Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP SCAMPER XÂY DỰNG WEBSITE THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ CHOTUYHOA.COM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.15 KB, 21 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
MỞ ĐẦU
Dù trong bất kỳ thời đại nào thì sáng tạo luôn là một trong những nền tảng
của sự phát triển của xã hội. Ngoài yếu tố thiên tài hay ngẫu hứng thì sáng tạo
hoàn toàn có thể học tập được dựa trên những nguyên tắc và phương pháp đã
được rút ra từ những nhà khoa học. Một trong những phương pháp hữu ích để trao
dồi khả năng sáng tạo đó là phương pháp SCAMPER.
Trong lĩnh vực thương mại điện tử nói riêng và sản xuất, kinh doanh nói chung
thì sáng tạo chắc chắn là một yếu tố không thể thiếu cho sự thành công. Trong nấc
thang phát triển trong thương mại điện tử thể hiện rỏ sự sáng tạo ấy bao gồm
những website bán hàng cho doanh nghiệp, những sàn giao dịch thương mại điện
tử, website đấu giá sản phẩm, Website mua theo nhóm (GroupOn), mới đây nhất là
loại website khuyến mãi với giá bí mật (www.25giay.vn) khá thú vị. Việc đổi mới
sáng tạo luôn là phương châm hoạt động sống còn của các doanh nghiệp trong thời
đại kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ. “Khác biệt hay là chết”
đó là câu nói thường gặp nhất trong những hoàn cảnh gặp kinh tế khó khăn. Nếu
họ không đổi mới, không tạo ra sự khác biệt thì họ biết rằng kết quả thất bại là điều
tất yếu.
Trong phạm vi của bài thu hoạch “Ứng dụng phương pháp SCAMPER xây dụng
website thương mại điện tử CHOTUYHOA.COM”, tôi sẽ trình bày một số vấn đề về
khoa học sáng tạo trong thương mại điện tử từ khi mới hình thành cho đến ngày
nay. Qua đây, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến Giáo sư - Tiến sỹ Khoa Học
Hoàng Văn Kiếm, người đã tận tâm truyền đạt những kiến thức nền tảng cơ bản
cho chúng em về môn học “Phương pháp nhiên cứu khoa học trong tin học”.
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 1 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
I/ Tổng quan về khoa học sáng tạo


"PHƯƠNG PHÁP LUẬN SÁNG TẠO" (Creativity Methodologies) là bộ môn khoa
học có mục đích xây dựng và trang bị cho mọi người hệ thống các phương pháp, các
kỹ năng thực hành tiên tiến về suy nghĩ để giải quyết vấn đề và ra quyết định một
cách sáng tạo, về lâu dài, tiến tới điều khiển được tư duy.
"PHƯƠNG PHÁP LUẬN SÁNG TẠO" là phần ứng dụng của khoa học rộng lớn
hơn, mới hình thành và phát triển trong thời gian gần đây : KHOA HỌC SÁNG TẠO
(Creatology).
Một câu chuyện rất thú vị về sự sáng tạo của kỹ sư Apple và Microsoft được thuật lại
như sau:
Trong một chuyến đi dự hội nghị tin học, 3 kỹ sư của hãng Apple và 3 kỹ sư
của hãng Microsoft gặp nhau tại ga tàu. Các kỹ sư của Microsoft rất ngạc nhiên khi
các kỹ sư của Apple chỉ mua 1 vé duy nhất, làm sao họ có thể qua mắt được đội kiểm
soát vé gắt gao của tàu?
Khi người soát vé bước vào toa tàu, ba kỹ sư của Apple đồng loạt đứng lên đi
vào toalet. Hành động của họ không thoát khỏi 3 cặp mắt tò mò của các kỹ sư
Microsoft. Sau khi kiểm tra xong trong toa, người soát vé tiến về phía toalét và gõ
cửa: "Cho kiểm tra vé!". Một giọng nói ở trong vọng ra: "Thưa đây!" Và một chiếc vé
được luồn qua khe cửa. Người soát vé kiểm tra xong và bỏ đi. Các kỹ sư Microsoft ồ
lên ngạc nhiên trước "công nghệ" của Apple.
Và khi hội nghị kết thúc, 6 kỹ sư lại gặp nhau ở nhà ga. Như lần trước, các kỹ
sư Apple chỉ mua 1 vé, trong khi các kỹ sư Microsoft lại chẳng mua vé nào. Đến lượt
các kỹ sư Apple ngạc nhiên không hiểu làm sao ba người kia có thể thoát được.
Tương tự, 3 kỹ sư Apple lại chui vào toalét đóng cửa lại. Ngay lập tức, 1 trong 3 kỹ
sư Microsoft bước theo và giả giọng người soát vé, rút luôn chiếc vé vừa thò qua khe
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 2 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
cửa và cả 3 bọn họ chui tọt vào toalét bên cạnh. Thật tuyệt vời vì trong bất kỳ hoàn
cảnh nào, người thành công luôn là người biết tiếp thu những ý tưởng của người khác

và áp dụng một cách thật sáng tạo. Thực chất thì sáng tạo là quá trình hoạt động của
con người tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần mới về chất. Nói cho dễ hiểu thì sáng
tạo là hoạt động của con người tạo ra sản phẩm và sản phẩm này phải đáp ứng được
hai yêu cầu sau:
- Có tính mới (mới về chất)
- Có tính tin cậy
- Có giá trị so với sản phẩm cũ (có lợi hơn, tiến bộ hơn)
Vì sáng tạo có thể là sản phẩm vật chất (như bóng đèn điện, bóng bán dẫn,
tivi ) hay sản phẩm tinh thần (như tác phẩm hội họa, văn học ) nên có thể nói sáng
tạo có mặt trong mọi họat động của con người. Trước hết, chúng ta hãy gạt bỏ tư
tưởng cho rằng sáng tạo chỉ có trong khoa học, kỹ thuật hay nghệ thuật. Người ta vẫn
nghĩ sáng tạo phải thể hiện trong việc phát minh ra điện, ra vaccine phòng bệnh, hoặc
viết một cuốn tiểu thuyết Tất nhiên, những việc kể trên đúng là sáng tạo, mỗi bước
tiến để chinh phục vũ trụ của loài người đều là kết quả của sự sáng tạo. Nhưng sáng
tạo không chỉ tồn tại trong một số nghề nhất định hay trong
bộ óc của những người thông minh tuyệt đỉnh.
Vậy thì sáng tạo là gì?
Một bạn sinh viên học giỏi, mà nghèo đã đặt quyết tâm đi du học và thành
công vì tìm được nguồn học bổng phù hợp. Bạn đó đã sáng tạo trong phương pháp
học.
Một sinh viên biết sắp xếp thời gian để có thể vừa học tốt ở trường lại vẫn có
thời gian đi làm để có tiền ăn học và còn giúp đỡ thêm cho gia đình. Bạn đó đã rất
sáng tạo.
Một nhân viên phải làm công việc tiếp thị sản phẩm trên đường phố. Anh ta đã
có gắng tránh sự nhàm chán bằng cách mỗi ngày thay đổi một lộ trình, sau 1 tuần mới
đi lặp lại. Anh ta đã biết sáng tạo trong công việc.
Một nhà sản xuất, kinh doanh đã biết nắm bắt nhu cầu thị trường và sáng tạo ra
sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu đó. Trong hoàn cảnh diễn biến phức tạp của kinh tế
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 3 -

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
thị trường họ luôn luôn phải chèo lái công ty bằng cách đưa ra các chính sách, hoạch
định chiến lược, có kế hoạch kinh doanh hợp lý, sáng tạo để giúp công ty vượt qua
giai đoạn khó khăn.
Như vậy sáng tạo đơn giản chỉ là tìm ra một cách mới để làm việc hoặc làm
cho công việc đó trôi chảy hơn, làm nên thành công. Trong câu chuyện vui về 6 chàng
kỹ sư trên, chúng ta đều nhận ra rằng các kỹ sư Apple đã có một giải pháp sáng tạo để
trốn vé tàu, trong khi các kỹ sư Microsoft lại có môt giải pháp sáng tạo hơn nữa trên
nền giải pháp cũ của Apple. Sáng tạo vì thế cứ nối sáng tạo như một cuộc đua tiếp sức
để đời sống loài người ngày một văn minh, tiện lợi hơn. Khi đã hiểu sáng tạo là gì và
sáng tạo có tầm quan trọng như thế nào thì rõ rằng, tư duy sáng tạo luôn là phẩm chất
số 1 của người lao động trong bất cứ xã hội nào.
Sáng tạo luôn có được từ những người có niềm tin và tình yêu với công việc họ
làm. Và sáng tạo cũng chỉ có được từ những con người tự do, biết suy nghĩ và có suy
nghĩ độc lập không bị bó buộc bởi lối suy nghĩ mặc định đánh lừa. Vì vậy, khởi đầu
cho sáng tạo là không đòi hỏi, không bị lệ thuộc vào các điều kiện hoàn cảnh.
Sáng tạo là một năng lực vô cùng quan trọng trong công việc và trong chính
đời sống. Đó là khả năng tìm thấy điều mới mẻ từ khả năng quan sát và nhận biết, nó
sẽ giúp bạn phát triển thêm những hiểu biết của mình, làm phong phú những ý tưởng
mới, để nhạy bén và sâu sắc hơn trong việc tìm kiếm ý tưởng và giải quyết vấn đề.
Theo các nhà nghiên cứu, khoa học này ứng với "làn sóng thứ tư" trong quá
trình phát triển của loài người, sau nông nghiệp, công nghiệp và tin học. Làn sóng thứ
tư ứng với Creatology (hay còn gọi là thời đại hậu tin học) chính là sự nhấn mạnh vai
trò chủ thể tư duy sáng tạo của loài người trong thế kỷ XXI.
II/ Phương pháp SCAMPER trong thương mại điện tử
Phương pháp sáng tạo SCAMPER được giáo sư Michael Mikalko phát
triển. SCAMPER là ghép các chữ cái đầu của nhóm từ sau: Substitute (thay thế),
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 4 -

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
Combine (kết hợp), Adapt (thích nghi), Modify (hiệu chỉnh), Put (thêm vào),
Eliminate (loại bỏ) và Reverse (đảo ngược).
Phương pháp sáng tạo SCAMPER dễ lĩnh hội, dễ vận dụng nhưng khá hữu hiệu
nên ngày càng được sử dụng phổ biến rộng rãi, nhất là trong các doanh nghiệp.
1. Phép thay thế - Substitute
Nội dung: Thay thế thành tố hiện có của hệ thống bằng thành tố khác.
Công nghệ web ngày càng được cải tiến vì thế việc thay đổi nền tảng công
nghệ web cho website thương mại điện tử là điều tất yếu. Những website thương mại
điện tử ra đời sau sẽ được xây dựng bằng công nghệ web mới, tiên tiến hơn. Xuất
phát là công nghệ web 1.0 đến 2.0 và công nghệ web 3.0 (Semantic Web).
2. Phép kết hợp – Combine
Nội dung: Kết hợp thành tố của các hệ thống khác nhau để tạo ra hệ thống
mới.
Mạng xã hội ngày càng tỏ ra hữu ích trong lĩnh vực quảng cáo, thương mại.
Các tổ chức, doanh nghiệp đã nhanh chóng nắm bắt được xu hướng và lợi ích mà
mạng xã hội đem lại. Vì thế việc kết hợp giữa mạng xã hội như facebook, zing,
twister và thương mại điện tử là sự kết hợp tạo thu hút được nhiều khách hàng tiềm
năng.
Ngoài ra từ sự thành công của các trang sàn giao dịch điện tử dạng diễn đàn
như 5giay.vn, muare.vn dẫn đến các sàn giao dịch điện tử C2C khác (không phải diễn
đàn ) đã kết hợp một số chức năng tương tự như diễn đàn để tăng doanh thu từ quảng
cáo, dịch vụ bán hàng,… chẳng hạn như UP (cho tin lên đầu), tin Vip, đăng ký
showcase, lượt hiển thị các trang đầu, đấu giá tin, đấu giá shop
3. Phép thích ứng – Adapt
Nội dung: Thích ứng hệ thống trong một bối cảnh khác.
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 5 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
Những năm gần đây thị phần của ứng dụng di động tăng mạnh và các thiết bị
di động cùng các ứng dụng đang có mức tăng trưởng bùng nổ, trong khi tốc độ dữ
liệu qua các mạng kĩ thuật số lại phát triển chậm hơn rất nhiều. Bởi thế một số
website thương mại điện tử (ví dụ như 5giay) đã sớm thấy được sự thay đổi này và
nhanh chống cho ra các ứng dụng di động tương ứng thích ứng với các hệ điều hành
di động ( Android, iOS,…).
4. Phép điều chỉnh – Modify
Nội dung: Điều chỉnh qui mô thành tố của hệ thống.
Một điểm quan trọng trong kinh doanh đó là biết nắm bắt nhu cầu của khách
hàng đặc biệt là những ngày lễ tết. ví dụ như ngày quốc tế phụ nữ, quốc tế thiếu nhi,
mùa giáng sinh, valentine,… đó là điểm quan trọng cho sàn giao dịch thương mại
điện tử cần phải điều chỉnh để tập trung trưng bày những sản phẩm đặc thù cho những
dịp cụ thể giúp khách hàng tiếp cận nhanh chóng với những sản phẩm mang tính thời
vụ này. điều này chúng ta dễ dàng sẽ thấy trên các trang 123mua.vn, 123.vn, uptin.vn,
chotuyhoa.com,… vào những dịp cụ thể.
5. Phép thêm vào – Put
Nội dung: Thêm thành tố mới vào hệ thống.
Hiện nay có nhiều trang thương mại điện tử ban đầu chỉ là là sàn giao dịch
điện tử sau đó kết hợp thêm chức năng đấu giá online như 5giay,…
Từ khi thanh toán trực tuyến việt ra đời như baokim.vn, nganluong.vn,
vnmart.vn… các trang thương mại điện tử việt đã nhanh chống tích hợp thêm chức
năng thanh toán trực tuyến thông qua các kênh thanh toán này. Điều này giúp các
kênh thương mại điện tử trở nên thuận tiện và giao dịch trực tuyến dễ dàng hơn bao
giờ hết.
6. Phép Loại bỏ – Eliminate
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 6 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM

Nội dung: Loại bỏ thành tố khỏi hệ thống.
Trên chotuyhoa.com có chức năng loại bỏ những sản phẩm kinh doanh không
hiệu quả, những cữa hàng không quan tâm đến bình luận hay yêu cầu của khách hàng,
tin đăng quá lâu, những thành viên bị khách hàng phản ánh lừa đảo…
7. Phép đảo ngược – Reverse
Nội dung: Đảo ngược trật tự các thành tố của hệ thống.
III/ Lịch sử sáng tạo trong thương mại điện tử
Thương mại điện tử, hay còn gọi là e-commerce, e-comm hay EC, là sự mua
bán sản phẩm hay dịch vụ trên các hệ thống điện tử như Internet và các mạng máy
tính. Thương mại điện tử dựa trên một số công nghệ như chuyển tiền điện tử, quản lý
chuỗi dây chuyền cung ứng, tiếp thị Internet, quá trình giao dịch trực tuyến, trao đổi
dữ liệu điện tử (EDI), các hệ thống quản lý hàng tồn kho, và các hệ thống tự động thu
thập dữ liệu. Thương mại điện tử hiện đại thường sử dụng mạng World Wide Web là
một điểm ít nhất phải có trong chu trình giao dịch, mặc dù nó có thể bao gồm một
phạm vi lớn hơn về mặt công nghệ như email, các thiết bị di động cũng như điện
thoại.
Về nguồn gốc, thương mại điện tử được xem như là điều kiện thuận lợi của các
giao dịch thương mại điện tử, sử dụng công nghệ như EDI và EFT. Cả hai công nghệ
này đều được giới thiệu thập niên 70, cho phép các doanh nghiệp gửi các hợp đồng
điện tử như đơn đặt hàng hay hóa đơn điện tử. Sự phát triển và chấp nhận của thẻ tín
dụng, máy rút tiền tự động (ATM) và ngân hàng điện thoại vào thập niên 80 cũng đã
hình thành nên thương mại điện tử. Một dạng thương mại điện tử khác là hệ thống đặt
vé máy bay bởi Sabre ở Mỹ và Travicom ở Anh.
Vào thập niên 90, thương mại điện tử bao gồm các hệ thống hoạch định tài
nguyên doanh nghiệp (ERP), khai thác dữ liệu và kho dữ liệu.
Năm 1990, Tim Berners-Lee phát minh ra WorldWideWeb trình duyệt web và
chuyển mạng thông tin liên lạc giáo dục thành mạng toàn cầu được gọi là Internet
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 7 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
(www). Các công ty thương mại trên Internet bị cấm bởi NSF cho đến năm 1995.
Mặc dù Internet trở nên phổ biến khắp thế giới vào khoảng năm 1994 với sự đề nghị
của trình duyệt web Mosaic, nhưng phải mất tới 5 năm để giới thiệu các giao thức bảo
mật (mã hóa SSL trên trình duyệt Netscape vào cuối năm 1994) và DSL cho phép kết
nối Internet liên tục. Vào cuối năm 2000, nhiều công ty kinh doanh ở Mỹ và Châu Âu
đã thiết lập các dịch vụ thông qua World Wide Web. Từ đó con người bắt đầu có mối
liên hệ với từ "ecommerce" với quyền trao đổi các loại hàng hóa khác nhau thông
qua Internet dùng các giao thức bảo mật và dịch vụ thanh toán điện tử.
Thế hệ đầu tiên của các trang thương mại điện tử xuất hiện từ cuối những
năm 90 với biểu hiện chỉ là những cuốn catalogue được số hoá và gửi đi theo yêu cầu
của những đơn đặt hàng qua thư điện tử. Những trang web như Epinions đã thu thập
những đánh giá cũng như góp ý của người sử dụng nhưng họ lại không hề bán bất cứ
thứ gì, rất nhiều những trang mạng như vậy đã sụp đổ trong thời kỳ bong bóng công
nghệ thông tin vỡ từ năm1995 đến 2000. Trong số các trang web thời kỳ này, chỉ có
duy nhất Amazon là thực hiện việc buôn bán kèm với thu thập phản hồi của người
dùng, chính điều đó đã dẫn công ty đến với những thành công lớn. Dựa vào công cụ
chắt lọc thông tin thu thập được từ những cuộc giao dịch của khách hàng, Amazon đã
rút ra được những thay đổi phù hợp công việc kinh doanh.
Thế hệ thứ hai của các doanh nghiệp thương mại điện tử lại có phần khác biệt
nhiều so với thế hệ đầu tiên, một vài trong số đó nổi lên từ thung lũng Silicon. Thực
tế nền tảng của những công ty này vẫn là thế giới offline, đôi khi họ vẫn cố gắng để
đưa khách hàng về với những hoạt động mua sắm trong đời thực. Rất nhiều các công
ty kiếm tiền từ những cuộc mua bán chớp nhoáng, những lời mời hàng nhanh gọn về
những sản phẩm đang được giảm giá mạnh - điều này thực sự hấp dẫn và mang tính
lan truyền nhanh với những thành viên tham gia trên web.
Doanh nghiệp tiên phong trong những cuộc mua bán chớp nhoáng này là
Vente Priveé, vốn khới nguồn từ một công ty sản xuất quần áo của Pháp. Theo lời
Jacques-Antoine Granjon, giám đốc của Vente Privée, người sáng lập công ty vào
năm 2001 cùng với 7 thành viên khác thì hiện nay, tuy trọng tâm của công ty vẫn là

Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 8 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
những nhà máy, trụ sở nhưng có đến hàng trăm nhà thiết kế, nhiếp ảnh gia và người
tạo mẫu tóc thường xuyên tổ chức các sự kiện bán hàng trực tuyến cho công ty. Sau
khởi đầu chậm chạp, Vente Privée bắt đầu tăng tốc phát triển. 5 website địa phương
tại châu Âu, hiện có hơn 12 triệu thành viên và đang được kỳ vọng sẽ mang về
khoảng 800 triệu euro (xấp xỉ 1 tỷ đô-la) doanh thu trong năm nay.
Sự thành công của Vente Privée đã khơi dậy tinh thần của những công ty khác.
Trong số đó nổi tiếng nhất là công ty Gilt Group với hướng kinh doanh mô phỏng
theo phong cách bán hàng của những nhà bán lẻ đồ cao cấp tại New York, nơi công ty
được thành lập. Gilt có quy mô nhỏ hơn Vante Privée, chỉ có 2.5 triệu thành viên và
đang hy vọng thu về khoản doanh thu từ 400 đến 500 triệu đô trong năm. Theo lời
giám đốc Susan Lyne, doanh nghiệp muốn trở thành một hình mẫu cho những doanh
nghiệp trong lĩnh vực thương mại xã hội hoá. Công ty cũng vừa mới đưa vào hoạt
động một vài trang web địa phương tại Mỹ, tổ chức chương trình “deals of the day”
(những giao dịch hấp dẫn trong ngày).
Gilt Group đang đi lạc vào lãnh thổ của những website thương mại điện tử của
các địa phương, những trang web tạo điều kiện thuận lơi cho loại hình mua sắm số
đông. Hàng ngày, những website này chào mời những dịch vụ của các doanh nghiệp
địa phương, ví dụ như ăn uống tại nhà hàng, nghỉ dưỡng trị liệu, giá thuê xe cao cấp,
những dịch vụ này được giảm giá tới tận 90& (tuy nhiên tỷ lệ giảm giá thường là
50%). Nhưng cuộc giao dịch được tiến hành chỉ khi có 1 số lượng tối thiếu nhất định
những thành viên cùng tham gia, do vậy những người muốn sử dụng dịch vụ sẽ lan
truyền thông tin này sang những người khác, một thói quen rất phổ biến trên cộng
đồng mạng xã hội.
Rất nhiều trang mạng tương tự xuất hiện trong đó thành công nhất phải kể đến
Groupon (Sự kết hợp giữa 2 từ “group” và “coupon”). Mặc dù doanh nghiệp mạng
này chỉ mới đi vào hoạt động từ cuối năm 2008 nhưng nó đã phát triển mạng lưới ra

tới 230 website địa phương trên 29 quốc gia cùng 15 triệu người đăng ký. Với sự hỗ
trợ từ nguồn tiền của các nhà đầu tư, công ty đã mở rộng mạnh mẽ trên thị trường
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 9 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
toàn cầu bằng việc mua lại những trang mạng kinh doanh tương tự Groupon tại các
quốc gia khác, đơn cử như CityDeal của Đức.
Groupon thực chất liên quan nhiều đến con người hơn là công nghệ. Thời kỳ
đầu của website vốn là The Point, một trang web từ Chicago cung cấp các công cụ
giúp tổ chức và thu thập thông tin. Công ty đã tuyển dụng 1 lực lượng sale trên khắp
thế giới, lên tới gần 2000 người nhằm nhận dạng những thói quen kinh doanh tại các
địa phương và thuê tới 150 người viết với nhiệm vụ thể hiện các lời chào hàng.
Groupon muốn trở thành hình mẫu trong việc các doanh nghiệp nhỏ tham gia thành
công vào thương mại điện tử, dẫn lời Rob Solomon, chủ tịch Groupon.
Đây có thể được coi là thế hệ những website mua sắm thế hệ thứ 3, dẫn lời
Sucharita Mulpuru của tập đoàn Forrester Research. Những doanh nghiệp xuất hiện
muộn nhất đang cố gắng gây dựng công việc kinh doanh trên phần đỉnh của “social
graph” (đồ thị xã hội): Mạng lưới bạn bè đang mở rộng trên mạng xã hội, thói quen
sử dụng tiền điện tử, sự phổ biến rộng khắp của điện thoại thông minh giúp cho việc
xác định chính xác vị trí của những người tiêu dùng. ModCloth, 1 website chuyên bán
quần áo từ những nhà thiết kế riêng đã mở một diễn đàn trên Facebook nhằm thu thập
ý kiến của các khách hàng về những sản phẩm ModCloth nên nhập về. Lockerz, một
website mới nổi khác lại “thưởng điểm” cho các thành viên nếu họ theo dõi các đoạn
video quảng cáo đồng thời mời bạn bè họ làm điều tương tự. Những người tham gia
có thể sử dụng loại tiền ảo này quy đổi ra những khoản giảm giá hấp dẫn. Tương tự
như vậy, Shopkick tưởng thưởng cho người tiêu dùng nếu họ có hoạt động thực tế tại
cửa hàng như việc ghé thăm rồi scan lại sản phẩm bằng điện thoại.
Cuối năm 2011, ngành kinh doanh online của Việt Nam rộ lên mô hình mua
theo nhóm (Groupon) dù đã có mặt ở nước ta từ cuối 2010, bên cạnh các sàn giao

dịch điện tử với hình thức rao vặt thông thường. Sự phát triển quá "nóng" khiến
những điểm hạn chế, bất cập của mô hình này trên thế giới nhanh chóng bộc lộ tại
một số doanh nghiệp Việt Nam. Điển hình là công ty Nhóm Mua khi đơn vị này
phải đóng cửa trong thời gian dài vì những lục đục nội bộ. Ngoài ra, Deal Sốc cũng là
trường hợp tương tự khi đột ngột "biến mất".
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 10 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
Với thế hệ những doanh nghiệp thương mại điện tử mới xuất hiện, thế giới
ngoại tuyến cũng quan trọng không kém thế giới trực tuyến. Swipely, như đã đề cập
tới ở phần đầu, là một ví dụ điển hình. Bằng việc đăng tải dữ liệu các cuộc mua bán,
công ty đã giúp khách hàng dễ dàng hơn trong việc chia sẻ với bạn bè họ đã chi tiêu
ra sao trong đời thật, điều này rất ít khi xảy ra nếu khách hàng phải tự tay gõ lại tất cả
những số liệu mua bán của chính mình. Thêm vào nữa, khách hàng hoàn toàn có thể
giữ bí mật các giao dịch này nếu không muốn công khai.
Liệu chăng xã hội hoá việc mua sắm có thật sự thay đổi hệ thống thương mại
nhiều như Mr. Davis đã kỳ vọng? Thật sự khó để tiên đoán rằng thế hệ thứ 2 và thứ 3
của các website thương mại điện tử vẫn sẽ tiếp tục tăng trưởng một cách mau lẹ.
Người tiêu dùng có thể chán những cuộc mua bán chớp nhoáng, tương tự như đối với
hình thức những cuộc đấu giá trực tuyến trước đó. Thậm chí hình thức mua sắm theo
số đông vẫn có những giới hạn nhất định. Một trong những vấn đề lớn nhất của
Groupon là có tới tận 10.000 doanh nghiệp địa phương muốn được quảng bá nhưng
mỗi quầy hàng online riêng lẻ trên các website Groupon chỉ thực hiện duy nhất 1 giao
dịch mỗi ngày. Mặt hàng quần áo phụ kiện đã bắt đầu phân loại những ô hàng của
mình, theo đó những người truy cập khác nhau sẽ nhìn thấy những sản phẩm khác
nhau phụ thuộc vào độ tuổi, giới tính và sở thích của họ. Nhưng nếu sự phân loại này
trở nên quá chặt chẽ và những người dùng chỉ tìm thấy đúng những loại hàng hoá họ
cần trên website, hình thức kinh doanh này có thể trở nên kém thú vị hơn.
Theo nhận định của Sonali de Rycker từ Accel Partners, một doanh nghiệp đầu

tư mạo hiểm: Dù số phận của những doanh nghiệp cá nhân hay các mô hình mua sắm
có ra sao, thương mại điện tử vẫn phát triển nhảy vọt và ngày càng mang tính xã hội.
Dịch vụ phân phối bán lẻ chứa đựng một vài những vấn đề cố hữu: Chi phí cao
nhằm thu hút mọi người tới thăm nhưng lại tồn tại 1 tỷ lệ thấp những người quyết
định mua hàng, thậm chí càng khó khăn hơn khi muốn những khách hàng này quay
trở lại. Thương mại điện tử mang tính xã hội có thể là lời giải pháp tiềm tàng cho mọi
vấn đề trên.
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 11 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
Tại Việt Nam, tổng số lượng người dùng internet vào khoảng 35 triệu (số liệu
tháng 6/2012 - Bộ TTTT), trong đó có khoảng 15 triệu người dùng đã từng truy cập
vào các website TMĐT (chiếm 43% lượng người dùng internet) và lượng active user
chiếm khoảng 15% số đó (2,3 triệu). Người dùng truy cập vào các website TMĐT
phần lớn để tra cứu thông tin sản phẩm, dịch vụ, hàng hoá và tham khảo giá, nơi bán.
Số ít trong đó là có tham gia giao dịch trực tuyến. Số người đã từng tham gia đặt
hàng và thanh toán online là khoảng 800.000 người. Lượng giao dịch online trung
bình trên mỗi đầu người là 4 giao dịch/năm. Giá trị trung bình mỗi giao dịch giao
động trong khoảng 100.000đ đến 140.000đ.
Theo dự tính, năm 2013 thị phần TMĐT sẽ tăng trưởng khoảng 50%, tức là khoảng
3,4 triệu người dùng sẽ hoạt động thường xuyên trên các website TMĐT nhờ sự đầu
tư mạnh của các công ty lớn trong và ngoài nước, cùng với xu thế khởi nghiệp về
TMĐT đang khá rầm rộ.
• Một số loại hình thương mại điện tử:
Dựa vào chủ thể của thương mại điện tử, có thể phân chia thương mại điện tử ra các
loại hình phổ biến như sau:
- Giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp – B2B (business to business);
- Giao dịch giữa doanh nghiệp với khách hàng – B2C (business to consumer);
- Giao dịch giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước – B2G (business to

government);
- Giao dịch trực tiếp giữa các cá nhân với nhau – C2C (consumer to consumer);
- Giao dịch giữa cơ quan nhà nước với cá nhân – G2C (government to consumer).
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 12 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
Ngoài ra xét về phương thức hoạt động của các trang thương mại điện tử ở Việt Nam
có thể chia các mô hình TMĐT thành các loại sau:
- Sàn giao dịch TMĐT: bao gồm các website rao vặt, forum mua bán là các website
mà người mua và người bán không có hoặc rất ít giao dịch điện tử, chỉ là nơi quảng
bá thông tin sản phẩm/dịch vụ sau đó tiến hành giao dịch offline (rongbay.com,
5giay.vn, muare.vn, vatgia.com, enbac.com, )
- Website bán lẻ trực tuyến (Online Retail): là các website cho phép khách hàng
lựa chọn mặt hàng cần mua sau đó thanh toán qua các hình thức: COD, Online,
Money transfer hoặc Cash on Office (solo.vn, tiki.vn, lazada.vn, zalora.vn, zap.vn,
vinabook.com, 123.vn, )
- Website khuyến mãi, giảm giá: Là các website đi theo mô hình mua chung, tức là
nhiều người cùng mua 1 sản phẩm thì sẽ được giá rẻ (muachung.vn, nhommua.com,
hotdeal.vn, ) hoặc các website bán hàng theo hình thức flash sale nhằm mục đích
promotion cho sản phẩm/dịch vụ.
- Website đấu giá trực tuyến: Đây là hình thức gamification nhằm quảng bá sản
phầm tới người dùng thông qua tổ chức trò chơi đấu giá xuôi và đấu giá ngược
(daugia321.vn, vbid.vn, )
- Các website Localize E-commerce (TMĐT địa phương): là các website hoặc ứng
dụng di động phục vụ nhu cầu trong vùng địa lý cụ thể, không phụ thuộc vào hình
thức giao dịch online mà qua COD là chủ yếu. Các dịch vụ điển hình như gọi đồ ăn
về nhà, đặt bàn, đặt vé, (chonmon/eat.vn, hungrypanda.vn, ) hoặc các mô hình
subscription e-commerce, OTA,
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018

TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 13 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
CHƯƠNG 2: ỨNG DỤNG
I/ Phân tích và đặc tả yêu cầu
Thương mại điện tử là sự kết hợp rất độc đáo giữa công nghệ thông tin và
hình thức kinh doanh truyền thống tạo thành. Nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và
là công cụ trợ giúp mạnh mẽ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện
ở chỗ: ít tốn chi phí, dễ tiếp cận, cơ hội làm ăn rất lớn, dễ quảng bá thương hiệu và
lợi nhuận cao. Và điều quan trọng hơn Thương mại điện tử giúp doanh nghiệp có
cách tư duy mới và tầm nhìn chiến lược trong việc vận dụng môi trường intenet
vào kinh doanh. Website CHOTUYHOA.COM là sàn giao dịch thương mại điện
tử chia làm 2 nhóm đối tượng chính gồm người bán và người mua. Trong đó một
user có thể vừa là người mua vừa là người bán. Ngoài ra hệ thống có tích hợp
chức năng nạp tiền qua các cổng thanh toán trực tuyến gồm bảo kim (baokim.vn)
và ngân lượng (nganluong.vn) và kết hợp một số chức năng khác để tăng doanh
thu từ quảng cáo, dịch vụ bán hàng,… chẳng hạn như UP (cho tin lên đầu), tin
Vip, đăng ký showcase, lượt hiển thị các trang đầu,… Và các chức năng mạng xã
hội như bình luận sản phẩm, hỏi đáp trực tuyến, kết bạn, nhắn tin,…
Hoạt động của người mua
- Đăng ký thành viên
- Xem thông tin giới thiệu về cửa hàng và người cần liên hệ
- Đóng góp ý kiến, bình luận sản phẩm
- Tìm kiếm, xem danh sách các sản phẩm.
- Đưa sản phẩm chọn mua vào giỏ hàng
- Xác nhận việc mua hàng
- Xem, hủy các mặt hàng đã chọn
- Nạp Xu, chuyển Xu
- Kết bạn, nhắn tin
Hoạt động của người mua

- Tạo cửa hàng
- Đăng bán sản phẩm, rao vặt
- Đăng ký Showcase, UP, đăng ký sản phẩm nổi bật
- Quản lý sản phẩm: Thêm, xóa, sửa
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 14 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
- Quản lý đợt đặt hàng: xem, xóa.
- Quản lý thông tin đóng góp ý kiến của khách hàng
- Quản lý thông tin khách hàng mua sản phẩm: xem, xóa.
- Nạp Xu, chuyển xu
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 15 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
II/ Thiết kế website
1. Trang chủ
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 16 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
2. Trang quản lý hóa đơn
3. Trang quản lý sản phẩm
4. Trang quản lý ví tiền
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 17 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
5. Trang Nạp tiền

6. Chuyển khoản
7. Hỏi đáp trực tuyến
8. Chi tiết sản phẩm
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 18 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
9. Bình luận sản phẩm
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 19 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
KẾT LUẬN
Sáng tạo là chuyển động của thế giới ngày nay, dừng lại là đồng nghĩa với sự
tự đào thải mình. Trong đó công nghệ thông tin luôn dẫn đầu về sáng tạo bởi ứng
dụng đa dạng của CNTT len lỏi trong mọi ứng dụng của cuộc sống trên nhiều lĩnh
vực. Công nghệ thông tin phát triển kéo theo sự ra đời của các công nghệ mới, sản
phẩm mới. Trong đó thương mại điện tử là công cụ phục vụ đắc lực cho việc kinh
doanh, phát triển kinh tế, làm lợi cho đất nước. Trong thời đại nền kinh tế Việt
Nam hội nhập vào nền kinh tế chung của thế giới (WTO), là nền kinh tế rất năng
động và sử dụng những thành tựu cao của khoa học kỹ thuật nói chung và CNTT
nói riêng vào kinh doanh, nếu chúng ta không kịp thời đổi mới và áp dụng thì sẽ
dễ bị lạc hậu và khó tồn tại trước áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt trong thời
đại kinh tế thị trường.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thiện ứng dụng nhưng do thời gian có hạn nên báo
cáo và ứng dụng vẫn chưa được phát huy hết khả năng sáng tạo. Trong thời gian
tới website chotuyhoa.com sẽ nhanh chóng đổi mới để có thế đem lại doanh thu
tốt nhất có thể.
Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 20 -

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO THẠC SĨ CNTTQM
Tài liệu tham khảo
1. Bài giảng môn học “Phương pháp nhiên cứu khoa học trong tin học”.
Giảng viên : GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm, chương trình đào tạo thac sĩ
CNTT qua mạng, trung tâm phát triển CNTT ĐH Quốc gia TP.HCM -
2005.
2. Giải một bài toán trên máy tính như thế nào ?( tập 1, 2, 3).
GS. TSKH Hoàng Kiếm, nhà xuất bản giáo dục – 2003.
3. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học .
Vũ Cao Đàm, nhà xuất bản Khoa Học và Kỹ Thuật – 1999.
4. Phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học kinh tế.
PGS. TS Nguyễn Thị Cành, nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia TP.HCM – 2004
5. Các website:
• vi.wikipedia.org
• />• />Nguyễn Quốc Dũng – CH1201018
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - 21 -

×