Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TỔNG QUÁT VỀ BỀN VỮNG, QUẢN LÝ BỀN VỮNG, QUẢN LÝ BỀN VỮNG DƯỚI GÓC ĐỘ KHAI THÁC VÀ TIÊU THỤ NĂNG LƯỢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.63 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
QUẢN LÝ BỀN VỮNG CÁC NGUỒN NĂNG LƯỢNG
ĐỀ TÀI:
TỔNG QUÁT VỀ BỀN VỮNG,
QUẢN LÝ BỀN VỮNG, QUẢN LÝ BỀN
VỮNG DƯỚI GÓC ĐỘ KHAI THÁC
VÀ TIÊU THỤ NĂNG LƯỢNG
CBGD: PGS. TS LÊ CHÍ HIỆP
HỌC VIÊN: KIỀU THU HÀ
LỚP: QLMT – K2010
MSHV: 1080100016
TP. HỒCHÍ MINH, THÁNG 6/2011
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 3
CHƯƠNG 1: CÁC ĐỊNH NGHĨA VỀ BỀN VỮNG, QUẢN LÝ BỀN VỮNG 4
1. Định nghĩa “Bền vững”: 4
2. Định nghĩa “Phát triển bền vững” (PTBV) 4
3. Định nghĩa “Quản lý bền vững” 7
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ CÁC NGUỒN NĂNG LƯỢNG 8
1. Định nghĩa “Năng lượng” (NL) 8
2. Phân loại các dạng NL 8
3. Tình hình tiêu thụ NL trên thế giới và Việt Nam 9
CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ BỀN VỮNG, QUẢN LÝ BỀN VỮNG TRONG KHAI THÁC
VÀ TIÊU THỤ NĂNG LƯỢNG 14
1. Chiến lược khai thác và tiêu thụ bền vững năng lượng 14
2. Các nguồn năng lượng được khuyến khích sử dụng trong tương lai hướng đến việc
khai thác và sử dụng bền vững năng lượng 15
3. Chiến lược phát triển bền vững năng lượng của Việt Nam 18


CHƯƠNG 4: Ý KIẾN CÁ NHÂN 23
Ý kiến cá nhân học viên về vấn đề: “Quản lý bền vững dưới góc độ khai thác và sử
dụng năng lượng” 23
Vạn vật sinh ra và tồn tại trên Trái đất đều có ý nghĩa của riêng nó, các nguồn năng
lượng cũng vậy. Than, dầu, khí đốt, được con người sử dụng vì có khả năng đốt cháy
sinh ra năng lượng nhưng ngoài mục đích sử dụng đó chúng còn có nhiều cách sử dụng
khác trong tự nhiên. Do đó chúng ta không thể vì lợi ích của giống nòi mà tự cho phép
mình khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên này. Nếu hiểu theo thuyết hỗn mang (Chaos)
thì khi ta tác động vào một yếu tố nào đó trong tự nhiên cũng đồng nghĩa ta đã kích hoạt
một hệ thống những thay đổi khác. Vậy kết quả (hậu quả) sinh ra sẽ là gì??? 23
Các hoạt động của con người từ xa xưa cho đến nay đều sản sinh ra các chất thải vào
môi trường, nhưng cho đến thời gian gần đây khái niệm ô nhiễm mới được biết đến
nhiều, tất cả cũng đều do vấn đề hàm lượng các chất thải. Trước đây chất thải ra có hàm
lượng không đáng kể nhưng khi các ngành công nghiệp phát triển, con người tranh nhau
khai thác và thỏa sức sử dụng thì các chất thải ngày càng nhiều và vượt qua khả năng
chịu tải và tự xử lý của tự nhiên, tạo thành ô nhiễm. Không chỉ thế, con người cùng với
những sản phẩm nhân tạo, kết quả của quá trình mày mò nghiên cứu đã tạo ra nhiều vật
chất mới có tính ứng dụng cao trong cuộc sống, được tôn vinh. Tuy nhiên, sau một thời
gian, sản phẩm kết hợp có thể là những chất gây ra ô nhiễm nặng nề, ví dụ như những
chất được sử dụng để tinh chế nhiên liệu thô, quặng mỏ 23
Việc khai thác và sử dụng năng lượng bền vững cũng tương tự như các hoạt động khác
của con người, đều phải chú ý đến yếu tố môi trường và xã hội. Trong những năm 1990
Việt Nam đều tuyên dương và khuyến khích công dân “chế ngự thiên nhiên” nhưng hiện
nay điều khôn khéo nhất được đưa ra là “thích nghi với thiên nhiên” 24
Người ta nói nhiều đến vấn đề ô nhiễm do sử dụng các nguồn năng lượng truyền thống
nhưng gây ô nhiễm không kém đó là hoạt động khai thác và tinh chế nhiên liệu thô,
quặng mỏ; hoạt động chế tạo sản xuất các thiết bị chuyển đổi và lưu giữ năng lượng .24
25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
2

LỜI NÓI ĐẦU
Trong chiến lược phát triển bền vững của các quốc gia, năng lượng luôn đóng
vai trò trung tâm, có tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến các sự phát triển của kinh
tế, xã hội và môi trường. Tuy nhiên thói quen sử dụng năng lượng hóa thạch
đang gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng về môi trường và đe dọa đến việc phát
triển của nhiều quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng.
Học viên lựa chọn đề tài này để tìm hiểu những khái niệm cơ bản về bền vững,
quản lý bền vững, quản lý bền vững dưới góc độ khai thác và tiêu thụ năng
lượng. Ngoài ra học viên còn tìm hiểu về những xu hướng sử dụng năng lượng
trong tương lai để có những hiểu biết theo phù hợp với thời đại.
3
CHƯƠNG 1: CÁC ĐỊNH NGHĨA VỀ BỀN VỮNG, QUẢN LÝ BỀN
VỮNG
1. Định nghĩa “Bền vững”:
Theo từ điển tiếng Việt thì “Bền vững” tức là vững vàng, đứng vững lâu dài.
Điều này có thể hiểu là: một đối tượng được gọi là bền vững khi các yếu tố cấu
thành của nó cân bằng với nhau, đảm bảo sự tồn tại của đối tượng đó trong thời
gian dài.
2. Định nghĩa “Phát triển bền vững” (PTBV)
Khái niệm "Phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong
ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên
và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát
triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn
trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái
học".
Từ đó đến nay có rất nhiều định nghĩa được đưa ra để giải thích cho khái
niệm “Phát triển bền vững”, như là:
- “Phát triển bền vững là sự cân bằng nhằm điều tiết mối quan hệ mâu thuẫn
giữa nhu cầu con người và khả năng tái sản xuất của thiên nhiên” – HOK.
- Hay như định nghĩa của AIA: “Phát triển bền vững là khả năng làm cho xã

hội tiếp tục vận động hướng đến tương lai nhưng không làm gây hại (làm
cạn kiệt, làm quá tải,…) những nguồn tài nguyên chính mà xã hội con
người đang phụ thuộc”.
4
- Trong đó định nghĩa được sử dụng nhiều nhất là định nghĩa do Ủy ban
Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) đưa ra lần đầu tiên: “Phát
triển bền vững là sự phát triển để đáp ứng được nhu cầu hiện tại mà không
phương hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của cả thế hệ tương lai”.
- Trong phát triển bền vững các hệ thống “kinh tế”-“xã hội”-“môi
trường”có sự liên hệ chặt chẽ với nhau (hình 1.1).
Hình 1.1 Mối quan hệ giữa các hệ thống kinh tế - xã hội – môi trường trong
PTBV
Theo đó, mối quan hệ giữa từng cặp yếu tố được giải thích cụ thể như là:
- Xã hội-Môi trường: có thể chịu đựng được.
- Xã hội-Kinh tế: hợp lý, công bằng.
- Kinh tế-Môi trường: có thể sống được, có thể nảy mầm được.
Cũng theo WCED con người có thể đạt được mục tiêu PTBV như vậy bằng
cách chuyển giao một cách hợp lý các công nghệ, xây dựng năng lực về khoa học
và quản lí, đồng thời với việc sử dụng một cách đúng đắn các nguồn tài nguyên;
5
tất cả các quốc gia khi sử dụng tài nguyên và các nguồn lực để phát triển thì cần
phải tính đến việc duy trì hay đồng thời tạo nên một nguồn tài nguyên để đảm
bảo nhu cầu cho các thế hệ tương lai. Cũng có nghĩa là: cải thiện cuộc sống của
con người trong phạm vi khả năng chịu đựng được của hệ sinh thái. PTBV sẽ tạo
nên một nền kinh tế bền vững và từ đó mới hình thành được một xã hội bền
vững.
Từ những năm cuối cùng của thế kỉ 20, PTBV đã trở thành sự nghiệp chung
của toàn thế giới, là mục tiêu phấn đấu của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Chiến lược để phát triển bền vững đối với mỗi quốc gia là khác nhau; mỗi quốc
gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa riêng để hoạch

định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia của mình.
6
3. Định nghĩa “Quản lý bền vững”
Quản lý bền vững là khả năng để nhắm đến tiến trình của một công ty, cộng
đồng, tổ chức, hay quốc gia theo cách thức khôi phục và tăng cường các hình
thức vốn (con người, thiên nhiên, sản xuất, và tài chính) để tạo ra lợi nhuận cho
các bên tham gia, đồng thời đóng góp cho phúc lợi của thế hệ hiện tại và thế hệ
tương lai.
7
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ CÁC NGUỒN NĂNG LƯỢNG
1. Định nghĩa “Năng lượng” (NL)
Năng lượng theo lý thuyết tương đối của Albert Einstein là một thước đo khác
của lượng vật chất được xác định theo công thức liên quan đến khối lượng toàn
phần E = mc².

2. Phân loại các dạng NL
NL trên Trái đất (TĐ) có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau:
- Theo khả năng tái tạo: NL tái tạo và NL không tái tạo
- Theo khả năng gây ô nhiễm: NL sạch và NL gây ô nhiễm
- Theo bản chất NL: NL bức xạ mặt trời (BXMT), NL hóa thạch, NL thủy
triều, NL sinh khối,
Tóm lại có thể phân loại các nguồn NL trên TĐ thành một số dạng cơ bản
sau:
- Các dạng NL có thể tái tạo và vĩnh cửu: BXMT, NL gió, dòng chảy và sóng
biển, NL sinh khối,
- Các dạng NL không tái tạo và vĩnh cửu: NL địa nhiệt, NL nguyên tử và hạt
nhân,
- Các dạng NL không tái tạo và có giới hạn: NL hóa thạch (dầu mỏ, khí đốt, than,
đá cháy, )
- Năng lượng điện

Hai dạng NL đầu là dạng năng lượng cơ bản và là cội nguồn của tất cả các
dạng NL đang được loài người khai thác và sử dụng.
8
3. Tình hình tiêu thụ NL trên thế giới và Việt Nam
- Trên thế giới:
Diễn đàn chính sách an ninh năng lượng Châu á – Thái Bình Dương (ASEM
lần thứ nhất được tổ chức tại Việt Nam tháng 4 năm 2008 với sự tham gia của 45
nước thành viên của ASEM. Các đại biểu đã đặt ván đề làm thế nào để đáp ứng
nhu cầu năng lượng ngày càng tăng của con người là một trong các vấn đề nóng
bỏng trong thời gian tới. Hiện nay, trên thế giới sự giới hạn nguồn năng lượng tỷ
lệ nghịch với nhu cầu ngày càng tăng của của khu vực và trên thế giới. Vấn đề
an ninh năng lượng của thế giới đang trở nên bức bách hơn bao giờ hết. Việc sử
dụng năng lượng hiện nay đang tập trung ở nguồn năng lượng hóa thạch. Theo
thống kê, các nguồn năng lượng con người đang tiêu thụ 41,7% dầu mỏ, 24,7%
than, 21,% ga, 6,% năng lượng nguyên tử, 6,% thủy điện và năng lượng gió, mặt
trời, địa nhiệt, năng lượng sinh học, thủy triều, vv… chỉ chiếm khoảng gần 1%
nhu cầu năng lượng của con người.
Theo dự báo của Cơ quan năng lượng quốc tế, nếu lượng tiêu thụ năng lượng
của thế giới tiếp tục giữ mức như hiện nay, nhu cầu năng lượng sẽ tăng hơn 30%
vào năm 2030, riêng về nhu cầu của dầu lửa có thể tăng đến 41%. Trong bối
cảnh hiện nay, đảm bảo an ninh năng lượng phục vụ sự phát triển bền vững,
giảm sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng nhập khẩu từ bên ngoài, đặc biệt là dầu
mỏ, trở thanh vấn đề đặc biệt quan tâm ở quốc gia.
Sự tăng trưởng về nhu cầu năng lượng tập trung vào các nước đang phát triển.
Dự kiến các nước này nhu cầu năng lượng sẽ đạt 50% nhu cầu năng lượng của
thế giới vào năm 2030. Các dạng năng lượng truyền thống như than, dầu mỏ, khí
đốt.vv… đang ngày càng cạn kiệt. Nhiều nước trong khu vực ASEM có nguồn
dầu khí, trong đó Brunei,Inđônêsia thuộc nhóm các nước xuất khẩu dầu. Nhưng
9
nhu cầu năng lượng của khu vực như hiện nay sẽ dẫn đến nguy cơ phải chịu sự

phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng. Theo nghiên cứu dự báo của giám đốc
Trung tâm năng lượng ASEM, mức độ phụ thuộc này có thể đạt khoảng 49% đến
58%.
Theo đánh giá của các chuyên gia năng lượng trên thế giới, trong hai thập kỷ
tới sẽ chưa có thay đổi lớn về tỉ trọng các dạng năng lượng sử dụng. Tiêu thụ
năng lượng vẫn tăng mạnh, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Trong đó các
nước Châu Á đang phát triển sẽ chiếm 40% trong tổng số năng lượng tiêu thụ
tăng trên toàn cầu.
Theo đánh giá của tạp chí IEO2004, tiêu thụ năng lượng của thế giới sẽ vẫn
chủ yếu là các nhiên liệu hoá thạch trong thời gian từ nay đến 2025. Dầu lửa vẫn
sẽ là nguồn nhiên liệu chính (chiếm 39% tổng năng lượng tiêu thụ trên thế giới),
tuy nhiên khí tự nhiên sẽ là nguồn năng lượng sơ cấp có tốc độ tăng trưởng
nhanh nhất (khoảng 2,2% một năm). Trong 20 năm tới than vẫn tiếp tục là nguồn
nhiên liệu chính cho sản xuất điện, nhưng khí tự nhiên sẽ dần khẳng định vai trò
của mình trong lĩnh vực này nhờ hiệu suất sử dụng cao hơn và các lợi ích trong
việc bảo vệ môi trường. Năng lượng hạt nhân sẽ chiếm khoảng 5% năng lượng
sơ cấp tiêu thụ trên toàn thế giới vào năm 2025, trong khi đó năng lượng tái tạo
sẽ chiếm khoảng 8%.
- Việt Nam
Việt Nam là một nước hiên đang xuất khẩu than. Năm 2004, tổng công ty than
Việt Nam đã khai thác và tiêu thụ 25 triệu tấn than, trong đó xuất khẩu 10,5 triệu
tấn. Trong khi đó, theo thăm dò mới nhất của Tổng công ty than Việt Nam cho
biết, trữ lượng than ở độ sâu 350 m có khoảng 6,5 đến 7 tỷ tấn. Than có chất
10
lượng tốt tập trung ở Quảng Ninh. Việc xuất khẩu than của Việt nam chưa đảm
bảo tính bền vững. Theo chiến lựoc phát triển ngành điện, xi măng, phân bón,
hóa chất… đến năm 2010 khả năng tiêu thụ than trong nước có thể lên đến 80
triệu tấn. Đièu đó cảnh báo cho biết, nếu chúng ta không có chiến lược khai thác
than hợp lí thì trong tương lai, chúng ta sẽ là một nước nhập khẩu than hoặc phải
đóng cửa một số nhà máy.

Theo số liệu từ Viện Năng lượng (Bộ Công nghiệp), nếu không có đột biến
lớn về khả năng khai thác từ sau năm 2010 thì nguồn tài nguyên trong nước sẽ
không còn đáp ứng được nhu cầu năng lượng. Dự tính năm 2015 lượng thiếu hụt
nhiên liệu cho sản xuất điện khoảng 9 tỉ kWh (ở phương án cao), tương tự năm
2020 thiếu hụt nhiên liệu cho sản xuất điện khoảng 35-64 tỉ KWh ở phương án
cơ sở và phương án cao. Và vào năm 2030 thiếu hụt nhiên liệu cho sản xuất điện
lên tới 59-192 tỉ KWh.
Các nhà hoạch định chính sách còn cho biết, vào các năm sau đó, khả năng
thiếu hụt điện năng còn nhiều hơn; các giải pháp nhập khẩu điện, than, khí để sản
xuất có thể không đáp ứng được lượng thiếu hụt.
Việc khai thác nguồn năng lượng này làm cho chúng ngày càng bị kạn kiệt và
tác động rất lớn đến môi trường, như ô nhiễm môi trường, rừng bị tàn phá đất bị
xói mòn, tăng hiệu ứng nhà kính, băng tan, biến đổi khí hậu vv…. Theo nghiên
cứu thống kê, lượng khí CO
2
thải bình quân trên đầu người ở các nước công
nghiệp như Mỹ là 21tấn/năm(năm1990), Singapore là 10 tấn/năm, Việt Nam là
0,8 tấn/năm (năm 2003).
Khai thác nguồn năng lượng như than, dầu tác động xấu đến môi trường và
sức khỏe con người. Ở Quảng Ninh hàng năm để khai thác than, đa bóc dỡ các
11
lớp đất đá đá và xuất hiện những bãi thải đá cao gần 200m và đã bị mất khoảng
1.000 ha rừng.
Vận chuyển than, đất đá gây bụi, làm ô nhiễm không khí, đặc biệt là dân cư
trong vùng và xuất hiện các bệnh nghề nghiệp do bụi than gây nên.
Trong quá trình khai thác đã gây nhiều sự cố, làm tổn thất cho con người.
Những người thợ mỏ, hàng ngày luôn luôn đối mặt với rủi ro. Hàng trăm đại xa
trọng tải từ 40 đến 96 tấn, xe cẩu, máy xúc, máy nổ, bom mìn, điện cao thế …tai
nạn luôn rình rập, nguy hiểm đến tính mạng.
Tại Quảng Ninh, công việc khai thác than trong những năm gần đây luôn luôn

xảy ra các sự cố, làm nguy hại đến tính mạng của các thợ mỏ. Một trong các vụ
nghiêm trọng là vụ bục nước hầm lò của xí nghiệp khai thác than 86, Tổng công
ty than Đông Bắc, xảy ra vào ngày 23/1/2007 đã vùi lấp 12 công nhân, trong đó
làm 2 người thiệt mạng. Tại Quảng Ninh, nạn thổ phỉ khai thác than bừa bãi,
những dự án bị biến tướng (Dự án “Tận thu” đã biến việc nuôi trồng thủy sản,
thành việc khai thác than làm nguy hại đến môi trường. Trong quá trình khai thác
than tại Quảng Ninh đã xâm phạm đến các di tích như Yên tử, làm ô nhiễm các
hồ chứa nước. Theo kết quả quan trắc chất lượng nước các hồ thủy lợi ở Quảng
Ninh đã ở mức báo động. Độ pH đo đựợc tại 9 hồ đều ở mức rất thấp, nhất là hồ
Bến Châu 3,75; hồ Cầu Cuốn 3,21; hồ Nội Hoàng 3,02 vv… Trong khi độ pH để
các sinh vật sinh sống được phải ở mức 5,5 đến 6. Việc lấy nước từ các hồ trên
để nuôi cá đã làm cá chết hàng loại hoặc bị nổ mắt, nếu không chết thì năng suất
giảm rõ rệt.
Trước tình hình nguồn năng lượng truyền thống ngày càng cạn kiệt, nhu cầu
sử dụng ngày càng tăng và các vấn đề về môi trường đang là vấn đề thách thức
đối với toàn cầu. Điều đó đã dẫn dến tìm kiếm nguồn năng lượng thay thế. Một
12
số nước tìm nguồn năng lượng nguyên tử, một số nước tìm đến nguồn năng
lượng có nguồn gốc từ mặt trời, gió, nước, thủy triều, năng lượng địa nhiệt, sinh
khối vv… Những nguồn năng lượng này có khả năng vô tận và khai thác sử dụng
không gây ô nhiễm môi trường
13
CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ BỀN VỮNG, QUẢN LÝ BỀN VỮNG TRONG
KHAI THÁC VÀ TIÊU THỤ NĂNG LƯỢNG
1. Chiến lược khai thác và tiêu thụ bền vững năng lượng
Theo các nhà khoa học Đức, trữ lượng dầu hỏa và khí đốt trên toàn cầu chỉ
còn đủ để sử dụng cho khoảng… 50 năm, than đá khoảng 230 năm và uranium
khoảng 70 năm. Trong bối cảnh đó, năng lượng gió, năng lượng mặt trời… sẽ trở
thành các nguồn năng lượng chính của loài người.
Các chiến lược được đưa ra để hướng đến vấn đề bền vững, quản lý bền vững

trong khai thác và tiêu thụ năng lượng như sau:
- Ưu tiên giảm nhu cầu dầu thô và sản phẩm dầu vì dầu thô đã được thanh
lọc thành sản phẩm dầu thỏa mãn gần một nửa nhu cầu năng lượng khả
dụng, có nhiều áp dụng công nghiệp bắt buộc phải tiêu thụ dầu thô hay sản
phẩm dầu làm nguyên liệu, dầu thô là nguồn năng lượng cơ bản trong
tương lai sẽ cạn trước nhất.
- Phải chú trọng đồng đều đến phát triển bền vững của ba ngành giao thông
vận tải, công nghiệp và tiện nghi nhà ở vì mỗi ngành đó chia nhau tiêu thụ
¾ tổng lượng năng lượng sử dụng và những ngành khác chỉ tiêu thị ¼ còn
lại.
Những biện pháp được đề nghị để thực hiện các chiến lược đó là :
- Gia tăng hiệu suất năng lượng để giảm nhu cầu về năng lượng và giảm
lượng khí có hiệu ứng nhà kính thải ra khí quản.
14
- Chuyển sang một nguồn năng lượng khác hãy còn dồi dào, tái tạo, rẻ
hay/và ô nhiễm ít hơn để dành nguồn năng lượng đang dùng cho những
công nghệ bắt buộc phải dùng đến năng lượng đó.
- Chuyển sang những công nghệ khác đạt một hay cả hai hiệu quả trên.
2. Các nguồn năng lượng được khuyến khích sử dụng trong tương lai
hướng đến việc khai thác và sử dụng bền vững năng lượng
Những năm gần đây, dư luận nói đến nhiều về nguồn năng lượng mới, gọi là
năng lượng thay thế hay năng lượng xanh. Ưu điểm của nguồn năng lượng này là
sạch, có sẵn trong thiên nhiên, không gây ô nhiễm, không bị cạn kiệt và là giải
pháp tốt nhất nhằm tiết kiệm năng lượng hóa thạch cho tương lai.
- Pin nhiên liệu
Đây là kỹ thuật có thể cung cấp năng lượng cho con người mà không hề phát
ra khi thải CO
2
hoặc những chất thải độc hại khác. Một pin nhiên liệu tiêu biểu có
thể sản sinh ra điện năng trực tiếp bởi phản ứng giữa hydro và ôxy. Hydro có thể

lấy từ nhiều nguồn như khí thiên nhiên, khí mêtan lấy từ chất thải sinh vật và do
không bị đốt cháy nên chúng không có khí thải độc hại. Đi đầu trong lĩnh vực
này là Nhật Bản. Quốc gia này sản xuất được nhiều nguồn pin nhiên liệu khác
nhau, dùng cho xe phương tiện giao thông, cho ôtô hoặc cả cho cả các thiết bị
dân dụng như điện thoại di động.
- Năng lượng mặt trời
Nhật Bản, Mỹ và một số quốc gia Tây Âu là những nơi đi đầu trong việc sử
dụng nguồn năng lượng mặt trời rất sớm (từ những năm 50 ở thế kỷ trước). Tính
đến năm 2002, Nhật Bản đã sản xuất được khoảng 520.000 kW điện bằng pin
mặt trời, với giá trung bình 800.000 Yên/kW, thấp hơn 10 lần so với cách đây
15
trên một thập kỷ. Nếu một gia đình người Nhật 4 người tiêu thụ từ 3 đến 4 kW
điện/mỗi giờ, thì họ cần phải có diện tích từ 30-40 m2 mái nhà để lắp pin. Nhật
Bản phấn đấu đến năm 2010 sẽ sản xuất được hơn 8,2 triệu kW điện tử năng
lượng mặt trời.
- Năng lượng từ đại dương.
Đây là nguồn năng lượng vô cùng phong phú, nhất là quốc gia có diện tích
biển lớn. Sóng và thủy triều được sử dụng để quay các turbin phát điện. Nguồn
điện sản xuất ra có thể dùng trực tiếp cho các thiết bị đang vận hành trên biển
như hải đăng, phao, cầu cảng, hệ thống hoa tiêu dẫn đường v.v…
- Năng lượng gió
Năng lượng gió được coi là nguồn năng lượng xanh vô cùng dồi dào, phong
phú và có ở mọi nơi. Người ta có thể sử dụng sức gió để quay các turbin phát
điện. Ví dụ như ở Hà Lan hay ở Anh, Mỹ. Riêng tại Nhật mới đây người ta còn
sản xuất thành công một turbin gió siêu nhỏ, sản phẩm của hãng North Powen.
Turbin này có tên là NP 103, sử dụng một bình phát điện dùng cho đèn xe đạp
thắp sáng hoặc giải trí có chiều dài cánh quạt là 20 cm, công suất điện là 3 W, đủ
để thắp sáng một bóng đèn nhỏ.
- Dầu thực vật phế thải dùng để chạy xe
Dầu thực vật khi thải bỏ, nếu không được tận dụng sẽ gây lãng phí lớn và gây

ô nhiễm môi trường. Để khắc phục tình trạng này, tại Nhật có một công ty tên là
Someya Shoten Group ở quận Sumida Tokyo đã tái chế các loại dầu này dùng
làm xà phòng, phân bón và dầu VDF (nhiên liệu diezel thực vật). VDF không có
các chất thải ôxít lưu huỳnh, còn lượng khỏi đen thải ra chỉ bằng 1/3 so với các
loại dầu truyền thống.
- Năng lượng từ tuyết
16
Hiệp hội nghiên cứu năng lượng thiên nhiên ở Bihai của Nhật đã thành công
trong việc ứng dụng tuyết để làm lạnh các kho hàng và điều hòa không khí ở
những tòa nhà khi thời tiết nóng bức. Theo dự án này, tuyết được chứa trong các
nhà kho để giữ nhiệt độ kho từ 0oC đến 4oC. Đây là mức nhiệt độ lý tưởng dùng
để bảo quản nông sản vì vậy mà giảm được chi phí sản xuất và giảm giá thành
sản phẩm.
- Năng lượng từ sự lên men sinh học
Nguồn năng lượng này được tạo bởi sự lên men sinh học các đồ phế thải sinh
hoạt. Theo đó, người ta sẽ phân loại và đưa chúng vào những bể chứa để cho lên
men nhằm tạo ra khí metan. Khí đốt này sẽ làm cho động cơ hoạt động từ đó sản
sinh ra điện năng. Sau khi quá trình phân hủy hoàn tất, phần còn lại được sử dụng
để làm phân bón.
- Nguồn năng lượng địa nhiệt.
Đây là nguồn năng lượng nằm sâu dưới lòng những hòn đảo, núi lửa. Nguồn
năng lượng này có thể thu được bằng cách hút nước nóng từ hàng nghìn mét sâu
dưới lòng đất để chạy turbin điện. Tại Nhật Bản hiện nay có tới 17 nhà máy kiểu
này, lớn nhất có nhà máy địa nhiệt Hatchobaru ở Oita Kyushu, công suất 110.000
kW đủ điện năng cho 3.700 hộ gia đình.
- Khí Mêtan hydrate
Khí Mêtan hydrate được coi là nguồn năng lượng tiềm ẩn nằm sâu dưới lòng
đất, có màu trắng dạng như nước đá, là thủ phạm gây tắc đường ống dẫn khí và
được người ta gọi là “nước đá có thể bốc cháy”. Metan hydrate là một chất kết
tinh bao gồm phân tử nước và metan, nó ổn định ở điều kiện nhiệt độ thấp và áp

suất cao, phần lớn được tìm thấy bên dưới lớp băng vĩnh cửu và những tầng địa
17
chất sâu bên dưới lòng đại dương và là nguồn nguyên liệu thay thế cho dầu lửa
và than đá rất tốt.
3. Chiến lược phát triển bền vững năng lượng của Việt Nam
Chiến lược năng lượng quốc gia với việc tập trung vào phát triển cơ sở hạ
tầng và hệ thống năng lượng, khai thác tối ưu và sử dụng có hiệu quả các nguồn
cung cấp năng lượng truyền thống, phát triển các nguồn năng lượng mới, năng
lượng tái tạo và ứng dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình
Các hành động ưu tiên đối với phát triển năng lượng bền vững của Việt Nam
như sau:
- Tăng cường cơ sở pháp luật cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu
thụ năng lượng và bảo vệ môi trường. Kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý
ngành năng lượng, tăng cường năng lực xây dựng quy hoạch và kế hoạch
phát triển năng lượng.
- Lựa chọn công nghệ sản xuất và sử dụng tối ưu các loại hình năng lượng;
lựa chọn các công cụ chính sách, xây dựng các chương trình phát triển
nhằm thực hiện định hướng chiến lược phát triển bền vững.
- Hỗ trợ công tác nghiên cứu, phát triển, chuyển giao và ứng dụng các hệ
thống năng lượng không gây hại cho môi trường, bao gồm các nguồn năng
lượng mới và nguồn năng lượng có khả năng tái sinh. Khuyến khích sử
dụng các công nghệ tiêu tốn ít năng lượng và tích cực thực hiện chương
trình tiết kiệm năng lượng. Ưu tiên cho việc phát triển nguồn năng lượng
có khả năng tái sinh thông qua việc khuyến khích tài chính và các cơ chế
chính sách khác trong chiến lược phát triển năng lượng quốc gia.
- Cần có các giải pháp cụ thể về công nghệ và tổ chức quản lý cho từng
phân ngành năng lượng nhằm thực hiện các chương trình, dự án làm giảm
18
tác động tiêu cực đối với môi trường trong các hoạt động sản xuất, kinh
doanh và sử dụng năng lượng.

- Tham gia tích cực các hoạt động hợp tác và trao đổi quốc tế liên quan
đếCông ước khung về Biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc năm 1992 mà
Việt Nam đã ký kết tham gia ngày 16 tháng 11 năm 1994 và hiện là thành
viên của Công ước này. Nhập khẩu và ứng dụng những công nghệ tiên
tiến của nước ngoài trong lĩnh vực khai thác, rửa và chế biến than. Đưa
vốn và áp dụng công nghệ tiên tiến của nước ngoài để cải tạo và nâng cấp
công nghệ cho ngành công nghiệp than.
- Về mặt pháp lý, hiện nay Việt Nam chưa công bố văn bản chính thức về
chiến lược phát triển năng lượng. Tuy nhiên, các nội dung chiến lược đã
được thể hiện trong các nghị quyết của Đảng CSVN, các quyết định của
Chính phủ và trong các luật có liên quan như Luật Khoáng sản, Luật Dầu
khí, Luật Điện lực cũng như Tổng sơ đồ phát triển các ngành dầu khí,
than, điện lực.
Quan điểm về xây dựng chiến lược phát triển năng lượng bền vững:
- Một là, nâng cao khả năng cung cấp năng lượng trên cơ sở đa dạng hóa
các nguồn cung cấp năng lượng, tăng cường khai thác phát triển các
nguồn nội địa như thủy năng, than, dầu, khí,… ưu tiên mở rộng hợp tác
tác năng lượng khu vực.
- Hai là, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả được coi như là một
nguồn cung cấp năng lượng quan trọng nhất hiện nay, khi trình độ công
nghệ sử dụng năng lượng của ta còn thấp, tiềm năng tiết kiệm năng lượng
khá lớn.
19
- Ba là, nghiên cứu ứng dụng năng lượng mới và tái tạo. Năng lượng mới và
tái tạo là nguồn tài nguyên quý giá, là nguồn năng lượng sạch, gần như vô
tận, sử dụng phổ biến ở quy mô gia đình, có sẵn ở mọi nơi.
- Bốn là, chủ động hội nhập quá trình phát triển năng lượng quốc tế và khu
vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, bảo vệ độc lập tự chủ, bảo đảm
nhu cầu năng lượng và bảo vệ môi trường.
- Định hướng chiến lược phát triển năng lượng bền vững: Trên cơ sở xác

định vị trí, vai trò và quan điểm về xây dựng chiến lược phát triển năng
lượng bền vững, đề xuất những định hướng chủ yếu về chiến lược phát
triển năng lượng bền vững ở Việt Nam như sau:
+ Đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia
+ Sử dụng năng lượng hiệu quả và bảo tồn năng lượng
+ Bảo vệ môi trường
+ Phát triển nguồn năng lượng mới và tái tạo (NLM & TT)
Tại Việt Nam, từ đầu những năm 80 Nhà nước đã thành lập Chương trình
Quốc gia về nghiên cứu ứng dụng các dạng năng lượng mới và tái tạo, đặc biệt là
năng lượng gió và năng lượng mặt trời. Chính phủ đã ban hành Nghị định số
102/2003/NĐ-CP ngày 03/09/2003 về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả
và Quyết định số 79/2006/QĐ-TTg ngày 14/04/2006 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết
kiệm và hiệu quả. Các dự án "Phát triển năng lượng tái tạo" (REDP), chương
trình ứng dụng các nguồn năng lượng tái tạo cũng được Chính phủ, Bộ Công
thương, Bộ Quốc phòng, Tập đoàn Điện lực Việt Nam…. ưu tiên và khuyến
khích phát triển, bước đầu đã có điện phục vụ đồng bào, chiến sĩ ngoài hải đảo
20
(Trường Sa, Côn Đảo, Bạch Long Vĩ… ) và vùng xa (Tây Nguyên, Gia Lai…),
công nhân làm việc trên các dàn khoan thăm dò, khai thác dầu mỏ và tiến tới cho
cả cộng đồng.
Các nguồn năng lượng sạch thích hợp với Việt Nam:
- Năng lượng mặt trời
Trung bình năng lượng hữu dụng từ bức xạ mặt trời trong mỗi ngày tại Việt
Nam dao động 4- 5,2kWh/m². Điều này tương đương với công suất 166,7-
216W/m² tính trung bình trong 24 giờ và tùy theo vĩ tuyến. Lượng nắng ở miền
Trung và miền Nam dồi dào hơn miền Bắc. Miền Bắc có trung bình 1.500- 1.700
giờ nắng, miền Trung và miền Nam có 2.000- 2.600 giờ nắng trong một năm.
Tổng công suất các hệ pin mặt trời đã lắp đặt tại nước ta cho đến nay đạt một con
số khá khiêm nhường- khoảng 4MW (Thái Lan đã trên 30MW). Kinh phí hầu hết

từ các nguồn tài trợ của nước ngoài.
Các nguyên nhân chính làm cản trở sự phát triển ngành quang điện tại Việt
Nam là: Pin mặt trời vẫn còn quá đắt, khoảng 8- 10 USD cho mỗi W; Sau khoảng
2 năm phải thay acquy mới (acquy dùng nạp điện từ pin mặt trời vào ban ngày và
cung cấp điện vào ban đêm); Chưa có chính sách hỗ trợ từ chính phủ, chưa có
quy định về kỹ thuật và pháp lý về điện nối lưới.
- Biogas
Đến nay có trên 200.000 bồn biogas được lắp đặt tại nước ta. Hà Lan đã viện
trợ khoảng 3,1 triệu EUR giúp việc phát triển công nghệ biogas tại Việt Nam.
Bèo lục bình sinh sôi rất nhanh trên sông rạch ở các vùng nhiệt đới làm tắc nghẽn
giao thông của tàu thuyền. TS Đỗ Ngọc Quỳnh, một chuyên gia về biogas của
Đại học Cần Thơ, đã phát triển công nghệ xử lý bèo lục bình thành biogas.
21
Theo ước tính, mỗi m³ biogas tương đương với 0,6 lít diesel hay 22MJ. Nước
thải và các thành phần sau khi phân rã từ bồn biogas có thể dùng làm phân bón
hay dùng để xử lý phèn trong đất trồng trọt. Từ một tấn rác hữu cơ, ta có thể thu
được 150- 250 m³ biogas.
Mỗi năm vựa lúa tại đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long thải ra hàng
triệu tấn trấu. Tại Campuchia vì thiếu điện nghiêm trọng, các hệ thống khí hóa
sinh khối (chủ yếu dùng nguyên liệu từ trấu) để sản xuất điện được nhập từ Ấn
Độ và sử dụng rất thành công từ lâu. Đây là giải pháp rất tốt cho các xí nghiệp ở
nước ta cần nhiều điện và ở những vùng dễ tiếp cận các loại nhiên liệu có sẵn với
giá rất rẻ như trấu, củi từ cây tạp…
- Năng lượng gió
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (tài liệu năm 2001), Việt Nam có
tiềm năng năng lượng gió lớn nhất so với các nước khác tại Đông Nam Á. Theo
sự đo đạc và tính toán của tài liệu này, tổng công suất gió của cả Việt Nam lên
đến 513 GW. Công suất này lớn gấp 214 lần công suất của Nhà máy thủy điện
Sơn La hiện đang được xây dựng và gấp 10 lần công suất điện Việt Nam cần
trong năm 2020. Vùng lãnh thổ có tiềm năng gió tốt chiếm 9% diện tích Việt

Nam và tập trung phần lớn tại Bình Thuận và Ninh Thuận. Nếu tính luôn cả tiềm
năng gió ngoài khơi (offshore), tổng công suất gió nước ta còn lớn hơn nhiều.
Ngoài Bình Thuận và Ninh Thuận, những nơi có tiềm năng gió tốt có thể kể đến:
Sóc Trăng, Bến Tre, Trà Vinh, Duyên Hải, Lâm Đồng, Lâm Đồng, Đắk Lắk,…
Trong các dạng năng lượng tái tạo, có thể thấy rõ ràng năng lượng gió có khả
năng lắp đầy khoản thiếu hụt điện năng rất trầm trọng ở nước ta trong thời gian
tới. Do vậy, một trong các việc khẩn cấp là chính phủ sớm ban hành giá điện nối
lưới.
22
CHƯƠNG 4: Ý KIẾN CÁ NHÂN
Ý kiến cá nhân học viên về vấn đề: “Quản lý bền vững dưới góc độ khai thác và
sử dụng năng lượng”
Vạn vật sinh ra và tồn tại trên Trái đất đều có ý nghĩa của riêng nó, các nguồn
năng lượng cũng vậy. Than, dầu, khí đốt, được con người sử dụng vì có khả
năng đốt cháy sinh ra năng lượng nhưng ngoài mục đích sử dụng đó chúng còn
có nhiều cách sử dụng khác trong tự nhiên. Do đó chúng ta không thể vì lợi ích
của giống nòi mà tự cho phép mình khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên này. Nếu
hiểu theo thuyết hỗn mang (Chaos) thì khi ta tác động vào một yếu tố nào đó
trong tự nhiên cũng đồng nghĩa ta đã kích hoạt một hệ thống những thay đổi
khác. Vậy kết quả (hậu quả) sinh ra sẽ là gì???
Các hoạt động của con người từ xa xưa cho đến nay đều sản sinh ra các chất thải
vào môi trường, nhưng cho đến thời gian gần đây khái niệm ô nhiễm mới được
biết đến nhiều, tất cả cũng đều do vấn đề hàm lượng các chất thải. Trước đây chất
thải ra có hàm lượng không đáng kể nhưng khi các ngành công nghiệp phát triển,
con người tranh nhau khai thác và thỏa sức sử dụng thì các chất thải ngày càng
nhiều và vượt qua khả năng chịu tải và tự xử lý của tự nhiên, tạo thành ô nhiễm.
Không chỉ thế, con người cùng với những sản phẩm nhân tạo, kết quả của quá
trình mày mò nghiên cứu đã tạo ra nhiều vật chất mới có tính ứng dụng cao trong
cuộc sống, được tôn vinh. Tuy nhiên, sau một thời gian, sản phẩm kết hợp có thể
là những chất gây ra ô nhiễm nặng nề, ví dụ như những chất được sử dụng để

tinh chế nhiên liệu thô, quặng mỏ.
23
Với sự hiểu biết hạn chế, con người đưa ra những thay đổi, mục đích vẫn là tạo
ra những nguồn năng lượng mới thay thế cho các nguồn năng lượng cũ, ít gây ra
ô nhiễm hơn nhưng sau một thời gian các nguồn năng lượng này bộc lộ những sơ
hở, tạo ra các vấn đề nghiêm trọng, ví dụ như thủy điện.
Việc khai thác và sử dụng năng lượng bền vững cũng tương tự như các hoạt động
khác của con người, đều phải chú ý đến yếu tố môi trường và xã hội. Trong
những năm 1990 Việt Nam đều tuyên dương và khuyến khích công dân “chế ngự
thiên nhiên” nhưng hiện nay điều khôn khéo nhất được đưa ra là “thích nghi với
thiên nhiên”.
Người ta nói nhiều đến vấn đề ô nhiễm do sử dụng các nguồn năng lượng truyền
thống nhưng gây ô nhiễm không kém đó là hoạt động khai thác và tinh chế nhiên
liệu thô, quặng mỏ; hoạt động chế tạo sản xuất các thiết bị chuyển đổi và lưu giữ
năng lượng.
Đối với vấn đề bền vững trong khai thác và sử dụng năng lượng: Việt Nam chỉ
tham khảo chủ trương, chiến lược của các nước, khi áp dụng phải phù hợp với
hoàn cảnh của VN. Việc tìm ra con đường thích hợp không phải một sớm một
chiều mà phải tiến hành và linh hoạt sửa chữa, cải tiến. Sử dụng năng lượng tiết
kiệm, cải tiến công nghệ các thiết bị sử dụng điện, sử dụng tối đa hiệu suất năng
lượng, hạn chế khai thác tài nguyên, không chạy theo lợi ích kinh tế, khai thác
tràn lan cạn kiệt. Tăng cường hoạt động truyền thông đại chúng nâng cao nhận
thức cộng đồng, có nhiều chủ trương khuyến khích người dân hạn chế sử dụng
năng lượng.
24
Định giá đúng giá trị các nguồn tài nguyên tự nhiên, thêm giá trị các tài nguyên
này trong việc tính toán lợi ích kinh tế để đảm bảo việc khai thác tài nguyên đem
lại giá trị kinh tế xã hội.

25

×