối chiếu giữa hệ thống biểu tượng của hai tôn giáo để tìm ra những nét tương đồng
và dị biệt về mặt hình thức cũng như nội dung mà các biểu tượng muốn chuyển tải. Từ
đó tìm hiểu xem các biểu tượng đó nói gì, đó cũng là cách để tìm hiểu về mỗi nền văn
hóa mà các biểu tượng đại diện (văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây).
6. Ý nghĩa khoa học
Như chúng ta biết kí hiệu học là “mảnh đất màu mỡ” cần được quan tâm thỏa đáng.
Việc nghiên cứu các biểu tượng tôn giáo chỉ là một lĩnh vực nhỏ của bộ môn kí hiệu học.
Trên thế giới việc tìm hiểu về các biểu tượng tôn giáo đã được các nhà nghiên cứu quan tâm
từ khá sớm, nhưng ở Việt Nam lĩnh vực này còn khá mới mẻ. Thông qua luận văn này người
viết mong muốn góp một phần nhỏ để mở ra khái niệm rộng về ngôn ngữ nói chung. Để biểu
đạt ý nghĩ, chúng ta không chỉ dùng kí hiệu ngôn ngữ mà còn dùng các kí hiệu phi ngôn ngữ.
Biểu tượng, nhất là biểu tượng tôn giáo cũng là một loại ngôn ngữ thể hiện ý niệm thông qua
hình ảnh.
Trong lĩnh vực kí hiệu học thì ngôn ngữ được xem là hệ thống kí hiệu đặc biệt nhất, vì
thế việc mở rộng đối tượng nghiên cứu thuộc lĩnh vực này là vấn đề hết sức lý thú. Thông
qua việc nghiên cứu mối quan hệ giữa hai mặt: nội dung và hình thức của các biểu tượng
trong tôn giáo người viết mong muốn tìm hiểu những nét tương đồng và dị biệt giữa hai hệ
thống kí hiệu: biểu tượng và ngôn ngữ.
Thêm nữa việc nghiên cứu đề tài này giúp mọi người hiểu thêm về hai nền văn hóa lớn
của thế giới: văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây. Vì ý nghĩa của các biểu tượng

tôn giáo biểu thị giá trị tâm linh của mỗi người dân Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung
theo đạo.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung chính gồm
3 chương:
 Chương 1: Lý luận chung, giải quyết những vấn đề liên quan đến lý thuyết và đưa
ra khái niệm chung về biểu tượng.
 Chương 2: Chúng tôi tiến hành phân loại các biểu tượng trong Cơ đốc giáo và Phật
giáo thành hệ thống và trình bày những phương thức biểu đạt được sử dụng trong
hệ thống biểu tượng của hai tôn giáo trên.
 Chương 3: Chúng tôi tiến hành so sánh hệ thống biểu tượng và giải mã một số biểu
tượng tiêu biểu. Tiếp theo chúng tôi tìm hiểu cách thức chuyển tải nội dung của các
biểu tượng cũng như mối quan hệ giữa hai mặt hình thức và nội dung của các biểu
tượng tôn giáo. Cuối cùng chúng tôi sẽ nghiên cứu những tác động của yếu tố văn
hóa Việt đối với các biểu tượng Phật giáo và Cơ đốc giáo khi du nhập vào Việt
Nam.






Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG

1.1. Nguồn gốc hình thành biểu tượng
Thuật ngữ symbol bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp σύμβολον (sýmbolon) với gốc từ συν-
(syn-) nghĩa là "cùng nhau" và βολή (bolē) có nghĩa là “ném”, vậy nghĩa của thuật ngữ này
là: hợp lại, tập trung lại, tụ họp lại.
Ban đầu ý nghĩa của biểu tượng như là dấu hiệu để nhận diện. Nó là một vật được cắt
làm đôi. Ý nghĩa của thuật ngữ này có lẽ bắt nguồn từ tập tục của người Hi Lạp cổ đại. Ở

thời đó, để có thể nhận ra nhau (cha mẹ và con, chủ và khách, hai người bạn sắp chia tay lâu
ngày, người cho vay và người đi vay, hai kẻ hành hương…) thì người ta dùng một miếng đất
sét nung, chia làm hai, mỗi thành viên giữ một mảnh, sau này ráp hai mảnh lại họ sẽ nhận ra
nhau. Cách thức này còn được các hội kín sử dụng để kết nạp các thành viên. Người ta sẽ
giao cho mỗi thành viên các mảnh vỏ sò có chạm khắc đặc biệt. Mỗi khi hội họp, các thành
viên dùng các vỏ sò này làm dấu hiệu để nhận ra nhau.Tác giả cuốn “Từ điển Văn hóa thế
giới” nhận xét rằng: “Biểu tượng chia ra và kết hợp lại với nhau, nó chứa hai ý tưởng phân li
và tái hợp; nó gợi lên ý nghĩa về một cộng đồng đã bị chia tách và có thể tái hợp, hình thành.
Mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ; ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ ra trong
những cái vừa là gãy vỡ vừa là nối kết những phần của nó đã bị vỡ ra” [1;XXIII].
Qua ý nghĩa ban đầu của biểu tượng có thể hiểu một cách khái quát rằng: “Biểu tượng
đại diện cho những điều ngoài bản thân nó”. Nếu lấy hoa hồng làm biểu tượng, thì nó không
chỉ là hoa hồng mà mang ý nghĩa phong phú hơn nhiều, nó là biểu tượng của tình yêu, của
cái đẹp.
Qúa trình hình thành của biểu tượng cũng rất khác nhau
- Có những biểu tượng được hình thành qua sự liên tưởng: như hoa sen 8 cách ứng với 8
hướng không gian khiến hoa sen là biểu tượng của sự hài hòa vũ trụ. Hoa Perce (hoa
bướm) là biểu tượng của tư duy con người. Ý nghĩa biểu trưng của loài hoa này dựa
vào số cánh hoa (hoa bướm có năm cánh) mà con số năm lại biểu trưng cho con người.
Vì nếu dang tay ra thì con người được xếp đặt thành năm phần theo hình chữ thập: hai
tay, nửa thân trên, phần giữa - chỗ của trái tim – đầu và hai chân.
- Có những biểu tượng được hình thành qua qui ước. Hãng xe hơi nổi tiếng thế giới của
Đức BMW, trong suốt quá trình phát triển của mình luôn trung thành với biểu tượng
hình cánh quạt trắng xanh. BMW là công ty chuyên sản xuất ôtô xe máy nhưng tiền
thân của công ty này là hai công ty sản xuất động cơ máy bay (Raap Motor Works và
BMW GmbH). Trên những chiếc máy bay được sản xuất vào thập kỉ 20 các phi công
quan sát được hình ảnh chuyển động của hai cánh quạt, khi chạy với tốc độ nhất định
thì hai cánh quạt này sẽ chia quĩ đạo của chúng thành bốn phần bằng nhau. Hai phần
mang màu trắng đậm, hai phần còn lại mang màu xanh. Vì thế logo của công ty là sự
kết hợp của hình khối đơn giản và những màu sắc quen thuộc (hai màu xanh và trắng

là màu cờ của xứ Bavaria, màu xanh còn mang ý nghĩa biểu trưng cho sức sống, cho hi
vọng).

Biểu tượng của công ty BMW

- Có những biểu tượng được hình thành từ kinh nghiệm thực tế. Noel hàng năm, người
dân khắp nơi trên thế giới chuẩn bị cho ngày lễ trọng thể này rất chu đáo và việc trang
hoàng cây thông vào dịp Noel là một việc làm không thể thiếu. Hình ảnh cây thông
Noel được xem là biểu tượng của niềm hi vọng và sức sống mới trong lễ hội đón chào
năm mới. Vậy ý nghĩa của biểu tượng này bắt đầu như thế nào? Tương truyền, thánh
Martin Luther (người cải chính đạo Tin Lành) khoảng năm 1500, ngài dạo bước qua
cánh rừng vào một đêm Noel, trời quang đãng và rất lạnh, đặc biệt có loài cây nhỏ
khiến ngài hết sức chú ý. Trên cành cây tuyết trắng phủ đầy lung linh dưới ánh trăng,
nhìn xuyên qua kẽ lá là ánh sáng của muôn vàn vì sao. Cảnh vật hôm đó đã làm Luther
thật sự rung động. Vì thế khi trở về ngài đã đặt một cây thông nhỏ trong nhà và kể lại
câu chuyện này với lũ trẻ. Để tái tạo ánh sáng của muôn vàn ánh sao ngài treo nến trên
cành cây và thắp sáng những ngọn nến bày tỏ tấm lòng tôn kính Chúa. Từ đó phong
tục cây thông giáng sinh trở nên phổ biến vào dịp Noel (Theo wikipedia tiếng Việt).

Cây thông được trang hoàng vào đêm Noel

- Trong văn học ở những tình huống cụ thể trên cơ sở những ẩn dụ hợp logic mà hình
thành những biểu tượng lâm thời của một tác phẩm. Hình ảnh “con hạc đầu đình ”
trong câu ca dao xưa là biểu tượng về thân phận người phụ nữ:
Em như con hạc đầu đình
Muốn bay không nhấc nổi mình mà bay
Hình ảnh “con hạc đầu đình” là biểu tượng lâm thời của tác phẩm chỉ người con gái.
Vì đặc điểm cơ bản của “con hạc đầu đình” là được làm bằng đá nên không thể bay được.
Trong xã hội phong kiến người phụ nữ cũng vậy, không thể tự quyết định số phận của
bản thân mình, họ bị bó buộc, giam hãm giống như cách nói của câu ca dao trên “muốn

bay không nhấc nổi mình mà bay”. Như vậy chỉ trong văn cảnh này thì người đọc mới
hiểu “con hạc đầu đình” chỉ về số phận của người phụ nữ.
1.2. Qúa trình phát triển và vai trò của biểu tượng
1.2.1. Qúa trình phát triển của biểu tượng
Với những thành tựu to lớn của ngành khảo cổ học, người ta đã chứng minh được sự
tồn tại của con người cách đây hàng triệu năm (Từ 4 đến 6 triệu năm) và sống thành cộng
đồng. Khi sống thành cộng đồng thì nhu cầu giao tiếp của con người là không thể thiếu. Từ
đó hình thành ngôn ngữ, một công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người. Chữ viết chỉ
mới xuất hiện vào đầu thời kỳ đồ đồng (cuối thiên niên kỷ thứ 4 trước công nguyên). Trước
khi có chữ viết thì con người đã dùng những phương tiện nào để truyền tin cho nhau?
Trong quá trình truyền nội dung thông tin, người truyền tin có thể quên hoặc lầm lẫn.
Vì thế người ta tìm cách tạo ra những kí hiệu giúp cho trí nhớ. Vì thế có nhiều kiểu kí hiệu
truyền tin khác nhau: dùng các thẻ gỗ được khắc vạch để ghi nhớ (mỗi vạch hoặc mỗi nhóm
vạch khắc theo một kiểu nhất định như chữ thập, dấu song song, dấu nhân, ô vuông…sẽ ứng
với một loại thông tin quan trọng cần nhớ), dùng các chuỗi vỏ sò, vỏ hến được gọi là các
wampum của những người Indiens ở Bắc Mỹ (cách xâu các vỏ sò này thành chuỗi theo
những kiểu nào đó, theo những màu sắc nào đó còn là một cách để thông tin), dùng dây để
thông tin, dùng cử chỉ, nét mặt, điệu bộ, dùng các bộ phận của con vật để thông báo (trong
giai đoạn con người sinh sống bằng săn bắn, hái lượm), chẳng hạn cặp sừng hươu thông báo
rằng nơi này nhiều hươu nai, cành cây bắt chéo nơi dấu chân cọp sẽ cho người khác biết nơi
đó có nhiều thú dữ. Tuy nhiên cách thông báo này có nguy cơ bị mất thông tin. Vì thế mà đã
nảy sinh cách dùng hình vẽ để thay cho vật thực. Thay vì để một cặp sừng hươu thật thì
người ta vẽ hoặc khắc lên vách đá một cặp sừng hươu, người ta vẽ những mũi tên để thông
báo nơi đây có nhiều chim muông. Người dân du mục sống trong hoang mạc ở Ai Cập có thể
vẽ một đường tròn có một vạch thẳng đứng ở trên biểu thị cho cái dilu (là cái túi bằng da đeo
ở cổ bằng một sợi dây thừng) để chỉ rằng anh ta đã đào đất ở đây và tìm thấy nước.
Từ đây hình thành các loại kí hiệu bằng các hình vẽ biểu trưng. Các hình vẽ trở thành
kí hiệu chứa đựng thông tin: dùng một sự vật cụ thể để biểu thị một khái niệm trừu tượng.
Ngay từ thời tiền sử các loại kí hiệu bằng hình vẽ này đã được sử dụng và tiếp tục phát
triển trong suốt thời kì đồ đá mới trong khoảng thời gian từ 10 000 đến 20 000 năm. Ngày

nay các nhà khảo cổ đã tìm thấy những hình vẽ trên các hang đá Lascaux (Pháp), Altamira
(Tây Ban Nha) các hình ảnh như: nai, voi ma mút, bò rừng, ngựa…

Hình vẽ trên hang Lascaux (Pháp), nghệ thuật thời đồ đá cũ

Ở thời kì này, các biểu tượng được vẽ chủ yếu theo hai chủ đề chính: các con vật, và
những hình ảnh mang tính hình học (cơ bản gồm năm nhóm chính) như: đường cong , hình
xoắn ốc , , dấu chấm • hay đường thẳng ─.
Giai đoạn tiếp theo, cấu trúc các hình vẽ phức tạp hơn, những kí hiệu sau được tìm
thấy trong các hang đá và được khắc chạm trên đá:
, , , , . Tuy nhiên ở giai
đoạn này vẫn còn những kí hiệu chủ yếu mang tính chất miêu tả như hình bàn tay , bàn
chân , . Ở Bắc Âu các nhà khảo cổ đã phát hiện hình ảnh dấu chân duy nhất được khắc
trên đá có niên đại khoảng 1500 năm trước công nguyên (dấu chân trở thành biểu tượng của
đạo Phật, và thường được kết hợp với nhiều biểu tượng khác nữa
).
Các biểu tượng không ngừng phát triển, chúng ta có thể minh họa qua các biểu tượng
của người Ai Cập cổ đại có lịch sử khoảng 4000 năm trước công nguyên. Trong giai đoạn
này có thể kể ra các biểu tượng tiêu biểu như:

, , .
Khoảng 3000 năm trước công nguyên là kỉ nguyên của nền văn hóa Ấn Độ với biểu
tượng tiêu biểu là
(swastika) của đạo Hin du, đạo Jain, đạo Phật…
Đại biểu tiếp theo là Hi Lạp. Nền văn hóa của họ phát triển rực rỡ vào khoảng 1000
năm trước công nguyên. Biểu tượng tiêu biểu trong giai đoạn này là hình ngôi sao sáu cánh
. Trong nhiều thế kỉ tiếp theo thì những biểu tượng như: , bắt đầu
được sử dụng.
Sau công nguyên có khoảng 1500 nhóm cấu trúc chữ viết ghi ý khác nhau. Chúng chủ
yếu tồn tại ở các nền văn hóa phát triển như chữ viết tượng hình của người Ai Cập và hệ

thống chữ số của người La Mã, và hệ thống chữ viết của tượng hình của người Maya.
Trong thế kỉ 19, ý nghĩa của các biểu tượng không chỉ dựa vào cấu trúc hình thức mà
còn tùy thuộc vào các yếu tố khác nữa như: màu sắc, bối cảnh.
Sang thế kỉ 20 có sự kết hợp của các mẫu biểu tượng cũ tạo nên những biểu tượng mới
phức tạp hơn
, , . Vào nửa đầu thế kỉ 20 xuất hiện nhiều biểu tượng mới, chủ yếu
được sử dụng trong truyện tranh vui và qua các hình ảnh quảng cáo.
Còn lịch sử hình thành của các biểu tượng tôn giáo có thể bắt đầu từ thời kì đồ đá cũ
(cách đây khoảng 95 000 đến 35 000 năm), trong thời kì này mới chỉ là các tín hiệu đầu tiên
với những hình thức tôn giáo sơ khai như Đạo vật tổ, ma thuật, tang lễ. Bước sang thời kì đồ
đá giữa con người chuyển từ săn bắn, hái lượm sang chăn nuôi và trồng trọt thì các hình thức
tôn giáo dân tộc ra đời với sự thiêng liêng hóa nguồn lợi của con người trong sản xuất và
cuộc sống: thần Lúa, thần Khoai, thần Sông…hoặc tôn thờ các biểu tượng của sự sinh sôi
(thờ giống cái, hình ảnh phụ nữ, phồn thực…) đây là các vị thần của thị tộc mẫu hệ. Khi đồ
sắt xuất hiện, các quốc gia dân tộc ra đời các vị thần ấy còn tồn tại chừng nào dân tộc tạo ra
các vị thần ấy vẫn tồn tại. Theo thời gian, do nội dung của tôn giáo mang tính phổ quát,
không gắn chặt với một quốc gia cụ thể, với các vị thần cụ thể, với các nghi thức cụ thể của
một cộng đồng người hay một dân tộc, quốc gia nhất định nên sự bành trướng của nó diễn ra
thuận lợi, dễ dàng thích nghi với các dân tộc khác. Sự bành trước của tôn giáo xảy ra trong
suốt thời kì văn minh công nghiệp và cho tới tận ngày nay.


Những vị thần của người Ai Cập cổ Biểu tượng về những nguyên tố ban đầu

(không khí, đất, nước, lửa)
Ngày nay có bao nhiêu tôn giáo thì có bấy nhiêu hệ thống biểu tượng phục vụ cho tôn
giáo đó. Phật giáo và Cơ đốc giáo cũng vậy, những biểu tượng của hai tôn giáo này ngày
càng phổ biến như: biểu tượng thánh giá, chim bồ câu, nhánh cây ô liu, chữ vạn, hoa sen…
Nguồn gốc của các biểu tượng trong Phật giáo và Cơ đốc giáo chủ yếu dựa vào các kinh
sách.

Trải qua các thời kì trên thế giới có các hình thức tôn giáo sau:
- Tôn giáo trong xã hội chưa có giai cấp: Tô tem giáo (thờ vật tổ), Ma thuật giáo, Bái
vật giáo và Vật linh giáo.

Hình ảnh totem
- Tôn giáo trong xã hội có giai cấp: Tôn giáo bản địa và tôn giáo thế giới, tôn giáo thế
giới mang tính đa quốc gia, ảnh hưởng đến nhiều khu vực rộng lớn trên thế giới như:
Phật giáo, Cơ đốc giáo, Hồi giáo…
Có thể nói các phương tiện giao tiếp của con người rất phong phú: ngôn ngữ nói, ngôn
ngữ viết, ngôn ngữ kí hiệu của người câm điếc, các nghi lễ tượng trưng, các hình ảnh, cử chỉ,
điệu bộ, biểu tượng …trong đó ngôn ngữ chỉ là hệ thống giao tiếp quan trọng nhất trong
những hệ thống này (chứ không phải là hệ thống giao tiếp duy nhất).
Như vậy biểu tượng hình thành từ khi chưa có chữ viết và không ngừng phát triển cho
đến ngày nay. Biểu tượng được xem là hệ thống tiền ký tự, vì chúng khá dễ nhớ, ghi lại ý và
truyền đạt thông tin nhanh nhất. Ngày nay do tiết kiệm lời, tránh phải in ấn dịch thuật phức
tạp, do thế giới ngày nay là ‘thế giới phẳng’, trong xu thế toàn cầu hóa đó người ta đã hình
thành những kí hiệu giao tiếp bằng hình vẽ ghi ý, tạo thành những đơn vị có nghĩa trong giao
tiếp. Có những hình vẽ (Sa) có thể nhận thức được. Lại có những hình vẽ (Sa) chỉ hoàn toàn
qui ước.

Cái biểu đạt (Sa) Cái được biểu đạt (Se) Kiểu nghĩa vị

Cấm hút thuốc
Nội tại (có thể nhận
thức được)

Hạnh phúc, buồn,
giận hờn
Nội tại


Biểu tượng của Chúa
Ngoại tại (do qui
ước)

1.2.2. Vai trò của biểu tượng
Ngày nay, những kí hiệu hình vẽ này mang tính phổ quát, dùng chung cho khắp thế
giới hay ít nhất cũng chung cho một khu vực. Biểu tượng được sử dụng trong nhiều lĩnh vực:
nghệ thuật, hình thức ẩn dụ, thần thoại, tôn giáo và các nghi lễ tôn giáo...
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình biểu tượng không hề giảm vai trò quan
trọng của nó, biểu tượng vẫn tiếp tục xuất hiện trong văn học, phim ảnh. Vì thế mà có nhiều
bài viết nghiên cứu hệ thống biểu tượng được sử dụng trong văn học và phim ảnh, như bài
viết “Biểu tựơng nước trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp” của tác giả Nguyễn Thị
Hồng Ngân hay bài viết “Một số biểu tượng trong phim Việt Nam ở nước ngoài” được đăng
trên trang web thegioidienanh.vn.
Không những thế trong lĩnh vực tâm lí học người ta nhận thấy tầm quan trọng của các
biểu tượng, đó là các biểu tượng của giấc mơ (Con người tri giác thế giới không chỉ bằng các
giác quan mà còn bằng tiềm thức nữa. Chúng ta phản ứng trước những hiện tượng có thực,
trước những khích động thị giác và thính giác và những cảm giác ấy được chuyển từ bên
ngoài vào tâm trí ta, những cảm giác trở thành những thực thể tinh thần) nó trở thành liệu
pháp để điều trị các căn bệnh liên quan đến tâm lí (khi chúng ta giải thích ý nghĩa các biểu
tượng trong giấc mơ, thì chúng ta có thể chữa được bệnh): bệnh suy nhược thần kinh, bệnh
mất trí nhớ…Cụ thể trong trường hợp một người Cơ đốc giáo mộ đạo, thì biểu tượng cây
thánh giá chỉ có thể suy diễn trong nội dung Cơ đốc giáo mà thôi (Nhưng chúng ta không thể
nói rằng bất cứ ở đâu hay lúc nào thì biểu tượng thập tự cũng có cùng một ý nghĩa).
“Có biết bao sự kiện vượt khỏi phạm vi hiểu biết của người ta, bởi vậy chúng ta luôn
luôn dùng những biểu tượng để hình dung những khái niệm mà chúng ta không thể định
nghĩa và hiểu biết đầy đủ. Cũng vì lẽ ấy mà tôn giáo dùng thứ ngôn ngữ đầy biểu tượng và
diễn đạt ý tưởng một cách có ý thức như thể chỉ là một phương diện của một sự kiện tâm lí
rất quan trọng: vì rằng người ta cần tạo ra biểu tượng một cách ngẫu nhiên và phi ý thức”
[11; 19].

Biểu tượng có vai trò nối kết con người ở các thế hệ khác nhau, bởi vì mỗi nhóm
người, mỗi thời đại có những biểu tượng của riêng mình: khi chúng ta rung động trước biểu
tượng nghĩa là chúng ta đã tham gia vào nhóm người và thời đại ấy. Như vậy biểu tượng còn
mang tính xã hội hóa.
Thêm nữa, biểu tượng còn là một ngôn ngữ phổ biến, bởi vì không cần thông qua
trung gian ngôn ngữ nói hay viết, mọi người đều có thể hiểu được nó. Biểu tượng là công cụ
hiệu quả đế các cá nhân, các nhóm người, các dân tộc có thể thấu hiểu lẫn nhau. Khi chúng
ta hiểu sâu sắc ý nghĩa các biểu tượng của một cá nhân hay một dân tộc tức là chúng ta đã
hiểu được tận cùng con người và dân tộc ấy.
Để nhấn mạnh vai trò quan trọng của biểu tượng trong đời sống chúng tôi sử dụng
nhận xét sau của các tác giả từ điển Văn hóa thế giới: “Thời đại không có biểu tượng là thời
đại chết; xã hội thiếu biểu tượng là xã hội chết. Một nền văn minh không còn có biểu tượng
thì sẽ chết; nó chỉ còn thuộc về lịch sử” [1;XXXIII].
1.3. Những cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “biểu tượng”
Từ trước đến nay có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “symbol”.“Sự lẫn lộn này
khiến biểu tượng bị yếu đi, thoái hóa thành một dạng tu từ, thành kinh viện hay tầm thường”
[1;XVII]. Chính điều này dẫn đến nhiều nhầm lẫn đáng tiếc, cụ thể: khi thuật ngữ logo chưa
ra đời thì từ symbol trong tiếng Anh và symbole trong tiếng Pháp cũng được dùng để chỉ
chung cho cả logo và biểu tượng. Wikipedia Việt Nam khi định nghĩa logo cũng đã dùng từ
biểu trưng để chỉ khái niệm này, nó khiến người đọc dễ cho rằng hai khái niệm symbol và
logo là một: “Logo tương đương trong tiếng Việt là biểu trưng. Biểu trưng có thể hiểu là
biểu tượng cho một công ty, một tổ chức, một hoạt động (như một cuộc thi…) hay một ban
nhóm. Biểu trưng mang tính đặc trưng cho đối tượng mà nó đại diện. Trong hoạt động
quảng bá, biểu trưng không phải là thương hiệu, tuy rằng nó cũng là ấn tượng bên ngoài đại
diện cho thương hiệu, giúp công chúng dễ nhận ra thương hiệu”.
Do có nhiều sự nhầm lẫn về hai thuật ngữ này nên Phạm Thị Minh Hải trong luận văn
thạc sĩ của mình đã phân biệt rõ Logo và Biểu tượng. Tác giả đã chỉ ra những nét tương đồng
và dị biệt của hai thuật ngữ trên:

Tương đồng Khác biệt

- Được tạo ra dựa trên tư
Logo Biểu tượng
duy về thị giác, hình ảnh
cô đọng mang tính đại
diện.
- Về mặt cấu trúc: cả hai
đều có thể thông qua ba
hình thức của: hình ảnh, kí
tự, màu sắc…
- Trong sử dụng: cả hai có
ngữ cảnh khá tương đồng,
đôi khi đồng nhất.
- Chỉ được hiện
thực hóa thông
qua hình thức đồ
họa trên mặt
phẳng.



- Logo chỉ mang ý
nghĩa khi nó tồn
tại rõ ràng trên
văn bản.
- Phạm vi sử dụng
của logo hẹp: chỉ
được quen gọi
trong lĩnh vực
kinh tế.


- Ngoài việc biểu hiện
ra trên đồ họa còn
được hiện thực hóa
thông qua tri nhận của
con người hoặc qua
những sự vật cụ thể
trong đời sống.
- Biểu tượng không nhất
thiết hiện thực hóa trên
văn bản.

- Phạm vi sử dụng của
biểu tượng rất rộng.



(Logo thương mại dưới góc nhìn kí hiệu học, trang 12, 13)
Người ta không chỉ sử dụng nhầm lẫn giữa biểu tượng với logo mà còn nhầm lẫn thuật
ngữ này với khái niệm kí hiệu. Nguyên nhân là do các tác giả dùng thuật ngữ symbol theo ý
nghĩa như là một kí hiệu. Vì thế Peirce và Saussure dùng thuật ngữ symbol theo hai cách
hiểu khác nhau. Đối với Peirce, symbol là một kí hiệu “mọi từ ngữ, mọi câu, mọi quyển sách
và tất cả những kí hiệu qui ước đều là các symbols”- “all words, sentences, books and other
conventional signs are symbols”. Còn Saussure dùng từ symbole với kí hiệu toán học, đại số
học, khoa học là những kí hiệu mang tính chất hoàn toàn võ đoán: mỗi kí hiệu toán học Sa có
một Se là một khái niệm, được xác lập hoàn toàn võ đoán.
Sở dĩ Saussure dùng từ symbole để chỉ những kí hiệu toán học vì ông muốn nhấn
mạnh tính chất võ đoán của kí hiệu ngôn ngữ. Vì người ta cho rằng ngôn ngữ như là hệ thống
kí hiệu mang tính biểu trưng, hay nói đúng hơn là chỉ cái biểu đạt. Trong khi đó Saussure
tránh xa quan điểm này vì biểu trưng có một đặc tính là không bao giờ hoàn toàn võ đoán, nó
không phải là trống rỗng mà có mối tương quan giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt.

Chính vì thế mà các nhà nghiên cứu như Sebeok, Lev Semionovich Vygotsky, và
Susanne Langer… đã nghiên cứu nhằm phân biệt rõ giữa kí hiệu và biểu tượng.
Thomas Albert Sebeok phân kí hiệu thành 6 loại: signal, symptom, icon, index,
symbol, name. Đối với symbol ông định nghĩa như sau: “A sign without either similarity or
contiguity, but only with a conventional link between its signifer and its denotata, and with
an intentional class for its designatum, is called a symbol” tạm dịch là: “Một kí hiệu mà
giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt không có sự gần nhau hay tương tự nhau nhưng mối
liên hệ giữa chúng mang tính qui ước và có sự chi phối của ngữ cảnh xã hội thì được gọi là
biểu tượng”.
Lev Semionovich Vygotsky trong “Though and Language” phân biệt 3 khái niệm:
tool, sign, symbol.
Còn Susanne Langer trong “Philosophy in a New Key” cũng đã tiến hành phân biệt 3
khái niệm: sign, signal, symbol. Signs trỏ một cái gì đó không phải là chủ đích của ai.
Chẳng hạn, ánh chớp là kí hiệu của sấm và dông tố còn symbols là những biểu tượng văn
hóa, gắn với lịch sử, phong tục, tín ngưỡng…. Chẳng hạn, tiên rồng là biểu tượng văn hóa
gắn với truyền thuyết về sự hình thành dân tộc Việt. Mỗi dân tộc có thể chọn những đối
tượng khác nhau làm biểu tượng cho những khái niệm khác nhau.
Ngoài việc lẫn lộn giữa biểu tượng với logo, với kí hiệu còn có sự nhầm lẫn giữa hệ
biểu tượng và tính biểu tượng. Hệ biểu tượng là tập hợp các quan hệ và những cách giải
thích gắn với một biểu tượng và tập hợp các biểu tượng đặc trưng cho một truyền thống. Đôi
khi người ta cũng gọi hệ biểu tượng là ngành khoa học hay lý thuyết về các biểu tượng, đây
là một ngành khoa học thực chứng cơ sở trên sự tồn tại các biểu tượng, lịch sử và các qui
luật thực tế của chúng. Còn tính biểu tượng chỉ nói đến một đặc tính chung, mà đặc tính đó là
cơ sở để gợi nên những biểu tượng. Cụ thể: khi chúng ta tập hợp các biểu tượng như: mặt
trời, bầu trời, mặt trăng, các sao… thành hệ biểu tượng về trời, hay khi chúng ta tập hợp các
biểu tượng như: núi lửa, nước, hang đá…thành hệ biểu tượng của đất. C.Lévy Strauss đã
nhận xét rằng: “Mọi nền văn hóa đều có thể xem như một tập hợp các hệ biểu tượng trong đó
xếp ở hàng đầu là ngữ ngôn, các qui tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học
và tôn giáo” [1;XXIII]. Còn khi ta nói đến tính biểu tượng của mặt trăng là nói về một đặc
tính chung của mặt trăng.

Với mục đích xác định rõ thuật ngữ biểu tượng, cần phân biệt rạch ròi hình ảnh tượng
trưng với tất cả những hình ảnh khác mà nó quá thường hay lẫn lộn, nên tác giả từ điển văn
hóa thế giới đã tiến hành phân biệt rõ khái niệm biểu tượng với biểu hiệu, vật hiệu, phúng
dụ, ẩn dụ, loại suy, triệu chứng, dụ ngôn, ngụ ngôn luân lý (xem chi tiết từ điển văn hóa thế
giới, trang bìa XVII).
Trong tiếng Anh và tiếng Pháp symbol và symbole không có định nghĩa chuẩn. Vì thế
mà có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm biểu tượng. Có lẽ do mức độ xuất hiện trong
ngữ cảnh của biểu tượng rất cao, việc dùng biểu tượng phổ biến trong nhiều lĩnh vực như:
văn học, khoa học, toán học, âm nhạc, tâm lí, tôn giáo… Bên cạnh đó biểu tượng ngoài việc
biểu hiện ra trên đồ họa còn có thể được hiện thực hóa thông qua sự tri nhận của con người
hoặc qua những sự vật cụ thể trong đời sống. Tùy từng lĩnh vực mà có những định nghĩa
khác nhau về biểu tượng:
- Trong lĩnh vực kí hiệu học
Theo Daniel Chandler trong “Semiotic for beginner” cho rằng: “Biểu tượng là kí hiệu
trong đó cái biểu đạt không tương đồng với cái được biểu đạt nhưng về cơ bản thì mối
quan hệ giữa chúng là tùy ý hay chỉ là mang tính qui ước” ().
- Trong lĩnh vực tâm lí học
Đại diện tiêu biểu là nhà phân tâm học người Thụy Sĩ Carl Gustav Jung cho rằng:
“Chúng ta gọi là biểu tượng, một danh từ, một tên gọi hay một hình ảnh đã quen thuộc
với ta hằng ngày, nhưng còn gợi lên những ý nghĩ khác thêm vào ý nghĩa ước định hiểu
nhiên của nó. Biểu tượng gợi lên cái gì mờ mịt, xa lạ hay tàng ẩn đối với ta” [11;17]. Ông
định nghĩa tiếp tục: “Một chữ hay một hình ảnh sẽ trở thành một biểu tượng khi nó gợi
đến cái gì khác ngoài ý nghĩa hiển nhiên và trực tiếp” [11;18].
- Trong lĩnh vực ngôn ngữ học

“Theo quan điểm của kí hiệu học hiện đại thì ngôn ngữ là một dạng điển hình của các
loại kí hiệu mang màu sắc biểu trưng. Đó chính là một hệ thống các phù hiệu (symbols),
bởi vì tương ứng với một cái biểu hiện cụ thể bao giờ cũng có một cái được biểu hiện đi
kèm. Xét theo nguồn gốc và bản chất của ngôn ngữ với tư cách là một hiện tượng của
hành vi con người thì ngôn ngữ mang tính cụ tượng(*)(cụ tượng là mối liên hệ trực tiếp

giữa mặt biểu hiện và mặt được biểu hiện của tín hiệu không thông qua bất kì một phép
ẩn dụ hoặc hoán dụ, hoặc một quá trình nhân tạo nào), vì có thể tìm ra được các lí do
khác nhau cho mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện trong một hệ thống
ngôn ngữ. Tuy nhiên, nếu xét trong bình diện sử dụng thì người ta không quan tâm nhiều
lắm đến bản chất có lí do của mối quan hệ này mà chỉ quan tâm đến các giá trị (giá trị xã
hội) trong khi sử dụng của hệ thống kí hiệu này mà thôi. Trong diện đồng đại của vấn đề,
người ta có thể trừu tượng hoá tính cụ tượng của ngôn ngữ và thay vào đó là tính biểu
trưng hay tính phù hiệu của mỗi một yếu tố của hệ thống ngôn ngữ” [Phù hiệu ngôn ngữ,
ngonngu.net].
- Trong các ngành khoa học hiện đại
Biểu tượng là hệ thống các kí hiệu được dùng trong các lĩnh vực như: hóa học, toán học,
vật lí học, âm nhạc…Sở dĩ các biểu tượng được sử dụng nhiều vì tính đơn giản, thuận lợi
và ngắn gọn súc tích của các kí hiệu dùng để biểu thị các đối tượng. Chỉ cần một hay hai
kí tự làm kí hiệu cho một đối tượng. Ví dụ: Carbon: C; Zinc: Zn…
- Trong các ngành nghệ thuật, tôn giáo
Symbol là những biểu tượng văn hóa, gắn với lịch sử, phong tục tín ngưỡng…Việc sử
dụng các hình ảnh làm biểu tượng yêu cầu phải cô đọng giúp mọi người lĩnh hội nhanh.
Ví dụ để tìm hình ảnh dùng làm biểu tượng cho con tuần lộc người ta chỉ cần vẽ hai cái
sừng là đủ.
Trước khi đi đến định nghĩa vể biểu tượng chúng ta cần phân biệt giữa hai khái niệm:
kí hiệu và biểu tượng. Như vậy dựa vào đâu để có thể phân biệt giữa kí hiệu và biểu tượng?
Mối quan hệ mang tính có lí do, tính tất yếu giữa hai mặt của biểu tượng chính là điểm quan
trọng để phân biệt biểu tượng với dấu hiệu và kí hiệu. Các tác giả “Từ điển biểu tượng văn
hóa thế giới” đã chỉ ra rất đúng rằng: “Biểu tượng cơ bản khác với dấu hiệu, ở chỗ dấu hiệu
là một qui ước tùy tiện trong đó cái biểu đạt và cái được biểu đạt vẫn xa lạ nhau, trong khi
biểu tượng giả định có sự đồng chất giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt theo nghĩa một lực
năng động tổ chức” [1;XIX].
Như vậy thì biểu tượng phong phú hơn một dấu hiệu, kí hiệu đơn thuần: hiệu lực của
nó vượt ra ngoài ý nghĩa, nó phụ thuộc và cách giải thích và cách giải thích thì phụ thuộc vào
một thiên hướng nào đó.

Dù không có cách gì định nghĩa được một biểu tượng. Vì tự bản chất của nó phá vỡ
các khuôn khổ định sẵn và tập hợp các thái cực lại trong cùng một ý niệm. Nó giống như mũi
tên bay mà không bay, đứng yên mà biến ảo, hiển nhiên mà lại không nắm bắt được. Biểu
tượng bộc lộ rồi lủi trốn; càng tự phơi bày sáng rõ nó càng tự giấu mình đi; nói như Georges
Gurvich thì các biểu tượng tiết lộ mà che giấu và che giấu mà tiết lộ [1;15].
Tuy nhiên chúng ta cũng cần xác định lại thế nào là biểu tượng (dù khái niệm biểu
tượng có nhiều cách hiểu khác nhau và không dễ gì định nghĩa nó). Vì thế trong luận văn này
chúng tôi tiếp thu cách hiểu của Nguyễn Đức Dân trong “Kí hiệu học một số vấn đề cơ
bản”, đề tài khoa học cấp đại học quốc gia – tp Hồ Chí Minh.
Biểu tượng có thể là một đối tượng, hình ành, từ ngữ, âm thanh, hay những dấu hiệu
đặc biệt dùng để biểu hiện những đối tượng khác thông qua sự liên tưởng, qua sự giống
nhau, hay do qui ước.
Biểu tượng được dùng trong những ngành nghệ thuật, những tổ chức xã hội, tôn giáo, những
phạm trù tinh thần, tâm linh…
1.4. Bản chất kí hiệu của biểu tượng
Theo Saussure thì “Kí hiệu học là ngành khoa học nghiên cứu đời sống của các tín
hiệu trong lòng sinh hoạt xã hội; nó sẽ là một bộ phận của tâm lí học xã hội và của tâm lí học
đại cương” [12;40]. Nửa sau thế kỉ XIX, Saussure và triết gia Charles Sanders Peirce là hai
người đặt nền móng cho khoa kí hiệu học.
Vậy kí hiệu là gi? Vì sao nói “Chúng ta đang sống trong một thế giới kí hiệu?”. Theo
định nghĩa của Nguyễn Đức Dân thì: Một đối tượng A được dùng để thay thế cho một đối
tượng B khác thì A là một kí hiệu của B [2;8].
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta giao tiếp với nhau không chỉ bằng ngôn ngữ mà
bằng các kênh giao tiếp khác nữa. Ngôn ngữ chỉ là hệ thống giao tiếp quan trọng nhất mà
thôi (chứ không phải là duy nhất). Vì nếu một người khiếm thị hay khiếm thính thì làm sao
họ có thể giao tiếp với mọi người xung quanh? Trẻ nhỏ khi chưa biết nói thông qua tiếng
khóc, thông qua những hành động cử chỉ chúng ta cũng có thể đoán ra ý muốn của trẻ là gì.
Rồi thông qua các triệu chứng cụ thể các bác sĩ có thể đoán ra được bệnh. Thời xưa cha ông
ta cũng có thể dự báo được thời tiết thông qua những dấu hiệu cụ thể như:


(1)Chớp đông nhay nháy
Gà gáy thì mưa
(2)Mỡ gà thì gió
Mỡ chó thì mưa
Các kí hiệu trong cuộc sống quanh ta không ngừng phát triển, nhất là trong thời đại
“Kĩ thuật số” như ngày nay. Các kĩ sư xây dựng có thể dựa vào một bản thiết kế để hướng
dẫn công nhân xây nhà. Các chuyên viên máy tính có thể dùng những mã riêng để viết nên
những phần mềm vi tính. Khi ra đường chỉ cần nhìn những biển chỉ dẫn giao thông, người đi
đường có thể đi đúng qui định. Nói chung trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kí hiệu đều
thể hiện vai trò quan trọng của nó. Kí hiệu là tất cả các phương tiện dùng để thông tin có thể
mã hóa và chuyển thành thông điệp mà người khác tiếp nhận được.
Khi nghiên cứu về bản chất của kí hiệu hiện có hai quan điểm chính về kí hiệu và hình
thành nên hai trường phái: quan điểm thứ nhất theo truyền thống châu Âu có sự lưỡng phân
trong kí hiệu, quan điểm thứ hai theo trường phái Mỹ, các kí hiệu được nhìn nhận theo quan
hệ bộ ba.
Theo quan điểm thứ nhất, bắt nguồn từ Saussure thì một kí hiệu có hai phương diện:
Cái biểu đạt, viết tắt là Sa signifier (Signifiant) và cái được biểu đạt, viết tắt là Se signified
(Signifié). Mối quan hệ giữa Sa và Se trong một kí hiệu là hai mặt không thể tách rời nhau,
và mối quan hệ này mang tính võ đoán.
Khái niệm

Hình ảnh âm thanh



- Cái được biểu đạt(signfied) : mặt nội dung của kí hiệu
- Cái biểu đạt (signifier) : mặt hình thức của kí hiệu
Theo quan điểm thứ hai, bắt nguồn từ Ch. Peirce:
Sign vehicle (Kí hiệu): Dạng thức của kí hiệu
Sence (Nghĩa): Nghĩa do kí hiệu tạo nên

Referent (Vật qui chiếu): Cái mà kí hiệu đại diện

Tam giác kí hiệu học

Sở dĩ Saussure nói “ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu đặc biệt” vì nhiều nguyên lí
trong ngôn ngữ học không chỉ riêng cho ngôn ngữ mà có thể áp dụng cho mọi loại mã. Vì
thế khi nghiên cứu biểu tượng, cụ thể là các biểu tượng tôn giáo chúng ta cũng có thể áp
dụng các nguyên lí của ngôn ngữ học.
- Về mặt bản chất
Đối với ngôn ngữ mối quan hệ giữa hai mặt: nội dung và hình thức mang tính võ đoán
còn đối với biểu tượng mối quan hệ giữa hai mặt này mang tính có lí do.

×