Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

báo cáo Các công trình khai thác nước dùng đá xếp ở quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.13 KB, 19 trang )

CÁC CÔNG TRÌNH KHAI THÁC NƯỚC
DÙNG ĐÁ XẾP Ở QUẢNG TRỊ
(Bài đã đăng ở tạp chí Khảo cổ học số 2 năm 1993, trang 67-79)
LÂM THỊ MỸ DUNG
Phương thức kè đá khai thác nguồn nước ngầm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và trồng
trọt với nhiều điểm khác biệt, độc đáo ở vùng Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ đã và đang được
nhiều học giả trong – ngoài nước quan tâm với các mức – góc độ khác nhau.
Trong loạt bài chuyên khảo từ những năm 1937- 1940, nữ học giả Pháp M. Colani đã có
những khảo cứu công phu và đi đến một số kết luận tổng quát về loại hình di tích này. Linh mục
L.Cadiere - người có nhiều nghiên cứu sâu sắc, toàn diện về tín ngưỡng và văn hoá cổ ở các tỉnh
miền Trung cũng tham gia tán đồng. Sau M.Colani, nhiều nhà nghiên cứu Pháp, Liên Xô (cũ),
Việt Nam cũng có bàn tới các di tích này. Tuy nhiên, họ chỉ sử dụng lại các tài liệu của M.Colani
nên cũng không thể đi xa hơn được những kết luận của bà (A. Masson 1960: 15; G. Coedes 1962:
129; L. Bezacier 1972: 242-243; J.V Chesnov 1976: 61; Bùi Huy Đáp 1985: 11; Đào Hùng 1990:
129; Lê Duy Sơn 1991: 84…). Gần đây, Tạ Chí Đại Trường với cách tiếp cận từ nhiều khía cạnh,
cách đặt vấn đề đơn giản mà độc đáo hơn đã đi đến một kết luận mới và khác (Tạ Chí Đại Trường
1991: 48-61).
Những vấn nạn của Tạ Chí Đại Trường, những kết quả của đợt khảo sát tháng 3- 1992 đã
gợi ý cho chúng tôi rà soát lại các kết luận đã đương nhiên được chấp nhận và sử dụng trong
nhiều công trình nghiên cứu trước kia cũng như gần đây.
Tựu trung, các công trình nghiên cứu đều xoay quanh ba vấn đề lớn:
1. Khảo sát, khảo tả và phân loại các công trình khai thác nước.
Công đầu trong lĩnh vực này thuộc về M.Colani. Bà đã tập trung khảo sát trên địa bàn
khá rộng, gồm các vùng đất thuộc Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ từ năm 1912 đến 1940. Nhờ
những nghiên cứu công phu, tỷ mỷ của bà mà ngày nay chúng ta có các sơ đồ, số đo, bản vẽ, ảnh
chụp … của những công trình khai thác nước này. Đến hôm nay những nghiên cứu ấy vẫn còn giá
trị. Vì do không có điều kiện, hầu như tất cả các tác giả khác đều dùng chúng như tư liệu gốc.
Mặt khác, một số công trình đã bị phá huỷ, cải tạo hay bỏ đi không dùng nữa (Vũ Triều Dương
1992: 18-27).
M. Colani đã dùng thuật ngữ “Système” – (Hệ thống) để chỉ các công trình khai thác
nước gồm nhiều thành phần khác nhau, phân bố kiểu bậc thang. Một “Système” hoàn chỉnh nhất


– (hệ thống Kình) theo bà bao gồm:
- Trên cùng là một mặt bằng khô ráo.
- Phía dưới là vũng
1
thượng (basin supérieur) nhận nước từ trên cao xuống qua các vòi
bằng đá hay gỗ.
- Nước từ trên vũng thượng chảy vào vũng chứa (vũng nước sử dụng) – (basin
d’alimentation). Đây là nơi lấy nước ăn, tắm giặt.
- Nước từ vũng chứa chảy xuống vũng tháo rộng, bờ thấp, nước đọng. Trâu bò thường
uống nước và đằm ở đó.
- Nước từ các vũng trên theo trọng lực chảy qua các lạch, dòng chảy (ruisseau, defluant)
tưới cho các ruộng lúa, vườn tược ở xung quanh.
Các mặt bằng ở trên cao, các bể, lạch và dòng chảy đều được kè đá với chủ đích định
hướng và giữ nước dùng cho sinh hoạt và tưới tiêu. Ở một số hệ thống, còn có các đường kè đá
thành bậc dẫn lối từ làng xuống.
Bà đã dùng thuật ngữ “puits” – (giếng) chỉ những hố hình tròn hay vuông lấy và chứa
nước ngầm, thành giếng được kè đá.
Theo M. Colani “puits” đơn giản hơn “système” song không phải là giếng đơn mà là
giếng đôi kế tiếp nhau, nằm trên mặt bằng dốc, theo nguyên tắc bình thông nhau có lạch hay dòng
chảy dẫn nước ra ruộng.
“Système” và “puits” được bà phân loại theo số lượng của vòi chảy hay không vòi chảy
2
(M. Colaini 1940: 15- 31; 43- 56).
Tháng 7- 1937, M. Colaini đã đào một số hố thám sát ở các mặt bằng trên cao, mặt bằng
quanh một số vũng, trên các con đường bậc thang dẫn xuống các giếng
3
Đào, Kình, Đìa, Ông. Độ
sâu các hố từ -0,4m tới -1,25m, tính từ bề mặt hố đào. Giếng Kình: 4 hố; giếng Đào: 5 hố; giếng
Đìa: 2 hố; giếng Ông: 4 hố.
Hiện vật thu được qua các hố trên ít, đơn giản và khá đồng nhất, chủ yếu là mảnh gốm,

sành vỡ. Trong báo cáo kết quả M. Colani đề cập tới những mảnh gốm cổ, gốm hiện đại song
không cho biết cụ thể. Tại một hố giám sát ở giếng Kình, bà tìm thấy trên bề mặt một số đồng
tiền niên hiệu Gia Long, Tự Đức, Thiệu Trị; ở độ sâu -0,60m tìm thấy một mảnh tiền đồng khác
không rõ niên hiệu. Trong hố thám sát 5 của giếng Đào, tìm thấy một vật hình nón trụ bằng đá,
đáy là khối hình chữ nhật mà theo M. Colani là dùng để dẫn nước vào ruộng. Kết quả từ hố đào
1
Chúng tôi sử dụng chữ vũng dịch từ chữ “basin” của Tạ Chí Đại Trường. Dân địa phương gọi tất cả các
công trình này giếng.
2
Theo chúng tôi không thể dùng số lượng vòi chảy làm tiêu chuẩn kỹ thuật để phân loại các công trình khai
thác nước này. Chúng tôi sẽ làm rõ thêm vấn đề đó ở phần phân loại của mình.
3
Để tiện theo dõi, chúng tôi sử dụng từ giếng theo dân địa phương đang dùng để gọi tất cả các công trình
khai thác nước trong vùng.
số 5 tại giếng Kình phần nào cho biết những người xây dựng nó đã dùng các khối đá chèn nền,
củng cố bờ tường (M. Colani, 1940: 29)
4
.
2. Về nguồn gốc và chủ nhân
Có ba ý kiến lớn:
a. Ngoại lai
Dùng các dấu vết tín ngưỡng (tục thờ đá, thờ cây, thuật phong thuỷ, mồ mả cũ), đối sánh
cách khai thác nước vùng này với các phương thức thuỷ lợi của người Việt và người Chăm, dẫn
các chứng cớ dân tộc học của các tập đoàn thiểu số vùng Assam ở đông bắc Ấn và Indonexia, M.
Colani kết luận: Hệ thống thuỷ lợi Quảng Trị “là thuộc về một dân tộc lạ (ngoại lai), chắc đã để
lại hậu duệ ở Quảng Trị, nhưng là một số rất nhỏ, đã bị chìm vào trong tổng thể” (M. Colani,
1940: 39).
Theo M. Colani, cả ba nơi Assam, Indonexia và một phần Đông Dương vào một lúc nào
đó thuộc vùng khai thác của tập đoàn nhân chủng giống nhau. (M. Colani, 1940: 20). Tuy nhiên,
chính bà cũng không biết rõ hướng thiên di của các tộc người đó, “Từ Đông Dương tới Indonexia

hay ngược lại”. (M. Colani, 1940: 214).
Linh mục P. Cadière đưa ra các dấu vết còn lại của một thương điếm (emporium) có tên
Phường Hàng ở làng Mai Xá, bên cạnh trạm thuế quan Cửa Tùng. “Emporium” này đã bị ngập
nước và còn thấy chất đống các mảnh gốm. Nhà truyền giáo này cho rằng những nhóm người đi
biển đã tới đây từ thời xa xưa và thâm nhập vào các vùng đất bên trong, chủ yếu theo hướng tây
nam. Ông còn cho biết ở Cửa Việt cũng có một “Emporium” tương tự, xong lại không cho biết
nhóm người đi biển nói trên có qua đây không và đi về hướng nào?
Ông cho rằng “những người xây dựng (những hệ thống) ở Gio Linh là những người đi
biển tới từ Indonexia (?) hay hậu duệ của họ” (?). Song sau đó ông lại phân vân “Những
Emporium này có thể là của những thương nhân khác nhau, mà chắc chắn (hay có thể) có niên đại
muộn hơn” (M. Colani 1940: 41)
5
.
b. Chămpa:
Quảng Trị xưa là đất của vương quốc Chămpa. Thư tịch cổ cho biết đây từng là Ô Châu,
Ma Linh châu của Chiêm Thành. Đó là gợi ý cho nhiều nhà nghiên cứu đương nhiên coi người
4
Thực ra không thấy có lớp gốm hiện đại, được rải ra khỏi làm đục nước, chắc bờ như Tạ Chí Đại Trường
nhận xét (Tạ Chí Đại Trường 1991: 49).
5
Rõ ràng là những chỉ dẫn của P. Cadière mỏng manh và không nhất quán. Kết quả khảo sát của chúng tôi
ở Tùng Luật (gần Cửa Tùng); Phố Hội (gần Cửa Việt). Những địa điểm ở các vị trí thuận lợi cửa sông, ven
biển cho thấy: có lẽ P. Cadière đề cập tới những bến thuyền (cảng thị), mà dọc cửa biển miền Trung có
không ít. Ở những bến thuyền trên thấy tập trung nhiều mảnh gốm, sành sứ Trung Hoa, Đại Việt, Chăm,
niên đại khác nhau.
Chăm là chủ nhân của các hệ thống khai thác nước này, song cũng không có những giải thích hợp
lý và chứng cớ cụ thể (Bùi Huy Đáp, 1985: 11; Phan Ngọc Chiêu, 1989: 34; Đào Hùng 1990:
129; Lê Duy Sơn 1991: 84…).
c. Việt:
Tạ Chí Đại Trường đã đưa ra một loạt những phản biện xác đáng và hợp lý về những giả

thiết và kết luận của M. Colani và những người khác về nguồn gốc Indonexia và sự thiên di.
Đồng thời trên một số kết quả đào thám sát 3- 1937, và đặc biệt sự kiện 1572 Nguyễn Hoàng đày
tù binh nhà Mạc lên vùng Cồn Tiên, ông đã đi tới một giải đáp mà theo ông “khá giản dị”: “Hệ
thống thuỷ lợi dùng cho sinh hoạt và nông nghiệp ở Gio Linh là của những chiến tù 1572” (Tạ
Chí Đại Trường, 1991: 57).
3. Niên đại
M. Colani không nói rõ thời điểm cụ thể, theo bà có thể là sau nền văn minh cự thạch,
vào những thế kỷ sau công nguyên (M. Colani 1940: 41).
P. Cadière cho rằng thời gian kết thúc của các hệ thống này là vào năm 1572, khi Nguyễn
Hoàng đày đám tù binh nhà Mạc lên Cồn Tiên (M. Colani 1940: 209). Theo ông, dân Gio Linh
lúc đó không phải là dân Việt và giải thích sự tách biệt dân tộc của hai thời đại trước và sau 1572
bằng những dấu vết thờ cúng ông Tiền (khai khẩn) là của dân tộc trước và ông Hậu (khai canh) là
của người Việt đến sau (M. Colani 1940: 210)
6
.
G. Coedès đưa ra khung thời gian từ trước Công nguyên (Coedès 1962: 26). E. Bezacier
thì cho rằng thuộc sơ sử, trước Bắc thuộc (Bezacier 1972: 252- 253). J.V. Chesnov lại đưa về
phạm vi văn hóa Đông Sơn (Chesnov, 1967: 61).
4. Cấu trúc
Vùng đất nơi phân bố các công trình khai thác nước thuộc cùng đồi bazan Vĩnh Linh, Gio
Linh, Cam Lộ phía Bắc tỉnh Quảng Trị, có độ cao chừng 100m, diện tích tổng cộng khoảng 235
km
2
. Đá bazan ở đây bị phong hóa thành đất đỏ, nâu đỏ, xám rất phì nhiêu. Khắp nơi là vườn cau,
dứa, chè, hồ tiêu… Hiện nay, còn trồng nhiều cây cao su. Dưới chân đồi, ven sườn đồi là các
ruộng lúa bậc thang và phẳng. Đặc điểm của đất ở đây là tính chất giữ ẩm lớn. Đá bazan nằm rải
rác khắp nơi.
Chúng tôi đã đi khảo sát được 21 địa điểm, nơi có các công trình khai thác nước tại các
làng xung quanh quanh núi Cồn Tiên- xã Gio Linh, Gio An, khu vực các làng Liêm Công Đông,
Liêm Công Tây – xã Vĩnh Thành, Vĩnh Linh; xã Cam Thành, huyện Cam Lộ và khu vực cồn cát

thuộc xã Gio Mỹ, Gio Linh (Vũ Triều Dương 1992: 18- 27).
6
Việc thờ cúng ông Tiền khai khẩn, ông Hậu khai canh không hề mang dấu vết phân biệt chủng tộc, đây là
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên chung của người Việt.
Trước hết, để phân loại các công trình khai thác nước này, chúng tôi xin làm rõ một số
khái niệm sau:
- Hệ thống bể lấy nước và dẫn nước: gồm một hay nhiều bể kè đá, lấy và chứa nước
mạch. Nước từ đó qua các mương (rãnh) chảy tưới cho các ruộng lúa xung quanh.
Bể: xung quanh có kè đá (không phải đào) để hứng, lấy nước của mạch nổi hay ngầm từ
sườn hay chân đồi.
- Hệ thống giếng lấy và dẫn nước: gồm hai giếng (giếng kép) kè đá, được đào sâu xuống
đất để lấy nước mạch chìm trong lớp đất bazan. Giếng kép này hoạt động trên nguyên tắc bình
thông nhau. Các mương (rãnh) dẫn nước tưới cho ruộng lúa.
Thực tế khảo sát cho thấy các hệ thống giếng, bể có những điểm chung giống nhau và
một số nét riêng khác nhau:
+ Đặc điểm chung:
a. Đều được xếp bằng đá, chúng tôi nhấn mạnh: xếp chứ không xây, không có hợp chất
liên kết (chủ yếu là đá bazan) và hệ thống các bể hay các giếng nối với nhau chặt chẽ theo chênh
lệch về độ cao lấy nước mạch. Hệ thống bể lấy và dẫn nước đầy đủ nhất bao gồm (tính từ cao
xuống thấp):
1. Trên cao là một mặt bằng xếp đá, rộng hẹp khác nhau. Trung bình rộng khoảng 0,40-
0,50m.
2. Tiếp đến là một bể nhận nước (có nơi là một lạch nước nhỏ). Bể này hứng nước từ
trong nguồn đổ ra. Mực nước ở đây thường không quá 0,20m. Theo nhân dân địa phương không
ai được phép lấy nước ở đây. Chức năng của bể này là lắng các tạp chất. Nước từ đây chảy trực
tiếp hay qua vòi xuống bể dưới.
3. Bể lấy nước sinh hoạt. Giữa bể lắng và bể này thường có bức tường ngăn bằng đất hay
kè đá. Bức tường này có thể coi là đập chắn nước có tác dụng ngăn giữ nước ngầm để có thời
gian lắng đọng các tạp chất. Nước từ bể lắng xuống bể lấy nước trực tiếp rỉ qua bức tường chắn
hoặc qua các vòi dẫn nước bằng đá, gỗ, thân cây cau. Có hệ thống có một vòi, có hệ thống có 2, 3

vòi. Các vòi bằng đá có hình bán trụ, chiều dài trung bình là 1,30m. Trên bề mặt có rãnh chảy dọc
thân và chiều ngang của rãnh là 1,10m. Các vòi phần lớn đã bị vỡ, gẫy, ít cái còn nguyên.
4. Một bậc thấp hơn nữa là bể chứa, nơi dân địa phương tắm rửa, giặt giũ… Bể này cũng
được kè đá, thường có kích thước lớn hơn bể trên, ở giữa thường có các tảng đá làm nơi giặt, rửa.
5. Bể tràn hay bể tháo, có kích thước lớn. Nước đọng lại như ao. Đây là nơi trâu bò ra
tắm, uống nước. Hiện nay phần lớn chúng đã bị phá.
6. Hệ thống rãnh (lạch, mương) dẫn nước chảy từ bể tràn ra ruộng lúa. Hệ thống này cũng
được xếp đá hai bên để tạo thành dòng chảy. Xung quanh khu vực này hiện trồng rất nhiều rau
“liệt” (còn gọi là xà lách xoong).
b. Đều thực hiện hai chức năng: Cung cấp nước cho sinh hoạt và tưới tiêu.
c. Đều cùng mục đích khai thác nguồn nước ngầm. Kết cấu của chúng phụ thuộc vào
từng loại mạch cụ thể (ngầm hay nổi/phun).
d. Đều lợi dụng đặc điểm của dòng chảy tự nhiên theo chênh lệch về độ cao. Thành phần
cấu thành các hệ thống nhiều hay ít là do độ dốc và trữ lượng nước mạch quyết định.
đ. Các hệ thống, bể giếng tham gia điều tiết nước bằng kỹ thuật gia cố đá để giữ nước
theo kiểu tự động dâng, tạo các rãnh dẫn nước bằng đá. Đá sử dụng đều là đá có nguồn gốc tại
chỗ, phần lớn không có dấu vết chế tác. Kỹ thuật xếp đá, kè đá phù hợp với những vùng có độ
dốc để không bị xói mòn và cuốn trôi.
Như vậy, phải chăng môi trường tự nhiên (đặc điểm thổ nhưỡng, khí hậu…) đã buộc cư
dân ở đây phải tìm cho mình cách lấy nước hợp lý, sáng tạo này?
- Những điểm khác biệt:
a. Có loại lấy nước mạch nổi, phun và do đó bể lấy nước được kè đá hoặc đắp đất trên bề
mặt; có loại lấy nước mạch chìm chảy ngầm và do vậy giếng lấy nước phải đào sâu xuống đất.
b. Có loại có, có loại không có vòi dẫn nước.
c. Có loại có cấu trúc phức tạp, nhiều thành phần, có loại có cấu trúc đơn giản (cấu trúc
một bể, một kênh dẫn nước; cấu trúc bể đôi và kênh dẫn nước).
Việc phân loại các công trình khai thác nước ngầm ở vùng phía bắc tỉnh Quảng Trị theo
chúng tôi không thể dựa vào số lượng vòi chảy như M. Colani đã làm. Tiêu chí đó không nêu rõ
được đặc trưng kỹ thuật và cơ cấu xây dựng. Các hệ thống bể có hay không có vòi chảy đều được
xây dựng theo cùng một nguyên tắc và chúng đều thuộc một kiểu.

Chúng tôi thấy rằng tùy theo nguồn mà những công trình này thuộc về hai loại:
1. Hệ thống bể xếp đá lấy nước mạch ngang phun từ sườn, chân đồi. Loại này có hai
kiểu:
a. Có bể lắng trước khi nước ra vòi chảy vào bể nhận nước, rồi xuống bể chứa, qua bể
tràn và từ đây chảy ra ruộng qua các kênh rạch. Điển hình là các “giếng” Kình, “giếng” Đào
7
.
b. Nước nguồn từ vách đồi luồn qua các khe đá, tấm đá chảy thẳng vào bể nhận nước
(không có bể lắng) xuống bể chứa, bể tràn hay từ bể nhận nước qua hệ thống kênh rãnh chảy luôn
ra ruộng, ví dụ: “giếng” Ông, “giếng” Cái, “giếng” Tép…
7
Như phần trên đã nói, hiện nay dân địa phương gọi tất cả các công trình này là Giếng, để tiện theo dõi
chúng tôi vẫn dùng tên gọi đó đặt trong ngoặc kép; còn nếu không trong ngoặc kép thì hiểu là loại đào sâu
xuống dưới đất.
Như vậy, có thể thấy rằng trong loại bể thứ nhất này thì kiểu 1 là kiểu phức hợp, kiểu 2 là
kiểu đơn giản.
2. Hệ thống giếng được đào sâu xuống đất, được kè đá bao quanh với mục đích lấy nước
mạch ngầm. Đây là loại bể kép, theo nguyên tắc bình thông nhau và có kênh, rãnh dẫn nước tưới
cho các ruộng lúa xung quanh. Loại này thấy có ở Gio Linh, Cam Lộ, song chủ yếu phân bố ở
Vĩnh Linh.
Các hệ thống bể, giếng thường phân bố ở vùng sườn hay chân đồi đất đỏ. Khu vực xung
quanh không có sông, suối, ao, hồ,… Toàn bộ trữ lượng nước vùng Cồn Tiên nằm ngầm dưới lớp
đất đỏ (M. Colani 1940: 84). Trong khi đó, hệ thống giếng ở Vĩnh Linh lại bám theo một dòng
chảy mà người Pháp gọi là sông Liêm Công Tây (M. Colani 1940: 43).
Những hệ thống bể, giếng trước hết cung cấp nước phục vụ đời sống hàng ngày (đáng
chú ý là có những quy định cụ thể, nghiêm ngặt: lắng bể, lấy nước sinh hoạt, bể chứa nước tắm
giạt, bể súc vật uống nước…). Nước dư thừa chảy qua hệ thống kênh rãnh tưới cho các ruộng lúa,
vườn rau. Chính đặc điểm đa chức năng này tạo nên tính khu biệt và độc đáo của chúng. Thông
thường những kênh rãnh từ các hệ thống dẫn nước chảy thẳng ra các ruộng (ruộng bậc thang,
ruộng trũng, phẳng quanh khu vực. Song, trong một số trường hợp, nước của vài hệ thống chảy

dồn vào một khe, khe này có tác dụng điều hóa nước tưới. Ví dụ: Khe Cừ nhận nước của các
“giếng” Ông, Bà, Voi, Cái, Diềm. Ở một vài chỗ còn có các ao hồ với những đập bằng đất, đá,
cây tập trung lưu lượng nước như hồ Sen, ao Sara… Nước từ những giếng quanh vùng Cồn Tiên
còn chảy tưới cho một số ruộng ở vùng cồn cát ven biển. (M. Colani 1940: 28, bản vẽ LXVIII-
trên).
5. Khảo sát khảo cổ học
Để làm rõ hơn vấn đề từ góc độ khảo cổ học, chúng tôi đã khảo sát khu vực quanh
“giếng” Kình (làng An Nha), “giếng” Ông, “giếng” Bà và đào một hố thám sát tại “giếng” Tép
(làng Hảo Sơn) thuộc xã Gio An, huyện Gio Linh.
Hố thám sát có kích thước 1x1m, được đào ngay trong lòng “giếng” Tép, là một giếng
nhỏ, ít người sử dụng, không ảnh hưởng lắm đến sinh hoạt của người địa phương.
Hố đào đạt tới độ sâu 0,62m so với bề mặt, từ độ sâu này trở xuống là lớp đá ong cứng.
Đất trong hố cứng, lẫn nhiều hạt, mảnh vỡ Feralit. hiện vật của lớp đất đào chủ yếu là các mảnh
gốm, sành, sứ vỡ, răng động vật, khá giống nhau về loại hình, chất liệu. Trong lớp bề mặt có các
mảnh sứ hiện đại, sắt, chì và thủy tinh. Từ độ sâu 0,38m trở xuống, đất lẫn nhiều cát xám đen, số
lượng mảnh hiện vật tăng đáng kể. Tại đây tìm thấy một mảnh tiền đồng niên hiệu “Quang Trung
Thông Bảo” (1788- 1792), một phần tư mảnh tiền đồng khác không rõ niên hiệu (Vũ Triều
Dương 1992: 27- 29).
Trên vườn cao su phía tây “giếng” Kình và trên các vườn rau, sắn giữa “giếng” Tép,
“giếng” Ông và “giếng” Bà, chúng tôi cũng thu nhặt được một số mảnh hiện vật sành, gốm, sứ
tương tự như trong hố thám sát. Nhìn chung, có ba loại sau:
a. Gốm: có 2 loại gốm mịn và gốm hơi thô.
- Gốm mịn có màu vàng nhạt, đỏ gạch, chế tạo bằng bàn xoay. Một số mảnh hiện vật lồi
uốn cong lòng máng hay bẻ gấp khúc ra ngoài. Phần lớn các mảnh không có trang trí. Có một
mảnh miệng thu được tại khu vườn gần “giếng” Tép màu đỏ độ nung vừa phải, trang trí những
đường khắc chéo nhau.
- Gốm hơi thô xương pha cát và bã thực vật, thường có màu đỏ xám. Độ nung vừa phải.
Có mảnh còn thấy dấu vết đun nấu. Loại này chủ yếu có ở vườn cao su phía tây “giếng Kình”.
Các mảnh vỡ quá nhỏ nên rất khó xác định loại hình. Trong hố thám sát cũng tìm được 3 mảnh
tương tự (2 mảnh ở độ sâu 0,22m; 0,23m và ở độ sâu 0,53m).

b. Sành: Thường có màu xám đỏ, tím. Một số có tráng lớp men mỏng màu sẫm, trang trí
đường đắp nổi, hoa văn sóng nước, văn chải ngang. Nhiều mảnh vai đồ đựng kích thước lớn, có
quai hình con đỉa…
c. Sứ: Một số ít mảnh sứ men trắng hoa xanh Minh- Thanh (Trung Hoa), Lê- Nguyễn
(Đại Việt).
Ngoại trừ một số hiện vật sứ có thể xác định được niên đại. Đa số mảnh gốm, sành có
loại hình, kỹ thuật, trang trí… thuộc loại có tuổi thọ dài. Cho tới nay chưa có một nghiên cứu tỷ
mỷ nào về loại gốm, sành gia dụng này (của người Việt và đặc biệt của người Chăm).
Tuy vậy, những hiện vật nói trên (trừ loại gốm hơi thô), rất giống (về loại hình, chất liệu,
kỹ thuật, trang trí) với các hiện vật gốm, sành, sứ tìm được ở Cồn Dinh, làng Trà Bát, xã Triệu
Giang, Triệu Phong, Quảng Trị, nơi còn vết tích thành Dinh Cát (1600- 1626) của Nguyễn
Hoàng
8
. Cùng với tiền đồng, các mảnh sứ men trắng hoa xanh, niên đại tương đối của các mảnh
sành- gốm ở đây có thể là từ thế kỷ 16- 17.
Đáng lưu ý là những mảnh gốm hơi thô độ nung vừa phải. Cũng trong đợt khảo sát tháng
3- 1992, chúng tôi đã gặp những mảnh tương tự các địa điểm ven biển Quảng Trị, ở cụm vò
Dương Lệ Đông (Lâm Mỹ Dung, Lê Đức Thọ 1992), ở các phế tích kiến trúc Chăm tại Dương
Lệ, Trà Liên, Cù Hoan… Ở phế tích phía tây làng Trà Liên cách Cồn Dinh không xa, chúng tôi
đã thu được vài mảnh, trong khi ở tại Cồn Dinh, không thấy loại gốm này.
Liệu có thể cho rằng gốm hơi thô ở đây cùng loại với gốm Chăm cổ đã biết? Qua kết quả
khai quật Trà Kiệu, Cồn Chăm, Quảng Nam- Đà Nẵng (Nguyễn Chiều, Lâm Mỹ Dung 1991: 19-
29; Lâm Mỹ Dung 1989: 181- 182), và loại gốm thấy nhiều ở các địa điểm huyện Diên Khánh,
8
Kết quả cùng đợt khảo sát khảo cổ học tỉnh Quảng Trị tháng 3 năm 1992 của chúng tôi.
Ninh Hòa và đảo Hòn Tre, tỉnh Khánh Hòa (Trần Quốc Vượng, Lâm Mỹ Dung 1990: 209- 211).
Theo hiểu biết hiện nay, loại gốm với chất liệu hơi thô, độ nung không cao lắm là loại gốm thông
dụng của người Chăm cho tới đến những thế kỷ 8- 9 sau công nguyên và muộn hơn nữa. Lượng
thông tin còn ít ỏi, chưa thể khẳng định một cách chắc chắn, song chúng tôi tin rằng những mảnh
gốm hơi thô nói trên là dấu vết của các cư dân trước thể kỷ 16.

Cũng trong đợt khảo sát, chúng tôi đã trực tiếp thu nhặt và xin lại của dân địa phương
một số rìu, bôn đá tứ giác có vai (Lâm Mỹ Dung, Vũ Triều Dương 1992). Những hiện vật này là
dấu hiệu về sự có mặt của các cư dân nguyên thủy hậu kỳ đá mới- sơ kỳ kim khí. Như vậy, tư liệu
khảo cổ học cho thấy còn người đã sinh sống trên vùng đất này ít ra là từ Thiên niên kỷ thứ II
trước Công nguyên. Song ai là chủ nhân của các công trình khai thác nước ngầm độc đáo này?
6. Một số diễn giải
Tác giả Tạ Chí Đại Trường đã có những lập luận có lý để bác bỏ sự thiên di của người
Indonexia và cho đến này luận điểm về nhóm người ngoại lai không còn hấp dẫn và đã mất sức
thuyết phục.
Theo chúng tôi, những dấu vết tín ngưỡng còn lại trong vùng không thể là chứng cớ chắc
chắn cho kết luận của M.Colani. Rõ ràng tục thờ đá, thờ cây,… hay là tín ngưỡng Tính linh
(Animisme) phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới, và càng không xa lạ với người Chăm, người
Việt
9
(M. Przyluski 1909: 757- 764; P. Mus 1933: 373- 377). Thêm nữa, những nghiên cứu gần
đây của các nhà dân tộc học lại cho thấy các tập đoàn thiểu số vùng Assam, cụ thể là người
Agami Naga (mà M. Colani viện ra như một chứng cớ cho giả thiết của mình) mới bắt đầu làm
ruộng nước từ cuối thế kỷ trước (19). Họ cũng trồng lúa nước trên ruộng bậc thang nhưng còn ở
trình độ nông nghiệp dùng cuốc và gậy, gần gũi với kiểu phát nương đốt rẫy (B. Verma 1956:
16).
Những kết quả khảo sát tháng 7- 1937 của Colani khó có thể dùng làm cơ sở giải đáp các
câu hỏi về chủ nhân hay niên đại do lượng thông tin mỏng manh, không cụ thể. Để có được
những căn cứ khảo cổ học chuẩn xác cần phải thám sát khai quật ở các thành phần được sử dụng
(lòng các bể lấy nước, tắm giặt…) chứ không phải ở các thành phần phụ, bên cạnh như M.Colani
đã làm.
Tuy nhiên, gắn những công trình khai thác nước với nhóm tù binh Mạc 1572 làm nảy
sinh nhiều câu hỏi.
Những đồng tiền Gia Long, Thiệu Trị, Tự Đức mà Tạ Chí Đại Trường dựa vào để cho
rằng: “các công trình quy mô lớn- vũng Kình, nơi có các đồng tiền dó chẳng hạn, chỉ được hoàn
9

Trong đời sống hiện nay, dấu vết thờ cây, thờ đá… vẫn còn thấy ở nhiều nơi, ngay cả ở các thành phố lớn
như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.
thiện vào hậu bán thế kỷ XIX mà thôi” (Tạ Chí Đại Trường 1991: 59) đều nằm trên bề mặt hố
thám sát (mảnh ở độ sâu 0,60m lại không rõ niên hiệu). M. Colani tuy cho biết thêm là hiện vật
gốm trong lớp này (0,60m) vẫn như các lớp trên, nhưng lại khảo tả chung chung, lẫn lộn gốm cổ,
gốm hiện đại, nên khó lòng dùng chúng để xác định niên đại.
Một câu hỏi được đặt ra là nếu quả thực các hệ thống khai thác nước ở vùng Cồn Tiên do
đám tù bình nhà Mạc 1572 xây dựng nên (mà Tạ Chí Đại Trường, để làm rõ thêm vấn đề, đã dẫn
chứng sự kiện lập Chùa Vua để tưởng nhớ Nguyễn Hoàng 1695 ở ba làng An Nha, An Hương,
Phương Xuân, nơi có nhiều hệ thống thủy lợi quy mô lớn (Tạ Chí Đại Trường 1991: 55), thì
những hệ thống khác, không phải chỉ ở Gio Linh mà cả ở Vĩnh Linh, Cam Lộ với cùng mô thức
kỹ thuật, phương pháp xây dựng và chức năng của ai và do ai làm?
Mặt khác, nếu chấp nhận “giếng” Kình chỉ được hoàn thiện vào hậu bán thế kỷ 19 thì thật
vô lý khi sự kiện đó không hề lưu lại trong ký ức dân các làng đầu thế kỷ 20 khi M. Colani đi
khảo sát.
Sử sách cũng không hề ghi chép về sự kiện xây dựng các hệ thống lấy nước đó, trong khi
Ô Châu cận lục, Phủ Biên tạp lục, Đại Nam nhất thống chí, đều ghi chép cẩn thận từng việc khơi
rãnh, đào kênh dẫn nước ở vùng này.
Một trong những lập luận của Tạ Trí Đại Trường để chứng minh người Việt không xa lạ
với kỹ thuật xếp đá là các ví dụ về giếng Thắng Đức thời Lý, giếng Chuông Linh, giếng tự
nhiên…Ông còn dẫn Tang Thương ngẫu lục kể chuyện Bùi Cầm Hổ thuê người xếp đá làm đập
men theo núi Hồng Lĩnh - Nghệ An, hay những công trình xếp đá khác ở Phú Yên… ( Tạ Chí Đại
Trường 1991: 57). Trong vấn đề đang quan tâm, sự độc đáo, tính chất khu biệt không phải chỉ
nằm trong việc sử dụng chất liệu đá xếp mà là trong mô thức kỹ thuật khai thác - sử dụng nguồn
nước ngầm theo cách phân cấp rạch ròi với nhiều mục đích. Và phương pháp nông nghiệp tưới
nước khác với cách làm ruộng chờ mưa hay dựa vào thuỷ triều đặc trưng cho người Việt (Đào
Hùng 1990: 126).
Vùng Cồn Tiên và những vùng đất đỏ khác rất thích hợp với việc trồng trọt đã từng được
nhắc đến không chỉ một lần trong thư tịch cổ
10

thế kỷ 16 - 18 lẽ nào lại là vùng đất không người
để Nguyễn Hoàng đưa tù binh Mạc lên với mục đích khẩn hoang.
Tạ Chí Đại Trường có nói đến một số dấu vết Chăm trên vùng đất này, song theo ông
“Tín ngưỡng xưa không cho phép các tập đoàn chiến thắng lập cơ sở trung tâm ngay trên vùng
đất của kẻ chiếm cứ trước mà mình đánh đưổi đi…” (Tạ Chí Đại Trường 1991: 56). Phải chăng
ông muốn nói người Việt không đóng Trị sở tại trung tâm tôn giáo, chính trị, quân sự của người
10
Tổng Bái Ân- một trong hai tổng của Cồn Tiên nổi tiếng với các giống lúa đặc sản, cau, trầu, hồ tiêu…
các giống lúa ở đấy nếu đem trồng ở nơi khác không bao giờ giữ được thuần chủng (Dương Văn An 1962:
24; Lê Quý Đôn 1997: 343).
Chăm? Thực tế điền dã cho phép chúng tôi chứng minh ngược lại: Thành Châu Thuận thời Trần,
Lê sơ nay còn thấy vết tích ở làng Vệ nghĩa, xã Triệu Long, Quảng Trị dựa trên một thành Chăm
cổ (Trương Thu Hiền 1992: 30 – 32). Mặt khác, người dân Việt chắc là đã cộng cư cùng người
Chăm vì nhiều lý do mà lý do quan trọng nhất là nhu cầu thực dụng về đất ở, đất trồng trọt. Rất
nhiều các di chỉ khảo cổ học từ thời tiền sử, sơ sử cho thấy những nơi cư trú chồng chất lên nhau
từ nền văn hoá này sang nền văn hoá khác, kéo dài qua nhiều thế kỷ. Điều này có thể áp dụng với
trường hợp cộng cư Việt- Chăm, Chăm- Việt
11
, Ô Châu Cận lục 1553 còn chép về những làng
Chăm lẫn với làng Việt (Dương Văn An 1962: 44). Và nếu không ở trên đất của cư dân Chăm thì
người Việt sẽ ở đâu trên dải đất miền Trung khô cằn và chật hẹp?
12
Để bác bỏ ý kiến cho rằng người Chăm là chủ nhân của hệ thống thuỷ lợi Gio Linh,
M.Colani đã so sánh những hệ thống đó với các hệ thống thuỷ lợi Phan Rang (đập Nha Trinh) và
cho rằng giữa chúng không có gì chung (M. Colani 1940: 59). Song điều kiện sinh thái ở Phan
Rang khác rất nhiều so với Quảng Trị. Hơn nữa đem so một hệ thống khai thác nước ngầm, nước
nguồn dưới đất ở vùng đồi với một hệ thống đắp đập ngăn sông vùng lưu vực sông thì khó mà tìm
được các nét tương đồng, (nhưng ngay ở vùng đất đỏ Quảng Trị cũng có những đập đắp bằng đất,
đá, cây dù với quy mô nhỏ hơn so với các đập ở Phan Rang). Thực tế cho thấy một hệ thống thuỷ
lợi không phải lúc nào cũng thuộc một phương pháp kỹ thuật đồng nhất, mà thường đa dạng, phụ

thuộc vào điều kiện sinh thái cụ thể từng vùng. Những nghiên cứu gần đây của các học giả nước
ngoài về các hệ thống kỹ thuật trị thuỷ ở Đông Nam Á cho phép thấy rõ đặc điểm này (J. Spencer
1974: 74).
Sự đa dạng đó thể hiện khá rõ trong phương thức thuỷ lợi của người Chăm. Những khảo
sát về nghề nông trồng lúa nước của người Chăm thời cổ cho thấy ngoài việc đắp đập, làm hồ
chứa nước như ở Phan Rang, người Chăm còn sử dụng những xe đưa nước từ sông lên ruộng cao,
hay giống như người Thái, họ xây những đập nhỏ bằng cành cây và đá chắn ngang sông, suối
(Đào Hùng 1990: 128- 130). Ông Nguyễn Thiệu Lâu cho biết một kiểu thuỷ lợi đa yếu tố nữa của
người Chăm ở vùng Mường Mán (Phan Thiết). Đó là hệ thống các nhóm ao con, nằm ở hai mặt
bằng với độ cao khác nhau. Các ao này được đào để lấy, chứa và tiêu nước ngầm. Chúng được
nối với các đập trên các suối bằng các kênh dẫn. Như vậy, những ao ở đây vừa để lấy nước ngầm
và chứa nước từ các suối để tưới cho ruộng lúa. Hình thức khai thác nước ở Mường Mán phần
nào gần gũi với phương thức lấy nước ngầm vùng đất đỏ Quảng Trị. Trong cả hai cách lấy, sử
dụng nước ở Quảng Trị và Mường Mán ta đều thấy yếu tố tương ứng với phương pháp làm hồ
11
Kết quả khảo sát của chúng tôi ở nhiều địa điểm tại Quảng Trị, Quảng Nam- Đà Nẵng, Khánh Hòa,…
đều chứng tỏ rất rõ sự cộng cư đó.
12
Tất nhiên quá trình Nam Tiến là một quá trình phức tạp, sau một thời gian dài, cư dân của vương quốc
Chawmpa chắc không đủ công để chiếm lĩnh toàn địa bàn từ núi rừng đến các cồn cát ven biển. Ở đây
chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh tới các vùng đất thuận lợi cho con người sinh sống.
chứa gắn với địa hình dốc phổ biến ở vùng cao nguyên của các xã hội trồng lúa Châu Á
(Yoshikaru Takaya 1977: 10).
Đáng tiếc hiện nay, hệ thống ao Mường Mán đã được người Việt cải tạo lại làm ao nuôi
cá và ruộng lúa nên không khảo sát được (Nguyễn Thiệu Lâu 1940: 131- 134).
Những dấu vết đập nước còn được thấy ở vùng cồn cát Trà Lộc, Hải Lăng, Quảng Trị (P.
Cadière 1905: 190). Lê Quý Đôn trong Phủ Biên Tạp lục cũng ghi chép về những mạch nước
chảy từ các cồn cát tưới cho ruộng lúa (Lê Quý Đôn 1977: 105). Và phải chăng, những giếng nằm
dưới chân các cồn cát có kênh dân nước tưới ruộng ở Gio Linh, Gio Mỹ cũng là một phương thức
thuỷ lợi nhỏ phù hợp với địa hình cồn cát của người Chăm đã được người Việt kế thừa và sử

dụng ?
M. Colani dẫn việc người Việt với thói quen hay phá những công trình (của người Chăm)
ở các vùng họ tới chiếm đóng để lấy vật liệu xây dựng (M. Colani 1940: 37) nhằm mục đích củng
cố cho giả thiết rằng những công trình giếng không phải của người Chăm. Song cần lưu ý đây là
các công trình khai thác nước, rất cần thiết cho sinh hoạt và trồng trọt. Ở Đông Nam Á, các công
trình thuỷ lợi thường có tuổi thọ dài, sức sồng bền bỉ so với các nhà nước, các triều đại, bởi lý do
đơn giản là chúng thiết yếu cho mọi giai đoạn, mọi cư dân (J. Stargardt 1986: 32). Hơn nữa, có
không ít những ví dụ cụ thể về người Việt kế thừa, sử dụng và phát triển các thành quả của người
Chăm trong nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá
13
. Trên thực tế, mãi tới những năm gần dây do nhu
cầu đất ở và đất trồng trọt tăng nhanh, người ta mới san bằng các gò đồi, tường thành nơi thường
có những công trình kiến trúc Chăm. Thực tế còn cho thấy có vô số đền miếu do người Việt dựng
lên để thờ các bức tượng, thậm chí một mảnh điêu khắc từ những đền tháp Chăm cổ đã đổ nát (tất
nhiên là để thoả mãn nhu cầu chủ quan của mình). Ngay ở Thăng Long khi xưa, tù binh Chăm
cũng được phép dựng những đền thờ của mình. Ví dụ ở chùa Tào (chỗ bây giờ là Ngân hàng Nhà
nước) vào các năm 1886- 1888 khi đào móng xây dựng, người ta đã phát hiện được nhiều vết tích
thú vị (điêu khắc, tượng) của một ngôi đền Chăm (Dumoutier 1901: 85).
Ở những địa điểm có những hệ thống bể giếng không tìm thấy gạch và điêu khắc Chăm
nên M. Colani đã đi tới kết luận rằng không phải cư dân Chăm đã xây dựng và sử dụng những
giếng đó. Song gạch, ngói, tượng và điêu khắc là những vết tích, chứng cớ của các nhóm đền tháp
thành hay cung điện. Ở làng xóm người dân Chăm bình thường nhà cửa được dựng bằng những
vật liệu nhẹ và có lẽ cũng không khác nhiều lắm so với những ngôi nhà tranh của nông dân Việt.
Ngay các đền tháp Chăm đầu tiên cũng được xây dựng bằng gỗ. Thư tịch có nói nhiều về nhà ở
sơ sài, đơn giản của người Chăm (Lương Ninh 1968: 15- 16). Thậm chí, vẫn còn tín ngưỡng cho
13
Ví dụ về hàng loạt các giếng Chàm ở cả miền Bắc và miền Trung; những đập nước ở Quảng Trị, Phan
Rang…cho tới nay vẫn được sử dụng. Ông Đào Hùng cho rằng những xe nước ở Bình Định, Quảng Ngãi là
người Việt tiếp thu của người Chăm (Đào Hùng 1991: 129).
rằng: người không được ở nhà gạch, nhà ngói vì nhà gạch, nhà ngói chỉ để “dành riêng” cho các

vị thần (Mah Mod 1975: 63).
Việc không tìm thấy gạch hay điêu khắc Chăm ở một vùng nào đó không hẳn là chứng cớ
để cho rằng nơi đó không là đất Chăm, không có người Chăm cư trú, nhiều ví dụ điền dã các tỉnh
miền Trung cho thấy rõ điều này
14
.
Chúng tôi thiên về ý kiến cho rằng người Chăm là chủ nhân của các hệ thống bể giếng
vùng đất đỏ Gio Linh, Vĩnh Linh, Cam Lộ.
M. Colani có biết ba di tích Chăm ở vùng này nhưng lại cho rằng chúng không có vai trò
quan trọng (M. Colani 1940: 209). Trong khi đó, chính bà lại nghĩ ao Xara ở làng Hảo Sơn có thể
từ âm Chàm SRAH (vũng- ao). Ở chùa Bụt Mọc làng Liêm Công Đông, Vĩnh Linh, P. Cadiere đã
tìm được một cánh tay của tượng Chăm (Cadiere 1909: 8). Ở làng Trương Xá, Cam Lộ cũng thấy
một tượng bị vỡ phần trên (Gariot 1911: 199).
Với đợt điền dã tháng 3- 1992, chúng tôi đã khẳng định nhiều phế tích và di tích kiến trúc
Chăm:
1. Phế tích ở thôn Duy Viên- xã Vĩnh Lâm, huyện Vĩnh Linh, cách những hệ thống giếng
ở xã Vĩnh Thành khoảng 5km theo đường chim bay.
2. Phế tích ở xóm Huỳnh Thượng- xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Linh, cách những hệ thống
giếng ở xã Vĩnh Thành khoảng 2,5km theo đường chim bay.
3. Di tích ở phường Sỏi thuộc thôn Lạc Tân, xã Gio Phong, huyện Gio Linh (theo P.
Cadiere ở dưới chân một đồi đỏ, vũng Bái Trời (P. Cadiere 1909: 8). Bái Trời hay Bái Ân là một
trong hai tổng của Cồn Tiên. Di tích này cách khu vực có hệ thống giếng bể ở Gio An khoảng
5km theo đường chim bay.
4. Di tích ở Hà Trung, xã Gio Châu, huyện Gio Linh. Đây là nhóm tháp có quy mô lớn
với những điêu khắc có niên đại sớm từ thế kỷ 7 và niên đại muộn từ thế kỷ 12 (Trương Thu Hiền
1992: 14- 15). Từ đây tới Ninh Xá, nơi có các hệ thống giếng, bể khoảng 5km theo đường chim
bay. Ở đây, tìm thấy các trang trí phong cách Hoà Lai muộn, Đồng Dương sớm (thế kỷ 9)
(Trương Thu Hiền 1992: 16).
5. Phế tích tại Lâm Bang, xã Cam Thuỷ, huyện Cam Lộ, cách Cồn Tiên khoảng 5km theo
đường chim bay.

14
Tại Cù Lao Chàm (Quảng Nam- Đà Nẵng) không tìm thấy gạch Chăm, điêu khắc Chăm (Notes et
melanges 1933: 496, ở đây còn một giếng vẫn đang được sử dụng (Trần Kỳ Phương và Vũ Hữu Minh
1991: 128). Mường Mán nơi có hệ thống ao, kênh cũng không thấy gạch, điêu khắc Chăm (Nguyễn Thiệu
Lâu 1942: 134).
6. Di tích ở Cam Giang, thị xã Đông Hà. Ở đây tìm thấy nhiều hiện vật đá như Linga, bệ
thờ, …một tượng bò Nandin, tương tự tượng bò Nandin ở tháp Mỹ Sơn A1 (Trương Thu Hiền
1992: 18). Di tích này cách Gio An, nơi có giếng khoảng 5km theo đường chim bay.
Bảy di tích, phế tích kiến trúc kể trên, chắc chắn chưa phải là con số cuối cùng, nhưng đã
cho thấy mật độ khá lớn các di tích văn hoá Chăm. Chúng chứng tỏ sự có mặt của cư dân Chămpa
trong vùng ít ra là từ thế kỷ 11, 12…
Nhìn trên bản đồ, giữa khu vực có các hệ thống xếp đá khai thác nước và các địa điểm có
di tích văn hoá Chămpa rõ ràng có mối liên hệ về không gian (và có thể từ đó cả thời gian). Tạ
Chí Đại Trường cho biết cách Phan Thiết 6 km về phía bắc có một giếng nước mà tới trước năm
1945, người Chăm thường làm lễ rước sinh thực khí (Tạ Chí Đại Trường 1991: 60). Giếng này
hình vuông, lát gỗ xung quanh, giống hệt giếng Cây Đa (làng Phúc Mỹ Đông, quốc lộ I) và những
giếng vùng Vĩnh Linh, Gio Linh mà M. Colani còn thấy vết sườn gỗ. Phải chăng chúng có chung
một nguồn gốc?
Chủ nhân những giếng Chăm ở Miền Trung (Trần Kỳ Phương và Vũ Hữu Minh 1991:
127- 128) hay trong các colonat Chăm ở miền Bắc (Lưu Đồn- Thái Bình), (Bùi Duy Lan 1977:
205- 207), Yên Sở, Hoài Đức (khảo sát tháng 5- 1992 của chúng tôi) và chủ nhân của hệ thống kè
khai thác nước ở Quảng Trị đều rất hiểu biết về nước ngầm, nước mạch. Ngay ở địa hình khô cạn,
toàn cát đá, họ cũng luôn có những giếng nước ngọt, trong vắt và không bao giờ cạn.
Khảo sát phương thức trị thuỷ (hay nói đúng hơn là sử dụng nước) của các cư dân Đông
Nam Á, J. Spencer đã phân biệt 19 kỹ thuật cơ bản có nguồn gốc khác nhau (địa phương- Đông
Nam Á, Ấn Độ, Trung Hoa và phương Tây), từng được và đang sử dụng ở các vùng Đông Nam
Á lục địa và hải đảo (J. Spencer: 1974: 74, h.1).
Theo tác giả ở đồng bằng Bắc Bộ, phương thức đặc trưng là ruộng ngập nước (theo thuỷ
triều) và ruộng đắp bờ chờ mưa. Hệ thống đê, kênh và “van” có mục đích chính là kiểm soát mực
nước dâng còn giao thông và tưới tiêu đóng vai trò phụ.

Các bể chứa (tiếng Anh- Tank) với ba thành phần- tương tự như ở Gio Linh theo J.
Spencer có nguồn gốc Ấn Độ, chỉ thấy ở những vùng chịu ảnh hưởng Ấn Độ. Chưa bao giờ các
bể chứa loại đó phân bố khác Đông Nam Á lục địa, ở Philippin hay ở các đảo Indonexia phía
đông Bali. Cũng theo tác giả này (ở Việt Nam) bể chứa chỉ thấy sử dụng trong vùng đất của
vương quốc Chămpa xưa (cùng với một kỹ thuật khác là đập và kênh chuyển dòng). Còn ở những
vùng chịu ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa (Bắc Việt Nam) đó chỉ đơn giản là những cái ao nhân
tạo để chứa nước (J. Spencer 1974: 87). Hệ thống thuỷ lợi Gio Linh tương tự như những hệ thống
kênh rạch dẫn nước vùng cao ở Luzon và Bali là một hệ trong những kiểu sinh thái (ecotype) ở
Đông Nam Á giai đoạn sớm (Stargardt 1986: 37).
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng: để xây dựng và bảo trì những công
trình giếng, bể cần có sự tổ chức, điều khiển và lực lượng nhân công nhất định. Trong trường hợp
thuỷ lợi vừa và nhỏ của vùng đất này, việc cường điệu hoá quá mức vai trò của một tổ chức lãnh
đạo trung ương là không phù hợp. Ở đây, có lẻ nên áp dụng thuỷ lợi “Quasihydraulic agriculture”
- kiểu xã hội trồng lúa nước cần quy mô thuỷ lợi nhỏ và Nhà nước chỉ tham gia một phần vào
việc xây dựng, điều khiển hệ thống tưới tiêu (Yoneo Tshii 1978: 19). Thực tế cho thấy ở phần lớn
các vùng Châu Á, đa số các hệ thống thuỷ lợi là những công trình quy mô nhỏ, do dân địa phương
xây dựng bằng những vật liệu tại chỗ để thoã mãn nhu cầu cuộc sống hàng ngày (Stargardt 1986:
32).
Một ý kiến khác cũng được đa số các học giả tán thành: Đây là những công trình của cư
dân nông nghiệp trồng lúa nước, sống định cư. Như vậy, khó có thể đẩy xa niên đại của chúng tới
hậu kỳ đá mới, sơ kỳ kim khí. Và, các cư dân với lối sống du canh du cư, phát nương làm rẫy
cũng ít khả năng là chủ nhân các hệ thống khai thác vùng đất đỏ Quảng Trị.
Người Chăm có mặt ở vùng đất này từ rất sớm, ít ra cũng từ thế kỷ 4 sau Công nguyên
(Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh 1991: 18). Theo thư tịch cổ Trung
Hoa thì người Chăm đã biết trồng lúa nước từ rất sớm, vào khoảng đầu Công nguyên (Đào Hùng
1990: 128). Nông nghiệp từng giữ vai trò quan trọng trong xã hội Chăm cổ (Lương Ninh 1968:
18- 25). Tài liệu dân tộc học cũng cho biết người Chăm coi trọng nông nghiệp, công tác điều tiết
nước tưới giữ vai trò chủ đạo trong xã hội cổ truyền Chăm (Phan Ngọc Chiến 1989: 40- 46). Tín
ngưỡng dân gian của họ mang đậm nét tín ngưỡng cư dân nông nghiệp trồng lúa nước (Mah Mod
1975: 57- 60).

Các vết tích còn lại của văn hoá Champa khẳng định sự có mặt của họ ở vùng Bắc Quảng
Trị từ những thế kỷ 7- 8 sau Công nguyên (có nhiều khả năng còn sớm hơn nữa). Tuỳ theo điều
kiện sinh thái trong vùng, kết hợp với kinh nghiệm tìm mạch nước, đào giếng, làm bể chứa, họ đã
xây dựng những hệ thống xếp đá khai thác nước để phục vụ cuộc sống hàng ngày, trồng lúa nước
và các loại cây khác như cau, trầu, hồ tiêu… Cư dân Việt khi tới đây (không hẳn chỉ từ thế kỷ
16)
15
đã kế thừa và phát triển những thành tựu văn hoá, kinh tế này. Có lẽ, họ đã mở mang thêm
kể cả đất trồng và các công trình lấy nước tương ứng. Chính sự phì nhiêu của đất bazan, điều kiện
nước tưới thuận lợi, sự phong phú của các loại thực vật (thực vật trồng và lâm thổ sản) đã khiến
Nguyễn Hoàng đưa tù bình nhà Mạc lên đây để thực thi và phát triển công việc cấy cày, trồng trọt
phục vụ củng cố mục đích ly khai của ông, dấu vết rất đậm nét của thế kỷ 16- 17 đã chứng tỏ điều
đó.
15
Sử sách chép rõ vùng Quảng Trị từ thế kỷ 11 đã là Châu Minh Linh của Đại Việt.
Mặc dù những kết quả thám sát khảo cổ học của chúng tôi còn quá ít ỏi để có thể khẳng
định được điều gì. Tuy nhiên, đó cũng là những căn cứ khoa học mới giúp chúng tôi kiên định
hơn, đi xa hơn để tìm chủ nhân đích thực của hệ thống kè đá khai thác nước ở tỉnh Quảng Trị khi
có những tiếp xúc và điều kiện thuận lợi hơn.
TÀI LIỆU DẪN
BEZACIER.L. 1972. le Vietnam, leur fascicule. Paris.
BÙI HUY ĐÁP 1985. Văn minh lúa nước và nghề trồng lúa nước Việt Nam. NXB Nông
nghiệp, Hà Nội. CADIERE L.P. 1905. Monuments et souvenirs Chams du Quang Tri et du Thua
Thien. B.E.F.E.O.TV.
CADIERE L.P. 1909. Notes sur quelques emplacements Chams de la Province de Quang
Tri. B.E.F.E.O. TIX.
COEDES. G. 1962. Les peoples de la penisnule Indochinoise. Histoine- civilisation.
Paris.
COLANI.M. 1937. Anciennes irrigations et bassins dans le DoLinh (Quang Tri). Cahier
de l’ Ecole Francaise d

,
Extreme Orient. TX.
COLANI.M. 1940. Emploi de la Pierre en des temps recules: Annam- Indonesia- Assam.
Bulletin des Anis du Vieux de Hue.
CHESNOV.J.A. 1967. Dân tộc học lịch sử các nước Đông Dương. Bản dịch chép tay. Tư
liệu khoa Sử- Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
DƯƠNG VĂN AN 1962. Ô châu cận lục. Saigon.
DUMOUTIER.M.G. 1901. Etudes sur les Toukinsis. B.E.F.E.O.T.I
ĐÀO HÙNG 1190. Về phương thức trồng lúa của người Chăm cổ. Tạp chí Đất Quảng,
số 61.
GARIOD.CH. 1911. Une Journee de fouilles a Truong xa. B.E.F.E.O.TXI.
LÊ QUÝ ĐÔN 1977. Phủ biên tạp lục. NXB.KHXH. Hà Nội.
LƯƠNG NINH 1978. Kinh tế và xã hội Chămpa. Tư liệu khoa Sử, Trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội.
LÂM MỸ DUNG 1990. Kết quả khai quật Cồn Chăm, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam-
Đà Nẵng. Trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1989.
LÂM MỸ DUNG, LÊ ĐỨC THỌ 1993. Mộ vò Chăm. Trong Những phát hiện mới về
khảo cổ học năm 1992.
LÂM MỸ DUNG, VŨ TRIỀU DƯƠNG, LÊ ĐỨC THỌ 1993. Rìu bôn đá ở Quảng Trị.
Trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1992.
LÊ DUY SƠN 1991. Các giếng nước cổ ở Gio An. Tạp chí Cửa Việt, số 4.
MUS.P. 1993. Cultes indiens et indigenes au Champa. B.E.F.E.O.TI.
MASSON. A. 1960. Histoire du Vietnam. Paris.
MAHMOD 1975. Bước đầu tìm hiểu về tôn giáo tín ngưỡng của người Chàm ở Việt
Nam. Tạp chí Dân tộc học, số 4.
NGUYỄN THIỆN LÂU 1942. Les e’tangs desseches de la region de Muong Man.
Bulletin de l’Institut Indochinoise pour l
,
Etude de l
,

home. Vol.1.
NOTES ET MELAGES. 1993. Poulo Canton et Culao Cham. B.E.F.E.O.T.I.
NGUYỄN CHIỀU, LÂM MỸ DUNG VÀ VŨ THỊ NINH 1991. Đồ gốm trong cuộc khai
quật di chỉ Chăm cổ Trà Kiệu. Khảo cổ học, số 4.
PHAN NGỌC CHIẾN 1989. Một số vấn đề kinh tế nông nghiệp vùng người Chăm ở
Thuận Hải. Trong Người Chăm ở Thuận Hải. Sở Văn hoá Thông tin Thuận Hải xuất bản.
PHAN KHÁNH 1981. Sơ khảo lịch sử thuỷ lợi Việt Nam, T.I. NXB KHXH, Hà Nội.
PHAN HUY LÊ, TRẦN QUỐC VƯƠNG, HÀ VĂN TẤN, LƯƠNG NINH 1991. Lịch
sử Việt Nam, T.I. NXB ĐH và GDCN, Hà Nội.
PRZULUSKI.M.J. 1909. Notes sur le culte de arbres au Tonkin. B.E.F.E.O T.IX.
QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN 1961. Đại Nam nhất thống chí. Tập 9, Tỉnh Quảng
Trị và tỉnh Quảng Bình. Tu trai Nguyễn Tạo dịch. Saigon.
SPENCER.J.F. 1974. La maitrise de l’eau en Asie du Sud- Est. Etudes rurales. N
0,
53,54,55,56. Janvier- Decembre.
STAGARDT.J. 1986. Hydraulci Works and Southeast Asian polities. Southest Asia in the
9
th
to 14
th
centuries. Singapore.
TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG 1991. Dấu vết thuỷ lợi sử dụng chất liệu đá xếp ở vùng Gio
Linh. Tạp chí Văn Lang, N
0
2 California.
TAKAYA YOSHIKARU 1977. Rice growing societies of Asia. Ecological approach. In
South East Asian studies vol.15. N
0
3.
TRẦN QUỐC VƯỢNG, LÂM MỸ DUNG 1990. Báo cáo kết quả khảo sát khảo cổ tại

tỉnh Khánh Hoá. Trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1990.
TRẦN KỲ PHƯƠNG, VŨ HỮU MINH 1991. Cửa Đại Chiêm thời vương quốc Chămpa
thế kỷ IV- XV trong Đô thị cổ Hội An. NXB.KHXH. Hà Nội.
VERMA.B 1956. Agriculture and land ownership system among the primitive people of
Assam. Delhi.
YONEO ISHII. 1978. History and rice growing in Thailand. In A rice growing society
(monographs of the center for Southeast Asian studies. Kyoto University). The University press
of Hawaii- Honolulu.

×