Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN DỰA TRÊN NHỮNG PHÁT MINH SÁNG TẠO CỦA HAI SẢN PHẨM ĐƯƠNG ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 29 trang )

Đề tài: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN DỰA TRÊN NHỮNG PHÁT MINH SÁNG TẠO CỦA HAI SẢN PHẨM ĐƯƠNG ĐẠI
Phùng Vũ Cường – CH1201093
Phương Pháp Sáng Tạo Khoa Học Trong Tin Học
GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm
Học viên
BÀI THU HOẠCH MÔN PHƯƠNG PHÁP
SÁNG TẠO KHOA HỌC TRONG TIN HỌC
Nội Dung
2
1. GIỚI THIỆU
Phát minh – Sáng tạo là làm cái gì đó mà chưa ai nghĩ ra cách làm.
Hầu như mọi thứ chúng ta có hoặc đang sử dụng đều đã được phát minh trước đó. Chuông cửa,
điện thoại, lò sấy, đèn, tủ lạnh, máy in, thuỷ tinh, thép, nhựa dẻo. Đây chỉ là một vài trong hàng
vạn phát minh đã có.
Dĩ nhiên là không khí, nước, cỏ cây không cần phải được phát minh. Nhưng cách đưa không khí
vào nhà, bơm nước vào nơi cần thiết, giúp trồng và chăm sóc cây là những phát minh - sáng tạo.
Thực phẩm cũng không cần được phát minh – sáng tạo. Nhưng tổ tiên thời tiền sử của chúng ta
có thể bị chết đói nếu họ không phát minh-sáng tạo ra vũ khí để săn bắt thú hoang lấy thịt. Và
chắc chắn đất đai trên thế giới không thể sản xuất được lương thực cho tất cả hàng triệu người
nếu như chúng ta không phát minh - sáng tạo máy móc để cày bừa đất.
Một số phát minh – sáng tạo rất quan trọng được thực hiện cách đây đã lâu trước khi con người
có chữ viết. Con dao, giáo mác, cung và tên, cách đốt lửa, cách làm ra vải vóc và đồ gốm.
Không ai biết những người nào đã phát minh ra những thứ này. Thậm chí với những phát minh
hiện đại, không phải lúc nào cũng có thể đặt tên người phát minh. Một người thêm vào một nét
cuối cùng, nhưng tác phẩm của họ đã dựa vào thành quả của nhiều người khác. Chẳng hạn như
không thể nói người nào phát minh – sáng tạo ra chiếc xe hơi. Những chiếc xe hơi đầu tiên được
triển khai bởi nhiều phát minh được ghép chung và nối tiếp với nhau.
Trong vài trường hợp, hai nhà phát minh đã phát minh hầu như cùng một loại đồ vật, cùng thời
gian, mặc dù không người nào biết một điều gì về công việc của người kia. Có một câu tục ngữ
cổ rằng: “Nhu cầu là mẹ phát minh”. Thật là một câu tục ngữ hay. Khi có nhu cầu về một thiết
bị nào đó, nhiều người làm việc về nó và chẳng sớm thì muộn sẽ có một người sản xuất ra vật


mong muốn đó. Vài người có thể cùng chung ý tưởng về đồ vật đó trong cùng một thời điểm.
Hầu như mọi phát minh đều được cải tiến nhanh chóng. Các bóng đèn điện mà chúng ta dùng
hiện nay không giống lắm với bóng đèn do Edison chế tạo năm 1879. Nếu nhiều người có thể
thấy được chiếc điện thoại đầu tiên của Alexander Graham Bell, thì người ta sẽ không biết nó là
cái gì vì nó không giống với máy điện thoại ngày nay.
Trong tin học cũng vậy, đã có rất nhiều thành quả là những sản phẩm trực tiếp từ quá trình phát
minh và sáng tạo trong suốt lịch sử phát triển của ngành. Nội dung chính của bài thu hoạch này
sẽ trình bày quá trình phát triển của 2 trong số những sản phẩm tiêu biểu: bộ xử lý của Intel và
trình duyệt Internet Explorer của Microsoft. Theo đó, phân tích một số nguyên lý trong số 40
nguyên lý sáng tạo cơ bản được áp dụng trong việc cải tiến, đổi mới 2 sản phẩm này.
3
2. MỘT SỐ THÀNH QUẢ SÁNG TẠO TRONG TIN HỌC
A. SỰ PHÁT TRIỂN BỘ VI XỬ LÝ INTEL
I. CÁC CỘT MỐC PHÁT TRIỂN (1971 – 2007)
Trong lịch sử phát triển của mình, chiếc máy tính đã phát triển từ một chiếc máy chữ
đơn thuần thành một thiết bị đóng vai trò căn bản trong phương thức mà hàng triệu
con người chúng ta làm việc, liên lạc, học tập, giải trí và còn nhiều mô hình sử dụng
khác nữa. Việc giới thiệu chiếc máy tính cá nhân IBM đầu tiên năm 1981 đã đánh dấu
một bước ngoặt cơ bản trong ngành công nghiệp điện toán.
Hình 1: Bộ vi xử lý 4004
Năm 1971: Bộ vi xử lý 4004
4004 là bộ vi xử lý đầu tiên của Intel. Phát minh đột phá này nhằm tăng sức mạnh cho
máy tính Busicom và dọn đường cho khả năng nhúng trí thông minh của con người
vào trong các thiết bị vô tri cũng như các hệ thống máy tính cá nhân.
Số lượng bóng bán dẫn: 2.300
Tốc độ: 108KHz

Hình 2: Bộ vi xử lý 8008
Năm 1972: Bộ vi xử lý 8008
Bộ vi xử lý 8008 mạnh gấp đôi bộ vi xử lý 4004. Thiết bị Mark-8 được biết đến như

là một trong những hệ thống máy tính đầu tiên dành cho người sử dụng gia đình –
một hệ thống mà theo các tiêu chuẩn ngày nay thì rất khó để xây dựng, bảo trì và vận
hành.
Số lượng bóng bán dẫn: 3.500
Tốc độ: 200KHz

4
Hình 3: Bộ vi xử lý 8080
Năm 1974: Bộ vi xử lý 8080
Bộ vi xử lý 8080 đã trở thành bộ não của hệ thống máy tính cá nhân đầu tiên – Altair.
Số lượng bóng bán dẫn: 6.000
Tốc độ: 2MHz

Hình 4: Bộ vi xử lý 8086-8088
Năm 1978: Bộ vi xử lý 8086-8088
Một hợp đồng cung cấp sản phẩm quan trọng cho bộ phận máy tính cá nhân mới
thành lập của IBM đã biến bộ vi xử lý 8088 trở thành bộ não của sản phẩm chủ đạo
mới của IBM—máy tính IBM PC. Số lượng bóng bán dẫn: 29.000
Tốc độ: 5MHz, 8MHz, 10MHz

Hình 5: Bộ vi xử lý 286
Năm 1982: Bộ vi xử lý 286
Bộ vi xử lý 286, còn được biết đến với cái tên là 80286, là bộ vi xử lý Intel đầu tiên
có thể chạy tất cả các phần mềm được viết cho những bộ vi xử lý trước đó. Tính
5
tương thích về phần mềm này vẫn luôn là một tiêu chuẩn bắt buộc trong họ các bộ vi
xử lý của Intel
Số lượng bóng bán dẫn: 134.000
Tốc độ: 6MHz, 8MHz, 10MHz, 12,5MHz


Hình 6: Bộ vi xử lý Intel 386
Năm 1985: Bộ vi xử lý Intel 386
Bộ vi xử lý Intel 386 có 275.000 bóng bán dẫn – nhiều hơn 100 lần so với bộ vi xử lý
4004 ban đầu. Đây là một chip 32 bit và có khả năng xử lý “đa tác vụ”, nghĩa là nó có
thể chạy nhiều các chương trình khác nhau cùng một lúc.
Số lượng bóng bán dẫn: 275.000
Tốc độ: 16MHz, 20MHz, 25MHz, 33MHz

Hình 7: Bộ vi xử lý CPU Intel 486 DX
Năm 1989: Bộ vi xử lý CPU Intel 486 DX
Thế hệ bộ vi xử lý 486 thực sự có ý nghĩa khi giúp chúng ta thoát khỏi một máy tính
phải gõ lệnh thực thi và chuyển sang điện toán chỉ và nhấn (point-and-click).
Số lượng bóng bán dẫn: 1,2 triệu
Tốc độ: 25MHz, 33MHz, 50MHz
6
Hình 8: Bộ vi xử lý Pentium®
Năm 1993: Bộ vi xử lý Pentium®
Bộ vi xử lý Pentium® cho phép các máy tính dễ dàng hơn trong việc tích hợp những
dữ liệu ‘thế giới thực” như giọng nói, âm thanh, ký tự viết tay và các ảnh đồ họa
Số lượng bóng bán dẫn: 3,1 triệu
Tốc độ: 60MHz, 66MHz
Hình 9: Bộ vi xử lý Pentium® II
Năm 1997: Bộ vi xử lý Pentium® II
Bộ vi xử lý Pentium® II có 7,5 triệu bóng bán dẫn này được tích hợp công nghệ Intel
MMX, một công nghệ được thiết kế đặc biệt để xử lý các dữ liệu video, audio và đồ
họa một cách hiệu quả.
Số lượng bóng bán dẫn: 7,5 triệu
Tốc độ: 200MHz, 233MHz, 266MHz, 300MHz
Hình 10: Bộ vi xử lý Pentium® III
Năm 1999: Bộ vi xử lý Pentium® III

7
Bộ vi xử lý Pentium® III có 70 lệnh xử lý mới – những mở rộng Internet Streaming
SIMD – giúp tăng cường mạnh mẽ hiệu suất hoạt động của các ứng dụng xử lý ảnh
tiên tiến, 3-D, streaming audio, video và nhận dạng giọng nói. Bộ vi xử lý này được
giới thiệu sử dụng công nghệ 0,25 micron.
Số lượng bóng bán dẫn: 9,5 triệu
Tốc độ: 650MHz tới 1,2GHz
Hình 11: Bộ vi xử lý Pentium® 4
Năm 2000: Bộ vi xử lý Pentium® 4
Bộ vi xử lý này được giới thiệu với 42 triệu bóng bán dẫn và các mạch 0,18 micron.
Bộ vi xử lý đầu tiên của Intel, bộ vi xử lý 4004, chạy ở tốc độ 108 kilohertz (108.000
hertz), so với tốc độ của bộ vi xử lý Pentium® 4 là 1,5 gigahertz (1,5 tỷ hertz).
Số lượng bóng bán dẫn: 42 triệu
Tốc độ: 1,30GHz, 1,40GHz, 1,50GHz, 1,70GHz, 1,80Ghz

Tháng 8 năm 2001: Bộ vi xử lý Pentium 4 đạt mốc 2 GHz
Tháng 11 năm 2002: Bộ vi xử lý Intel Pentium 4 hỗ trợ Công nghệ Siêu phân luồng
Intel giới thiệu Công nghệ Siêu phân luồng đột phá cho bộ vi xử lý Intel® Pentium®
4 mới có tốc độ 3,06 GHz. Công nghệ Siêu phân luồng có thể tăng tốc hiệu suất hoạt
động của máy tính lên tới 25%. Intel đạt mốc tốc độ mới cho máy tính với việc giới
thiệu bộ vi xử lý Pentium 4 tốc độ 3,06 GHz. Đây là bộ vi xử lý thương mại đầu tiên
có thể xử lý 3 tỷ chu trình một giây và được hiện thực hóa thông qua việc sử dụng
công nghệ sản xuất 0,13 micron tiên tiến nhất của ngành công nghiệp.

Tháng 6 năm 2003: Bộ vi xử lý Intel Pentium 4 hỗ trợ Công nghệ Siêu phân luồng
được giới thiệu với tốc độ 3,2 GHz

Tháng 11 năm 2003: Bộ vi xử lý Intel® Pentium® 4 Extreme Edition hỗ trợ Công
nghệ Siêu phân luồng tốc độ 3,20 GHz được giới thiệu. Sử dụng công nghệ xử lý 0,13
micron của Intel, bộ vi xử lý Intel Pentium 4 Extreme Edition có bộ nhớ đệm L2 dung

lượng 512 kilobyte, một bộ nhớ đệm L3 dung lượng 2 megabyte và một kênh truyền
hệ thống tốc độ 800 Mhz. Bộ vi xử lý này tương thích với họ chipset hiện tại Intel®
865 và Intel® 875 cũng như bộ nhớ hệ thống chuẩn.

Tháng 6 năm 2004: Bộ vi xử lý Intel Pentium 4 hỗ trợ Công nghệ Siêu phân luồng đạt
mốc 3,4 GHz
8

Tháng 4 năm 2005: Giới thiệu nền tảng sử dụng bộ vi xử lý hai nhân đầu tiên của
Intel gồm bộ vi xử lý Intel® Pentium® Extreme Edition 840 chạy ở tốc độ 3,2 GHz
và một chipset Intel® 955X Express. Các bộ vi xử lý hai nhân hoặc đa nhân được
phát triển bằng cách đưa hai hay nhiều nhân xử lý hoàn chỉnh vào trong một bộ vi xử
lý đơn nhất giúp quản lý đồng thời nhiều tác vụ.
Hình 12: Bộ vi xử lý Intel® Pentium® D
Tháng 5 năm 2005: Bộ vi xử lý Intel® Pentium® D với hai nhân xử lý – hay còn gọi
là “các bộ não” – được giới thiệu cùng với họ chipset Intel® 945 Express có khả năng
hỗ trợ những tính năng của các thiết bị điện tử tiêu dùng như âm thanh vòm, video có
độ phân giải cao và các khả năng xử lý đồ họa tăng cường.
Hình 13: Bộ vi xử lý Intel Core 2 Duo
Tháng 5 năm 2006: Nhãn hiệu Intel Core 2 Duo được công bố
Hình 14: Bộ vi xử lý Intel Core 2 Extreme Quad-Core
9
Tháng 7 năm 2006: Tập đoàn Intel công bố 10 bộ vi xử lý mới Intel Core 2 Duo và
Core 2 Extreme cho các hệ thống máy tính để bàn và máy tính xách. Những bộ vi xử
lý mới này nâng cao tới 40% hiệu suất hoạt động và nhiều hơn 40% hiệu quả tiết
kiệm điện năng so với bộ vi xử lý Intel® Pentium® tốt nhất. Các bộ vi xử lý Core 2
Duo có 291 triệu bóng bán dẫn.
Hình 15: Bộ vi xử lý Intel Xeon
Năm 2007: Intel Xeon Quad-Core, Intel Xeon Dual-Core, Intel Core 2 Extreme
Quad-Core với tên mã Penryn được công bố với tốc độ xử lý trên 3GHz. Đây cũng là

thế hệ bộ vi xử lý đầu tiên của Intel được sản xuất theo công nghệ 45nm. Ngoài ra,
các lệnh xử lý SSE4 mới hỗ trợ xử lý video, hình ảnh và các dữ liệu 3D với hiệu suất
cao hơn, tiết kiệm điện năng hơn.
Số lượng bóng bán dẫn: 820 triệu
II. NGUYÊN LÝ SÁNG TẠO CƠ BẢN ĐƯỢC ÁP DỤNG TRONG PHÁT TRIỂN VI XỬ LÝ CỦA
INTEL
Nguyên tắc liên tục các tác động có ích: kể từ năm 2005, bộ vi xử lý hai nhân đầu
tiên của Intel ra đời giúp tăng cường khả năng xử lý đa tác vụ. Các tiểu trình – thread
thay vì phải chờ đợi một nhân với một luồng vật lý duy nhất xử lý lần lượt thì giờ đây
có thể được xử lý gần như cùng một lúc bởi hai nhân xử lý riêng biệt trên cùng bộ vi
xử lý. Nhờ đó, giảm thiểu thời gian xử lý các tác vụ nặng nề, tăng cường hiệu suất xử
lý của CPU.
10
Hình 16: Minh họa kiến trúc một bộ vi xử lý 4 nhân
Nguyên tắc “chứa trong”: các bộ vi xử lý đa lõi chứa hai nhân trở lên trong cùng
một bộ vi xử lý. Các nhân này có thể hoạt động độc lập xử lý các tiến trình – process
khác nhau hay cùng nhau xử lý một tiến trình gồm nhiều tiểu trình.
Nguyên tắc kết hợp: thay vì một mainboard cần phải có không gian để chứa hai
CPU với mỗi CPU chỉ chứa một nhân xử lý duy nhất, kết hợp hai nhân hoặc nhiều
hơn vào cùng một CPU tạo thành bộ vi xử lý đa lõi. Việc kết hợp như vậy không
những giúp tiết kiệm không gian mà còn giảm thời gian truyền tải dữ liệu từ bộ nhớ
hệ thống đến nhiều CPU. Từ đó, còn tiết kiệm được đáng kể năng lượng tiệu thụ và
nhiệt năng tiêu hao (điện năng chuyển hóa thành nhiệt năng hao phí). Bên cạnh việc
kết hợp nhiều nhân xử lý vào cùng một bộ vi xử lý, Intel còn có tham vọng kết hợp
khả năng xử lý các ứng dụng đa phương tiện vào CPU, giúp người dùng tiết kiệm chi
phí cho việc mua card đồ họa rời rất đắt tiền.
Nguyên tắc linh động: năm 1989, thế hệ bộ vi xử lý Intel 486 ra đời giúp người dùng
tương tác với máy tính bằng giao diện đồ họa với thiết bị input mới là chuột máy tính.
Khả năng tương tác mới với máy tính này giúp người dùng sử dụng máy tính dễ dàng
hơn rất nhiều. Tuy nhiên, vẫn có thể tương tác với máy tính bằng phương pháp gõ

lệnh cũ, tạo sự thuận tiện tối đa cho người dùng.
11
Hình 17: Giao diện đồ họa của phần mềm Lupa trên máy Toshiba T200 PenPC, cấu
hình: 8MB RAM, ổ cứng 80MB và sử dụng bộ vi xử lý Intel 486 40MHz
Nguyên tắc thực hiện sơ bộ: để thực hiện mong muốn phát triển, sản xuất các bộ vi
xử lý tích hợp nhiều nhân, Intel cần chế tạo được các bộ vi xử lý hai nhân làm tiền đề.
Từ các kinh nghiệm đúc kết được trong quá trình phát triển CPU hai nhân, có thể thiết
kế và chế tạo các bộ vi xử lý nhiều hơn hai nhân một cách dễ dàng.
Hình 18: Kiến trúc bộ vi xử lý Intel Core i7 Nehalem
Nguyên tắc “rẻ” thay cho “đắt”: Intel luôn cố gắng đưa ra những sản phẩm bộ vi xử
lý có khả năng thay thế các loại card đồ họa đắt tiền, có khả năng xử lý đồ họa ngay
trong CPU với hiệu suất chấp nhận được. Tuy nhiên, việc kết hợp CPU với card đồ
họa như vậy không đáp ứng được cho các ứng dụng đòi hỏi khả năng xử lý đồ họa
một cách chuyên nghiệp như các ứng dụng mô hình hóa 3D, các video game “hạng
nặng”… Ngoài ra, việc tính hợp khả năng xử lý đồ họa vào CPU làm cho công việc
lập trình trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Mặc dù vậy, đây vẫn là giải pháp có chi phí
thấp cho người tiêu dùng so với việc mua và lắp đặt một card đồ họa rời cho máy tính
của mình.
12
Hình 19: Kiến trúc bộ vi xử lý Intel Sandy Bridge
B. SỰ PHÁT TRIỂN TRÌNH DUYỆT WEB INTERNET EXPLORER
I. GIỚI THIỆU
Windows Internet Explorer (trước đây là Microsoft Internet Explorer; viết tắt là IE),
là một dòng trình duyệt web giao diện đồ họa do Microsoft phát triển và là một thành
phần của các hệ điều hành Microsoft Windows kể từ năm 1995. Đây là trình duyệt
web có nhiều người sử dụng nhất từ năm 1999, đạt tới đỉnh cao là khoảng 95% thị
phần trong năm 2002 và 2003 với IE5 và IE6. Kể từ đó thị phần của trình duyệt này
đã từ từ giảm xuống với sự cạnh tranh đổi mới từ các trình duyệt web khác, với
Mozilla Firefox là đối thủ đáng kể. Microsoft đã chi hơn 100 triệu đô la Mỹ mỗi năm
vào IE vào cuối thập niên 1990, với hơn 1000 người tham gia phát triển vào năm

1999.
Phiên bản phát hành mới nhất là 9.0, hiện cho phép cập nhật miễn phí đối với các hệ
điều hành Windows 7 Service Pack 1 và Windows Vista Service Pack 2.
Internet Explorer được phát hành lần đầu tiên với vai trò là một gói bổ sung Plus! for
Windows 95 vào năm 1995. Các phiên bản sau đó cho phép tải về miễn phí, hoặc
nằm trong các bản service pack, và kèm trong các bản phát hành dịch vụ OEM của
Windows 95 và các phiên bản Windows sau đó.
Các phiên bản khác có mặt từ cuối thập niên 1990 bao gồm một phiên bản OEM
nhúng có tên gọi Internet Explorer for Windows CE (IE CE) có trong các nền tảng
trên WinCE và hiện dựa trên IE6. Internet Explorer dành cho Pocket PC, sau đó được
đổi tên thành Internet Explorer Mobile dành cho Windows Mobile cũng đã được phát
triển, và vẫn tiếp tục phát triển cùng với các phiên bản dành cho máy tính để bàn với
nhiều chức năng hơn.
II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
Dự án Internet Explorer được bắt đầu vào mùa hè năm 1994 bởi Thomas Reardon và
sau đó do Benjamin Slivka làm trưởng nhóm, lấy ý tưởng mã nguồn từ Spyglass, Inc.
Mosaic, một trình duyệt web thương mại có mặt từ sớm với hình thức gắn liền với
13
trình duyệt tiên phong Mosaic của NCSA. Vào cuối năm 1994, Microsoft đã xin được
phép từ Spyglass Mosaic với sự hỗ trợ chi phí hàng quý cùng với một số phần trăm
trong lợi nhuận thu được từ các sản phẩm không phải Windows của Microsoft để đổi
lấy phần mềm. Mặc dù có tên tương tự như Mosaic của NCSA, Spyglass Mosaic
dùng không nhiều mã nguồn của NCSA Mosaic.
Internet Explorer 1
Internet Explorer 1 ra mắt vào tháng 8 năm 1995. Nó là phiên bản chỉnh sửa của
Spyglass Mosaic mà Microsoft đã có phép, giống như nhiều công ty khác bắt đầu việc
phát triển trình duyệt cho riêng mình, từ Spyglass Inc. Nó đi kèm với Microsoft Plus!
for Windows 95 và bản phát hành OEM của Windows 95. Phiên bản này được cài đặt
thành một phần của Internet Jumpstart Kit trong Plus!. Nhóm Internet Explorer bắt
đầu khoảng sáu người trong giai đoạn phát triển đầu tiên. Internet Explorer 1.5 được

phát hành vài tháng sau đó dành cho Windows NT và bổ sung tính năng hỗ trợ hiển
thị bảng biểu cơ bản. Tuy nhiên, với việc đưa kèm miễn phí nó vào hệ điều hành, họ
không phải trả tiền bản quyền cho Spyglass Inc., dẫn đến kiện cáo làm tiêu tốn hàng
triệu đô la Mỹ.
Hình 20: Internet Explorer 1
Internet Explorer 2
Internet Explorer 2 được phát hành dành cho Windows 95, Windows NT 3.5, và NT
4.0 vào tháng 11 năm 1995 (sau bản 2.0 beta vào tháng 10). Nó hỗ trợ SSL, cookie,
VRML, RSA, và nhóm tin Internet. Phiên bản 2 cũng là bản phát hành đầu tiên dành
cho Windows 3.1 và Macintosh System 7.0.1 (PPC hay 68k), mặc dù phiên bản Mac
không được phát hành cho đến tháng 1 năm 1996 dành cho PPC, và tháng 4 dành cho
68k. Phiên bản 2.1 dành cho Mac ra mắt vào tháng 8 năm 1996, mặc dù vào thời điểm
đó Windows đã lên đến phiên bản 3.0. Phiên bản 2 được kèm trong Windows 95 OSR
1 và Internet Starter Kit for Windows 95 của Microsoft vào đầu năm 1996. Phần mềm
phát hành với 12 ngôn ngữ trong đó có tiếng Anh nhưng nó mở rộng ra đến 24, 20, và
9 lần lượt cho các phiên bản dành cho Win 95, Win 3.1 và Mac vào tháng 4 năm
1996. Bản 2.0i hỗ trợ bộ ký tự byte kép.
14
Internet Explorer 3
Internet Explorer 3, phát hành vào tháng 8 năm 1996, và tiếp tục nổi tiếng hơn người
tiền nhiệm. Nó được phát triển mà không dùng mã nguồn Spyglass, mặc dù vẫn ghi
công cho "công nghệ" Spyglass trong tài liệu của chương trình. Internet Explorer 3 là
trình duyệt lớn đầu tiên có hỗ trợ CSS, mặc dù còn hạn chế. Được phát hành vào ngày
13 tháng 8 năm 1996, nó cũng cho ra mắt tính năng hỗ trợ ActiveX controls, Java
applet, đa phương tiện nhúng, và hệ thống PICS dành cho nội dung siêu dữ liệu
(metadata). Phiên bản 3 cũng được đóng gói chung với Internet Mail and News,
NetMeeting, và phiên bản đầu tiên của Windows Address Book, và nó cũng kèm
trong Windows 95 OSR 2. Phiên bản 3 đã chứng tỏ mình là phiên bản nổi tiếng hơn
của Internet Explorer, nhờ sự chăm chút kỹ lưỡng cho nó. Trong nhiều tháng sau khi
ra mắt, một số lỗ hổng bảo mật và riêng tư được các nhà nghiên cứu và hacker tìm

thấy. Phiên bản này của Internet Explorer là phiên bản đầu tiên có logo "chữ e màu
xanh". Nhóm Internet Explorer bao gồm 100 người trong suốt quá trình 3 tháng phát
triển. Lỗ hổng bảo mật IE lớn đầu tiên, Princeton Word Macro Virus Loophole, được
khám phá vào ngày 22 tháng 8 năm 1996 trong IE3. Tính năng tương thích ngược xử
lý bằng cách cho phép những người nào nâng cấp lên IE3 vẫn có thể sử dụng IE trước
đó, vì quá trình cài đặt đã chuyển phiên bản trước vào thư mục riêng rẽ.
Internet Explorer 4
Internet Explorer 4, phát hành vào tháng 9 năm 1997 đào sâu hơn mức độ tích hợp
giữa trình duyệt web và hệ điều hành phía dưới. Việc cài đặt phiên bản 4 trên máy
Windows 95 và Windows NT 4 và chọn Windows Desktop Update có thể dẫn đến
việc Windows Explorer truyền thống bị thay bằng một phiên bản trông giao diện như
trình duyệt web, cũng như màn hình nền Windows cũng trở thành web được thông
qua Active Desktop. Tuy nhiên, sự tích hợp với Windows là chủ đề của rất nhiều
những chỉ trích về đóng gói. Tùy chọn này không còn tồn tại với các bản cài đặt dành
cho các phiên bản sau của Internet Explorer nhưng vẫn không bỏ ra khỏi hệ thống
được nếu đã cài đặt rồi. Internet Explorer 4 ra mắt sự hỗ trợ Group Policy, cho phép
các công ty cấu hình và khóa nhiều chức năng cấu hình của trình duyệt. Internet Mail
and News được thay bằng Outlook Express, và Microsoft Chat và một phiên bản
NetMeeting cải tiến cũng được đính kèm. Phiên bản này cũng kèm trong Windows
98. Các tính năng mới được thêm vào cho phép người dùng lưu và truy xuất các nội
dung đăng trong các mẫu bình luận mà đến nay vẫn không được sử dụng. Internet
Explorer 4.5 có thêm các tính năng mới như mã hóa 128-bit dễ dàng hơn. Nó cũng có
sự phát triển vượt bậc về độ ổn định so với các phiên bản trước, đặc biệt là phiên bản
68k hoàn toàn không bị treo.
Internet Explorer 5
Internet Explorer 5, phát hành vào ngày 18 tháng 3 năm 1999, và sau đó được kèm
trong Windows 98 Second Edition và đóng gói chung với Office 2000, là một phiên
bản nổi bật khác có hỗ trợ văn bản hai hướng, ký tự ruby, XML, XSLT và khả năng
lưu trang web dưới định dạng MHTML. IE5 được đóng gói với Outlook Express 5.
Ngoài ra, với việc phát hành Internet Explorer 5.0, Microsoft cũng phát hành phiên

15
bản XMLHttpRequest đầu tiên, khai sinh ra Ajax (mặc dù thuật ngữ "Ajax" vẫn
không xuất hiện cho đến vài năm sau). Nó là phiên bản cuối cùng ở dạng 16-bit.
Internet Explorer 5.01, một phiên bản sửa lỗi, được phát hành vào tháng 12 năm
1999. Windows 2000 có phiên bản này. Internet Explorer 5.5 tiếp nối vào tháng 7
năm 2000, tăng cường khả năng xem thử trước khi in, hỗ trợ chuẩn CSS và HTML,
và API cho lập trình viên; phiên bản này đi cùng với Windows Me. Phiên bản 5.5
cũng hỗ trợ mã hóa 128-bit. Tuy nhiên, phiên bản 5 là phiên bản cuối cùng dành cho
Mac và UNIX. Phiên bản 5.5 là phiên bản cuối cùng có Chế độ Tương thích, cho
phép Internet Explorer 4 có thể chạy song song với 5.x. Nhóm IE lúc nào đã lên đến
hơn 1000 người vào năm 1999, tiêu tốn 100 triệu USD mỗi năm.
Hình 21: Internet Explorer 5 trên Windows 98
Internet Explorer 6
Internet Explorer 6 phát hành vào ngày 27 tháng 8 năm 2001, một vài tháng trước khi
Windows XP ra mắt. Phiên bản này bao gồm cải tiến DHTML, các khung chứa nội
dung, và hỗ trợ một phần CSS cấp 1, DOM cấp 1 và SMIL 2.0. Bộ máy MSXML
cũng được cập nhật lên phiên bản 3.0. Các tính năng mới khác bao gồm một phiên
bản mới của Internet Explorer Administration Kit (IEAK), thanh Trình diễn, tích hợp
Windows Messenger, thu thập lỗi, tự thay đổi kích thước hình ảnh, P3P, và trải
nghiệm giao diện mới giống như phong cách hình ảnh Luna của Windows XP, khi
dùng trong Windows XP. Internet Explorer 6.0 SP1 có thêm những cải tiến bảo mật
và phát hành cùng lúc với phiên bản vá XP SP1. Vào năm 2002, giao thức Gopher đã
bị tắt và không còn được hỗ trợ trong Internet Explorer 7. Internet Explorer 6.0 SV1
phát hành vào ngày 6 tháng 8 năm 2004 dành cho Windows XP SP2 và đưa nhiều cải
tiến bảo mật và các nút có màu mới trên giao diện. IE6 đã cập nhật biểu trưng "chữ e
màu xanh" sang màu xanh nhạt hơn và có hình dáng 3 chiều hơn.
16
Hình 22: Internet Explorer 6 trên Windows XP
Internet Explorer 7
Internet Explorer 7 phát hành vào ngày 18 tháng 10 năm 2006. Nó gồm các sửa lỗi,

cải tiến hỗ trợ các tiêu chuẩn web, duyệt theo thẻ với tính năng xem trước và quản lý
thẻ, một hộp tìm kiếm tích hợp nhiều bộ máy, bộ đọc mẩu tin mạng, hỗ trợ Tên miền
quốc tế hóa (IDN), và bộ lọc chống lừa đảo. Với IE7, Internet Explorer đã được tách
ra khỏi Windows Shell - không như các phiên bản khác, Internet Explorer ActiveX
control không còn đặt trên tiến trình của Windows Explorer, mà chạy trên một tính
trình Internet Explorer riêng biệt. Nó được kèm trong Windows Vista và Windows
Server 2008, và có thể tải về cho Windows XP Service Pack 2 trở về sau, và
Windows Server 2003 Service Pack 1 trở về sau. Bản phát hành nguyên thủy của
Internet Explorer 7 đòi hỏi máy tính phải vượt qua quy trình kiểm tra Windows
Genuine Advantage trước khi cài đặt, nhưng vào ngày 5 tháng 10 năm 2007,
Microsoft đã bỏ yêu cầu này. Theo như một số thống kê cho thấy, đến giữa năm
2008, Internet Explorer 7 đã vượt qua Internet Explorer 6 về số người sử dụng.
Hình 23: Internet Explorer 7 trên Windows Vista
Internet Explorer 8
17
Internet Explorer 8 phát hành vào ngày 19 tháng 3 năm 2009. Nó đã được phát triển
trễ nhất là từ tháng 8 năm 2007. Vào ngày 5 tháng 3 năm 2008, bản beta công cộng
đầu tiên (Beta 1) được phát hành cho công chúng. Vào ngày 27 tháng 8 năm 2008,
bản beta công cộng thứ hai (Beta 2) được phát hành. Nó hỗ trợ Windows XP SP2 và
SP3, Windows Server 2003 SP2, Windows Vista và Windows Server 2008 trên cả
kiến trúc 32-bit lẫn 64-bit. Internet Explorer 8 (IE8) RC1 được phát hành vào ngày 26
tháng 1 năm 2009. Bảo mật, dễ dùng, và những cải tiến về RSS, CSS, và hỗ trợ Ajax
là những ưu tiên của Microsoft dành cho IE8. Nó tương thích chặt hơn với các tiêu
chuẩn web, gồm có tương thích đầy đủ với Cascading Style Sheets 2.1. Tất cả các
thay đổi này cho phép Internet Explorer 8 vượt qua kiểm tra Acid2. Tuy nhiên, để
ngăn ngừa các vấn đề về tương thích, IE8 cũng kèm cả khả năng hiển thị kiểu IE7.
Các trang không muốn chuyển đổi giao diện theo IE8 có thể tắt sự thay đổi này bằng
cách thêm một thẻ vào phần HEAD của trang web. IE8 cũng kèm thêm nhiều cải tiến
đối với JavaScript cũng như tăng cường hiệu năng, mặc dù nó vẫn chưa vượt qua
được kiểm tra Acid3, với phiên bản 8.0 RC1 ghi được 20/100 điểm. Nó bao gồm sự

hỗ trợ Accelerators - cho phép hỗ trợ ứng dụng web được kích hoạt mà không cần gọi
tường minh - và WebSlices - cho phép các thành phần trang được đăng ký và theo dõi
từ một Favorites Bar có sẵn. Các tính năng khác gồm có tính năng duyệt riêng tư
InPrivate, và bộ lọc lừa đảo SmartScreen.
Hình 24: Internet Explorer 8 trên Windows 7
Internet Explorer 9
Internet Explorer 9 phát hành vào ngày 14 tháng 3 năm 2011. Nó được phát triển sau
khi Internet Explorer 8 chính thức phát hành. Microsoft bắt đầu nhận phản hồi và đề
xuất của các chuyên viên kiểm thử cá nhân thông qua Microsoft Connect. Microsoft
chính thức công bố Internet Explorer 9 tại PDC 2009 và chú trọng vào khả năng và
lợi ích có được từ việc khai thác sức mạnh phần cứng trong DirectX để cải thiện tốc
độ của các ứng dụng web và chất lượng hiển thị phông chữ trên trình duyệt web. Tại
MIX 10, Microsoft công bố phát hành phiên bản Platform Preview đầu tiên cho
Internet Explorer 9, là một khung chương trình để thể hiện khả năng của bộ máy xử lý
18
của trình duyệt, không bao gồm giao diện chính thức. Trong suốt khoảng thời gian
thử nghiệm và nhận phản hồi từ các chuyên gia kiểm thử cá nhân cho đến khi phiên
bản chính thức được hoàn thành, Microsoft liên tục phát hành các phiên bản Platform
Preview mới khoảng 6 tuần một lần, cải thiện khả năng biên dịch JavaScript (phiên
bản 32-bit), cải thiện điểm kiểm tra Acid3, cũng như hỗ trợ các chuẩn mới của
HTML5. Tổng cộng có 8 phiên bản Platform Preview được phát hành. Phiên bản beta
đầu tiên được phát hành tại một sự kiện đặc biệt ở San Francisco với chủ đề “vẻ đẹp
của web” (“The beauty of the web”). Phiên bản release candidate phát hành vào ngày
10 tháng 2 năm 2011, cải thiện tốc độ, tinh chỉnh giao diện và hỗ trợ nhiều chuẩn
khác. Phiên bản chính thức phát hành tại sự kiện âm nhạc và liên hoan phim South by
Southwest ở Austin, Texas vào ngày 14 tháng 3 năm 2011. Internet Explorer chỉ chạy
trên Windows Vista SP2 và Windows 7. Nó hỗ trợ nhiều thuộc tính CSS3 (bao gồm
border-radius, box-shadow,…), các color profiles ICC v2 và v4 thông qua Windows
Color System. Phiên bản 32-bit có khả năng xử lý JavaScript nhanh, nhờ vào bộ máy
JavaScript mới có tên là “Chakra”. Internet Explorer 9 còn hỗ trợ tăng tốc đồ họa nhớ

phần cứng sử dụng Direct2D, tăng tốc redering văn bản nhờ phần cứng sử dụng
DirectWrite, tăng tốc rendering video nhờ phần cứng sử dụng Media Foundation, khả
năng xử lý ảnh được hỗ trợ bởi Windows Imaging Component, in ấn độ nét cao được
hỗ trợ bởi pipeline in ấn XPS. Internet Explorer 9 còn hỗ trợ các tag video và audio
của HTML5 và Web Open Font Format. Internet Explorer 9 hiện tại ghi 95/100 điểm
trong kiểm tra Acid3.
Hình 25: Internet Explorer 9 trên Windows 7
Internet Explorer 10
Internet Explorer 10 được Microsoft công bố tại MIX 11 ở Las Vegas, đồng thời phát
hành phiên bản Platform Preview đầu tiên. Vào thời điểm diễn ra hội nghị, IE 10 đã
được phát triển từ khoảng 3 tuần trước đó. Phiên bản này hỗ trợ tốt hơn các chuẩn,
19
bao gồm CSS3 gradients. Internet Explorer 10 không hỗ trợ Windows Vista và chỉ
chạy trên Windows 7 và Windows 8.
Hình 26: Internet Explorer 10 trên Windows 8 Professional 64-bit
III. TÍNH NĂNG
Internet Explorer đã được thiết kế để xem được nhiều loại trang web khác nhau và
cung cấp một số tính năng nhất định cùng với hệ điều hành, trong đó có Microsoft
Update. Vào thời hoàng kim của cuộc chiến trình duyệt lúc trước, Internet Explorer
đã chiến thắng Netscape chỉ khi nó bắt kịp với công nghệ để hỗ trợ những tính năng
tiên tiến lúc bấy giờ.
Hỗ trợ các tiêu chuẩn
Internet Explorer, dùng bộ máy trình bày Trident:
• Hỗ trợ đầy đủ HTML 4.01, CSS Cấp 1, XML 1.0 và DOM Cấp 1, với một ít
khác biệt hiện thực.
• Hỗ trợ đầy đủ XSLT 1.0 cũng như một biến thể của XSLT do Microsoft đưa ra
(nay đã không còn tồn tại) có tên WD-xsl, dựa một phần trên Bản nháp XSL
của W3C vào tháng 12 năm 1998. Hỗ trợ XSLT 2.0 tùy vào tương lai.
• Hỗ trợ một phần CSS Cấp 2 và DOM Cấp 2, với khoảng cách hiện thực lớn và
các vấn đề tương thích lớn. Tương thích hoàn toàn với CSS 2.1 đã có trong

bản Internet Explorer 8.
• Không hỗ trợ XHTML
• Không hỗ trợ SVG, cả bản 7.0 lẫn 8.0.
• Internet Explorer sử dụng DOCTYPE sniffing để lựa chọn giữa "chế độ thoái
thác" (hiển thị tương tự như các phiên bản MSIE cũ hơn) và chế độ tiêu chuẩn
(hiển thị gần với tài liệu W3C) đối với việc hiển thị HTML và CSS trên màn
hình (Internet Explorer luôn dùng chế độ chuẩn khi in ấn). Nó cũng cung cấp
một biến thể của ECMAScript có tên JScript.
Internet Explorer đã là chủ đề chỉ trích vì sự hỗ trợ hạn chế đối với các tiêu chuẩn
web mở.
20
Bộ mở rộng cho các tiêu chuẩn
Internet Explorer đã giới thiệu một loạt các phần mở rộng thương mại vào nhiều tiêu
chuẩn, trong đó có HTML, CSS và DOM. Điều này dẫn đến một số trang web chỉ có
thể xem đúng nếu đùng Internet Explorer.
Internet Explorer cũng giới thiệu một số phần mở rộng cho JScript và đã được các
trình duyệt khác đưa vào. Trong số các phần mở rộng có thuộc tính innerHTML, sẽ
trả về chuỗi HTML trong một thành tố (element); đối tượng XMLHttpRequest, cho
phép gửi yêu cầu HTTP và nhận về hồi đáp HTTP; và thuộc tính designMode của đối
tượng contentDocument, cho phép soạn thảo nhiều chức năng đối với văn bản
HTML. Một số các chức năng này không thể hoạt động được cho đến khi các phương
thức W3C DOM ra mắt. Bộ mở rộng ký tự Ruby của nó vào HTML cũng được chấp
nhận làm một module trong W3C XHTML 1.1, mặc dù không tìm thấy nó trong tất cả
các phiên bản của W3C HTML.
Microsoft đã đề cử một số tính năng khác của IE để W3C xem xét chuẩn hóa. Trong
số này có thuộc tính CSS 'hành vi', kết nối các thành tố HTML với các hành vi JScript
(có tên HTML Components, HTC); hồ sơ HTML+TIME, thêm hỗ trợ đồng bộ hóa
thời gian và phương tiện vào văn bản HTML (tương tự như W3C XHTML+SMIL);
và định dạng tập tin đồ họa vector VML. Tuy nhiên, tất cả chúng đều bị từ chối, ít
nhất là ở dạng nguyên bản. Tuy nhiên, VML sau đó đã được phối hợp với PGML (do

Adobe và Sun đề xuất), để có được định dạng SVG mà W3C đã chứng nhận, hiện là
một số số ít các định dạng hình ảnh vector đang được sử dụng trên web, còn IE lại rất
độc đáo khi vẫn không hỗ trợ định dạng này.
Các tiêu chuẩn thương mại khác bao gồm, hỗ trợ văn bản dọc, nhưng trong một cú
pháp khác với lời khuyên ứng viên W3C CSS3. Hỗ trợ các hiệu ứng hình ảnh khác
nhau và chuyển trang, không có trong W3C CSS. Hỗ trợ mã kịch bản hoang mang
(obfuscated), mà cụ thể là JScript.Encode(). Hỗ trợ các phông chữ EOT nhúng trong
trang web.
Favicon
Favicon (viết tắt cho "favorites icon", biểu tượng ưa thích) được Internet Explorer
giới thiệu, hiện nay cũng đã được hỗ trợ và mở rộng trong các trình duyệt khác. Nó
cho phép các trang web chỉ định một hình ảnh rộng 16x16 pixel trong mục đánh dấu
trang. Nguyên thủy, nó chỉ hỗ trợ cho định dạng ICO gốc của Windows, tuy nhiên nó
đã được mở rộng cho các loại hình ảnh khác như PNG và GIF.
Tính dễ dùng và dễ tiếp cận
Tổ chức Favorites trong Internet Explorer 6Internet Explorer tận dụng nền tảng dễ
tiếp cận (accessibility) trong Windows. Internet Explorer cũng là một giao diện người
dùng cho FTP, với các tác vụ tương tự như Windows Explorer (mặc dù tính năng này
cần phải dùng cửa sổ dòng lệnh để kích hoạt trong các phiên bản gần đây, chứ không
nằm hẳn trong trình duyệt). Visual Basic for Applications (VBA) không được hỗ trợ,
21
nhưng vẫn dùng được thông qua bộ mở rộng (iMacros). Các phiên bản gần đây có
tính năng chặn pop-up và duyệt theo thẻ. Duyệt theo thẻ cũng có thể thêm vào các
phiên bản cũ nếu cài MSN Search Toolbar của Microsoft hay Yahoo Toolbar của
Yahoo.
Bộ đệm (Cache)
Internet Explorer lưu vào bộ đệm các nội dung đã viếng thăm trong thư mục
Temporary Internet Files để cho phép truy cập nhanh hơn (hoặc truy cập ngoại tuyến)
vào các trang đã xem trước đó. Nội dung được đánh chỉ mục trong một tập tin cơ sở
dữ liệu, có tên Index.dat. Nhiều tập tin Index.dat khác nhau tồn tại để đánh chỉ các

nội dung khác nhau - nội dung đã xem, bản tin web, mục tự điền, URL đã xem,
cookie, v.v.
Trước IE7, xóa bộ đệm sẽ xóa chỉ mục nhưng bản thân tập tin không bị xóa. Tính
năng này có thể là nguy cơ bảo mật cho cả cá nhân lẫn công ty. Từ IE7 trở đi, cả chỉ
mục lẫn tập tin đều bị xóa khi tẩy bộ đệm.
Group Policy
Internet Explorer hoàn toàn có thể cấu hình được bằng cách dùng Group Policy
(chính sách nhóm). Những người quản trị miền Windows Server có thể áp dụng và
bắt buộc một số các thiết lập có ảnh hưởng đến giao diện người dùng (như tắt các
mục trên trình đơn và các tùy chọn cấu hình chho từng cá nhân), cũng như các tính
năng bảo mật phía dưới như tải tập tin, cấu hình vùng (zone), thiết lập theo từng
trang, hành vi ActiveX control, và nhiều thứ khác. Các thiết lập chính sách có thể
được cấu hình cho mỗi người dùng và do mỗi máy tính. Internet Explorer cũng hỗ trợ
Integrated Windows Authentication (Chứng nhận Windows Tích hợp).
IV. KIẾN TRÚC
Hình 27: Kiến trúc của Internet Explorer 8
22
Internet Explorer sử dụng kiến trúc phân rã thành phần được xây dựng xoay quanh
công nghệ Mô hình Đối tượng Thành phần (Component Object Model - COM). Nó
bao gồm năm thành phần chính, mỗi thành phần được chứa trong một thư viện .dll
riêng rẽ và đưa ra một tập các interface COM cho phép được chứa trong tập tin thực
thi chính của Internet Explorer, iexplore.exe:
WinInet.dll
WinInet.dll là bộ xử lý giao thức dành cho HTTP và FTP. Nó xử lý tất cả các giao
tiếp mạng thông qua các giao thức này.
URLMon.dll
URLMon.dll chịu trách nhiệm xử lý kiểu MIME và việc tải về các nội dung web-type
handling and download of web .
MSHTML.dll
MSHTML.dll giữ bộ máy biểu diễn Trident được giới thiệu từ Internet Explorer 4,

chịu trách nhiệm hiển thị trang lên màn hình và xử lý Mô hình Đối tượng Tài liệu
(DOM) của trang web. MSHTML.dll sẽ phân tích các tập tin HTML/CSS và tạo ra
dạng biểu diễn cây DOM cho nó. Nó cũng đưa ra một tập các API dành cho việc
duyệt và điều chỉnh cây DOM trong khi đang chạy. Cây DOM được bộ máy trình bày
xử lý kỹ hơn rồi sau đó được biểu diễn thành cách trình bày lên màn hình.
IEFrame.dll
IEFrame.dll chứa giao diện người dùng và cửa sổ IE trong Internet Explorer 7 trở về
trước.
ShDocVw.dll
ShDocVw.dll cung cấp các tác vụ để duyệt web, lưu bộ đệm và lịch sử cho trình
duyệt.
BrowseUI.dll
BrowseUI.dll chịu trách nhiệm giao diện người dùng trình duyệt, bao gồm chrome
của trình duyệt, tức là tất cả các trình đơn và thanh công cụ.
Internet Explorer không chứa bất kỳ chức năng tạo kịch bản nào bên trong nó. Mà
chính MSHTML.dll sẽ đưa ra một tập API khác để cho phép các môi trường tạo kịch
bản được nhúng vào và truy xuất cây DOM. Internet Explorer 8 có gắn sẵn bộ máy
Active Scripting (là một phần của Microsoft Windows), cho phép bất cứ ngôn ngữ
nào được hiện thực thành một module Active Scripting có thể được dùng để tạo kịch
bản từ phía máy khách. Mặc định, chỉ có module JScript và VBScript là được cung
cấp; các hiện thực từ bên thứ ba như ScreamingMonkey (để hỗ trợ ECMAScript 4)
cũng có thể dùng được. Microsoft cũng đưa ra trình chạy Microsoft Silverlight để cho
phép ngôn ngữ CLI, bao gồm các ngôn ngữ động dựa trên DLR như IronPython và
IronRuby, dùng cho việc tạo kịch bản từ phía máy khách.
Internet Explorer 8 giới thiệu một vài thay đổi lớn, có tên là Loosely Coupled IE
(LCIE). LCIE tách các tiến trình giao diện ra khỏi tiến trình chứa các ứng dụng web
khác nhau tại các thẻ khác nhau (tiến trình thẻ - tab process). Một tiến trình giao diện
có thể tạo ra nhiều tiến trình thẻ, mỗi tiến trình thẻ có thể có độ tích hợp khác nhau;
mỗi tiến trình thẻ có thể chứa nhiều website và có bộ đệm cookie của riêng nó. Hai
tiến trình sử dụng Liên lạc Liên Tiến trình (Inter-Process Communication) bất đồng

23
bộ để tự đồng bộ chúng. Nói chung, sẽ có một tiến trình thẻ dành cho tất cả các web
site. Tuy nhiên, trong Windows Vista nếu bật chế độ bảo vệ, nội dung ưu tiên đang
được mở (như các trang HTML trong máy) sẽ tạo ra một tiến trình thẻ mới vì nó
không bị ràng buộc bởi chế độ bảo vệ.
V. KHẢ NĂNG MỞ RỘNG
Internet Explorer đưa ra một tập các interface Mô hình Đối tượng Thành phần
(Component Object Model - COM) cho phép các thành phần khác mở rộng chức
năng của trình duyệt. Khả năng mở rộng này được chia làm hai loại: Mở rộng trình
duyệt và Mở rộng nội dung. Các interface mở rộng trình duyệt có thể dùng để nhúng
các thành phần dùng để thêm các mục trình đơn, thanh công cụ, mục trong một trình
đơn hay Đối tượng Trợ giúp Trình duyệt (Browser Helper Objects - BHO). Các BHO
được dùng để mở rộng bộ tính năng của trình duyệt, trong khi các tùy chọn mở rộng
khác dùng để đưa tính năng đó ra giao diện. Các interface mở rộng nội dung được các
bộ xử lý kiểu nội dung khác nhau sử dụng để thêm hỗ trợ cho các định dạng nội dung
không có sẵn. Các BHO không chỉ được truy cập không giới hạn vào DOM và mô
hình sự kiện của Internet Explorer, mà chúng còn có thể truy cập hệ thống tập tin,
registry và các thành phần hệ điều hành khác. Khả năng mở rộng nội dung có thể
được gọi là Active Documents (Doc Objects) (ví dụ, SVG hay MathML) hoặc
ActiveX controls. Các ActiveX control được dành cho các bộ xử lý nội dung trình
bày nội dung được nhúng trong trang HTML (như Adobe Flash hay Microsoft
Silverlight). Các đối tượng Doc được dùng khi kiểu nội dung không được nhúng
trong HTML (như Microsoft Word, PDF hay XPS). Trên thực tế, bản thân bộ máy
biểu diễn Trident cũng là một đối tượng Doc, do đó HTML tự nó cũng được xem là
một Active Document.
Hình 28: Trình quản lý add-on trong Windows XP SP2 Internet Explorer 6 SV1
Các thành phần bổ trợ (add-on) Interner Explorer chạy với cùng mức ưu tiên với trình
duyệt, không giống như các đoạn mã kịch bản phía máy khách có ít quyền ưu tiên
hơn. Thành phần bổ trợ có thể được cài đặt từ máy, hoặc trực tiếp từ website. Vì các
24

thành phần bổ trợ có mức truy cập đến hệ thống cao hơn, các trình bổ trợ ác ý có thể
và đã được dùng để xâm nhập vào sự bảo mật của hệ thống. Internet Explorer 6
Service Pack 2 trở về sau đã cung cấp các công cụ bảo vệ khỏi những thứ này, bao
gồm một Trình quản lý Add-on Manager dùng để quản lý các ActiveX control và Đối
tượng Trợ giúp Trình duyệt và một chế độ vận hành "Không có trình bổ sung" cũng
như hạn chế hơn đối với việc cài đặt add-on từ website.
Bản thân Internet Explorer có thể được các trình ứng dụng khác lưu trữ thông qua
một tập các interface COM. Nó có thể dùng để nhúng các chức năng trình duyệt vào
bên trong một ứng dụng. Tương tự, ứng dụng lưu trữ có thể chọn chỉ chứa bộ máy
biểu diễn MSHTML.dll chứ không cần phải chứa toàn bộ trình duyệt.
VI. BẢO MẬT
Internet Explorer sử dụng nền tảng bảo mật dựa theo khu vực, nó sẽ nhóm các site lại
dựa trên một số điều kiện cụ thể, như nó có phải là site trên Internet hay Intranet hoặc
có nằm trong danh sách trắng do người dùng ghi nhận hay không. Các ạn chế bảo mật
được áp dụng theo khu vực; tất cả các site trong một khu vực sẽ tuân theo cùng một
hạn chế.
Internet Explorer 6 SP2 trở về sau sử dụng Dịch vụ Thực thi Đính kèm (Attachment
Execution Service) của Microsoft Windows để đánh các tập tin thực thi được tải về từ
Internet có thể không an toàn. Khi truy cập các tập tin được đánh dấu như vậy, trình
duyệt sẽ nhắc người dùng phải có quyết định tin tưởng trước khi thực thi, vì các tập
tin thực thi xuất phát từ Internet có thể có nhiều nguy cơ không an toàn. Cách làm này
giúp ngăn ngừa việc cài đặt phần mềm độc hại một cách vô ý.
Internet Explorer 7 giới thiệu bộ lọc chống lừa đảo (phishing), hạn chế truy cập đến
các site phishing trừ khi người dùng quyết định tiếp tục xem. Với phiên bản 8, trình
duyệt còn khóa truy cập vào trang site được biết là đang lưu trữ phần mềm độc hại
(malware). Việc tải về cũng được kiểm tra để xem chúng có từng được báo là nhiễm
phần mềm độc hại hay không.
Trong Windows Vista, Internet Explorer mặc định chạy trong chế độ có tên là Chế độ
Bảo vệ (Protected Mode), trong đó đặc quyền của chính trình duyệt bị hạn chế đáng
kể - nó không thể thực hiện thay đổi hệ thống. Người dùng có thể tắt chế độ này

nhưng không được khuyến khích. Nó cũng hạn chế hiệu quả đặc quyền của các trình
bổ sung (add-on). Kết quả là thậm chí nếu trình duyệt hoặc trình bổ sung nào bị
khống chế, những thiệt hại bảo mật vẫn rất hạn chế.
Các bản vá và bản cập nhật trình duyệt được phát hành định kỳ và có thể tải về thông
qua dịch vụ Microsoft Update, cũng như thông qua Automatic Updates. Mặc dù các
bản vá bảo mật tiếp tục được phát hành cho nhiều hệ điều hành, đa số các bổ sung
tính năng hay cải tiến nền tảng bảo mật chỉ có mặt cho các hệ điều hành đang trong
giai đoạn hỗ trợ chủ yếu của Microsoft.
25

×