Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Báo cáo khoa học thử bàn về hàm lượng văn hoá và tính nhân văn của báo chí hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.28 KB, 13 trang )


THỬ BÀN VỀ HÀM LƯỢNG VĂN HÓA
VÀ TÍNH NHÂN VĂN CỦA BÁO CHÍ HIỆN NAY

PGS. TS Nguyễn Văn Dững

∗∗




Trong cuộc sống cũng như trong văn học và báo chí, các khái niệm tính nhân đạo,
tính nhân văn và tính nhân loại có cùng phạm trù ngữ nghĩa, nhưng biểu hiện ở các cấp độ
khác nhau. Nhân đạo, có thể hiểu là những phẩm chất đạo đức thể hiện ở nhận thức, thái độ
và hành vi sự thương yêu, quý trọng, chăm sóc và bảo vệ con người, nhất là những con
người, những thân phận đang gặp những khó khăn bất trắc. Nhân văn, có thể hiểu là “thuộc
về văn hóa của loài người”, tức là những giá trị văn hóa chung của loài người. Theo đó,
tính nhân văn nhấn mạnh đến việc báo chí đề cao, quý trọng, ca ngợi và bảo vệ những giá
trị văn hóa chung của cộng đồng, vì cuộc sống và lợi ích chính đáng của con người, của
cộng đồng. Tính nhân loại, theo đó, thường được hiểu là báo chí tôn trọng, bảo vệ và
truyền bá những giá trị văn hóa chung nhất của nhân loại, không phân biệt dân tộc, tôn
giáo, ; trong thực tế hiện nay, đó là mục tiêu vì hòa bình, ổn định, sự tiến bộ và phát triển
bền vững của cộng đồng quốc tế, các quốc gia, các dân tộc trên khắp hành tinh.
Tính nhân văn, nhân loại là hệ giá trị vừa rất trừu tượng, lại vừa biểu hiện rất cụ thể
thông qua các sự kiện và vấn đề thời sự hàng ngày, thể hiện nhận thức, thái độ và hành vi
ứng xử của con người. Trong báo chí truyền thông, đó là thái độ tiếp cận, đánh giá các sự
kiện và vấn đề trong cuộc sống hàng ngày liên quan đến cộng đồng cũng như những số
phận con người; đó là quan điểm, thái độ và những nỗ lực không mệt mỏi trong cuôc đấu
tranh vì quyền con người, dân chủ, dân sinh, vì sự tiến bô xã hội và những giá trị nhân đạo
chân chính.
Nhân văn, nhân loại là hệ thống giá trị chung của loài người, của nhân loại. Bất kỳ ai,


dân tộc nào, sống ở đâu, cũng đều có khát vọng sống, mong muốn có cuộc sống ấm no,


Học viện báo chí và Tuyên truyền
hạnh phúc trong hóa bình. Như trong Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh trịnh trọng tuyên bố: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá
cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn
Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do.”
Nhưng quan niệm, quan điểm tiếp cận về hệ giá trị chung ấy cũng như dang thức biểu
hiện nó trong thực tế cuộc sống và mức độ đạt được lại tùy thuộc vào các nền văn hóa, lịch
sử hình thành và trình độ phát triển của mỗi nước, mỗi khu vực. Trong xã hội phân chia
thành giai cấp, thành các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, quan điểm và cách thức tiếp
cận vấn đề này cũng không giống nhau. Thấm nhuần tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh,
hàng ngày báo chí nước ta đã phản ánh sự đa dạng phong phú, muôn màu muôn vẻ các
hình thức sinh hoạt văn hóa của cộng đống các dân tộc Việt Nam; qua đó góp phần giữ gìn,
phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ lợi ích chính đáng và khơi dậy tiềm
năng sáng tạo của mỗi con người vì sự phồn thịnh của dân tộc. Nhưng quan trọng hơn là,
qua đó báo chí thể hiện mong muốn, nguyện vọng thiết tha ngàn đời của công đồng các dân
tộc Việt nam là được sống trong hòa bình, ấm no, hạnh phúc; trẻ em được cắp sách đến
trường, “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là mục tiêu nhân văn cao cả mà báo chí
và những người làm báo nước ta phấn đấu, chiến đấu không ngưng nghỉ, không mệt mỏi.
Hệ thống giá trị nhân văn, nhân loại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại
và phát triển của loài người. Nhờ hệ giá trị này, mỗi con người, mỗi cộng đồng có thể xích
lại gần nhau, gắn kết với nhau và giúp đỡ nhau. Trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước của
nhân dân ta, không ít những cá nhân, cộng đồng người ở khắp các châu lục chưa một lần
đến Việt Nam – thậm chí chưa biết gì đáng kể về người Việt, nhưng khi nghe tin ở đấy có

“máu chảy đầu rơi” vì bom đạn của đế quốc Mỹ, họ đã sẵn sàng đấu tranh, ủng hộ cả tinh
thần và vật chất cho cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc ta. Mỗi lần nghe tin động
đất ở nơi nào đó gây ra cảnh chết chóc cho đồng loại, lòng chúng ta se lại. Mỗi khi tiếp
nhận thông tin về thân phận một con người bất hạnh, gặp nỗi tai ương, những người có
lương tâm đều động lòng trắc ẩn Những thái độ chia sẻ ấy đều bắt nguồn từ nhận thức,
thấm đẫm giá trị nhân văn, nhân loại. Hệ thống giá trị này như sức mạnh vô hình, có khả
năng liên kết mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng lại với nhau, cũng là nhằm bảo vệ hệ giá trị ấy,
đấu tranh bảo vệ nó, trân trọng và nhân bản nó.
Mươi năm trở lại đây, cùng với những đóng góp to lớn của báo chí vào sự nghiệp đổi
mới và phát triển đất nước, công chúng xã hội cũng đã nhìn nhận ngày càng nghiêm túc
hơn trước những gì báo chí đã và đang thông tin cho công chúng, suy ngẫm lại những điều
căn cốt trong cuộc sống và sự phát triển của cộng đồng; từ đó công chúng lựa chọn sản
phẩm báo chí nào nên đọc và gửi gắm được niềm tin, cao hơn là có thể tin cậy được; tức là
có thể tin và cậy nhờ khi mà cuộc sống hàng ngày thường diễn ra với đầy rẫy và ngổn
ngang những điều tốt và xấu, hay và dở, tàn bạo và nhân văn, chân thành và dối trá, lừa lọc,
bản lĩnh và sự hèn nhát,…Do đó, tính nhân văn của báo chí và niềm tin của công chúng đối
với báo chí hiện nay là một trong những vấn đề cần được quan tâm nhiều hơn.
Ngay bây giờ đây, với từ khóa “xác chết không đầu” làm công cụ tìm kiếm trên
google, bạn sẽ tìm thấy 27.200.000 kết quả trên các sản phẩm báo chí truyền thông tiếng
Việt. Có tờ báo mạng điện tử không ngần ngại gì treo lủng lẳng tít của cụm bài “xác chết
không đầu”, hay vụ án “chặt đầu người yêu” dưới măng-séc vài tháng liền. Không những
thế, hàng trăm bài viết (mà phần lớn là trùng lắp nhau) trên các báo miêu tả cận cảnh tất cả
các chi tiết của vụ án mạng này làm cho công chúng rởn hết gai ốc, rùng rợn và cảm thấy
mình bị tra tấn. “Làm đậm’ vụ án mạng dã man này với những chi tiết rùng rợn như thế,
liệu báo chí có gia tăng được hàm lượng văn hóa trong sản phẩm của mình và có tôn trọng
tính nhân văn, có gieo vào công chúng xã hội niềm tin yêu cuộc sống? Cách thức tiếp cận
và kiểu cách thông tin sự kiện này liệu báo chí có khoét sâu thêm nỗi bất hạnh của người
thân của nạn nhân và tra tấn công chúng mình? Hoặc vụ cưỡng chế đất của chính quyền
huyện Tiên lãng (Thành phố Hải Phòng), trong khi hàng loạt cơ quan báo chí thông tin
nhiều chiều, giám sát và phản biện xã hội để đi đến cùng bản chất vụ việc, lật tẩy hàng loạt

sai phạm nghiêm trọng (có thể nói là sai toàn diện) của chính quyền, bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của người nông dân, thì không ít cơ quan báo chí, nhất là những cơ quan
báo chí cận kề trên địa bàn
1
hoặc gắn bó sát sườn với nông dân, lại hoặc là im lặng, hoặc là
ra sức bảo vệ những sai phạm và đứng về phía chính quyền địa phương. Rất đáng tiếc là
những trường hợp tương tự không còn là đơn lẻ trong báo chí nước ta hiện nay, nhất là báo
chí địa phương. Đó không chỉ là vô cảm, mà là biểu hiện quay lưng lại với công chúng và
nhân dân mình, báo chí trở thành công cụ trang trí và bảo vệ cho cái sai trái, nhất là sai trái
của những kẻ nắm trong tay quyền lực. Đó cũng là biểu hiện phi văn hóa truyền thông,
càng trái với tính nhân văn của báo chí cách mạng.
Thứ nữa, cứ mỗi lần có vụ tự tử của thiếu nữ thất tình do thiếu kỹ năng xử lý khủng
hoảng cá nhân, hoặc nhân việc sơ suất mà ca sĩ, diễn viên để “lộ hàng” trên sân khấu,… là
hàng chục sản phẩm báo chí - truyền thông lại dấy lên làn sóng tin tức, dồn dập khai thác,
thì liệu đó có phải là “chiêu’ thu hút công chúng có đẳng cấp của báo chí chuyên nghiệp?
Nếu quan tâm quá mức theo kiểu như như thế, thì ở đất nước cùng châu lục này mỗi ngày
có hàng chục vụ tự tử, ắt báo chí của họ sẽ không còn điều kiện thông tin về những vấn đề
quan trọng khác. Nhưng thực tế, báo chí nước bạn hầu như không thông tin như kiểu báo
chí nước ta, mà chủ yếu điểm tin và phân tích những vấn đề xã hội liên quan dưới chùm tin
hoặc box dữ liệu; vì họ coi đó là chuyện “cá nhân” không đáng làm phiền công chúng một
cách quá đáng. Và mỗi người làm báo chúng ta thử tự hỏi liệu đấy có phải là cách hay ho
để lôi kéo sự quan tâm của công chúng vào tầm ảnh hưởng của mình? Hoặc, khi mới triển
khai Nghị định Chính phủ về lập lại trật tự trong lĩnh vực văn hóa, đã có đài truyền hình
đưa hình ảnh một phụ nữ cùng con gái 13 tuổi của người này lên màn ảnh nhỏ cùng với chỉ
trích người phụ nữ tham gia hoạt động bán dâm. Sáng hôm sau đi học, các bạn của cháu bé
này xúm lại bảo rằng hôm qua thấy truyền hình nói mẹ cháu thế này thế kia…Thế là cháu
bé do xấu hổ về mẹ, bỏ học và bỏ nhà đi bụi. Như vậy, báo chí chỉ trích một người – mà
người này vì sự khốn cùng kiếm sống buộc phải làm vậy, nhưng lại đẩy một người khác
(cháu bé) vào con đường bất hạnh, liệu báo chí có nhân văn?


1
Xem chương trình thời sự của Đài PTTH Hải Phòng, Báo Hải phòng trước ngày 07/2/2012
Đầu tháng 5 năm 1011, ở Khánh Hòa có việc một cô giáo do không làm chủ được
hành vi, đã đánh một học sinh; sau đó cũng do bức xúc, bố của học sinh bị đánh đã tát và
chửi bới cô giáo này trước mặt hàng chục học sinh trong lớp học. Đó là những sự kiện có
thật xẩy ra. Nhưng ngay sau đó, rất kịp thời, gần chục tờ báo giấy và báo điện tử đã lấy làm
sự kiện “hot” và đưa tin có thể nói là nguyên xi như nhau về sự kiện này mà trong số đó
hầu hết các báo không hề có sự phân tích, bình luận và phê phán trên các bình diện khác
nhau trong sự phù hợp với góc độ quan tâm của công chúng mình để có thể hình thành và
định hướng dư luận nhằm bảo vệ chuẩn mực giá trị. Một trường hợp khác; vụ án mạng
trong xe Lexux. Vụ án này, người bị hại đã không còn cơ hội nói về những gì đã xẩy ra;
trong khi báo chí chủ yếu thông tin theo lời kể của kẻ sát nhân (cứ cho là như vậy) nhằm
biện hộ cho mình và chỉ trích người đã bị sát hại. Thử hỏi, nếu báo chí thông tin như vậy,
khi bình tĩnh nhìn lại toàn cảnh thông tin về sự kiện này, từ trong đáy lòng mình, liệu người
viết có gì day rứt?
Có thể dẫn ra rất nhiều sự kiện tương tự để nhìn rõ thêm những góc khuất của thông
tin báo chí khi trao đổi về tính nhân văn của báo chí và niềm tin của công chúng hôm nay.
Có lẽ không ai cấm báo chí thông tin về những sự kiện tương tự nêu trên và những sự kiện
thuộc loại “tiền, tình, tù, tội, đâm chém, hãm hiếp” theo kiểu “yêu thì thật lâm li bi đát, chết
thì phải thật chua chát đau thương”, vấn đề là thông tin và giải thích, phân tích như thế nào
để vừa phản ánh được mặt trái và những đốm đen của cuộc sống đang diễn ra, lại vừa bảo
đảm được chất lượng văn hóa của sản phẩm báo chí - truyền thông; hơn thế nữa – gây dựng
và củng cố được niềm tin của công chúng và thu phục được họ vào tầm ảnh hưởng của
mình bởi những giá trị nhân văn của đời sống thường ngày. Đó chính là thông điệp đích và
mục tiêu chiến lược của mỗi tòa soạn báo chí cách mạng và chuyên nghiệp. Thực tế cho
thấy, các “chiêu” thông tin theo kiểu “yêu thì thật lâm li, chết thì thật bi thảm” đã và đang
góp phần làm cho công chúng mất dần niềm tin vào báo chí; và do đó, vai trò, vị thế xã hội
của không ít tờ báo có thể bị giảm sút, công chúng dần rời xa.
Bất kỳ ai bước vào nghề báo cũng đều tâm niệm lời thề nghề nghiệp là tôn trọng sự
thật, bảo đảm tính khách quan chân thật của thông tin báo chí; tính khách quan chân thật

của báo chí đòi hỏi báo chí không nhất thiết phải và không thể thông tin tất cả những gì có
thật xẩy ra, mà cần chọn lựa những gì có ích cho công chúng và đất nước mình. Như
Balzac đã từng đưa ra ba bộ lọc khi chọn sự kiện thông tin: sự kiện có thật không? Thật,
nhưng có thú vị không? Thú vị nhưng thông tin có lợi ích gì không? Tức là hễ không thông
tin thì thôi, nhưng mỗi khi đã thông tin là phải đúng – cái đúng mang tính bản chất sự kiện
và vấn đề, đồng thời cái đúng ấy lại cần đòi hỏi bảo đảm lợi ích cho ai khi thông tin và hàm
lượng văn hóa của thông tin, đặc biệt là đề cao tính nhân đạo và nhân văn của thông tin báo
chí. Bởi xét cho cùng, tính nhân văn của báo chí như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, liên kết cộng
đồng hướng tới giá trị cao cả nhất – vì con người với những quyền lợi gần gũi thiết thực
hàng ngày của họ và những giá trị nhân bản, vì sự tiến bộ bền vững của cộng đồng xã hội.
Tính nhân văn chính là sợi dây vô hình kết nối con người trên khắp hành tinh lại với nhau.
Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, nhiều người trên khắp hành
tinh dù chưa một lần đến Việt Nam, nhưng khi thông qua báo chí, biết ở đất nước ấy đang
hứng chịu hàng triệu tấn bom đạn của quân xâm lược dội xuống giết chết hàng loạt người
vô tội thì hàng triệu người đứng dậy hô vang khẩu hiệu “đả đảo đế quốc Mỹ’ và quyên góp
tiền của ủng hộ nhân dân ta. Hoặc khi nghe tin động đất và sóng thần ở Nhật Bản đã cuốn
phăng mạng sống hàng chục ngàn người, lòng mỗi chúng ta se lại, quặn đau. Cái gì đã khơi
thức giá trị nhân loại trong mỗi con người và tạo nên sức mạnh cảm xúc ấy, nếu không
phải tính nhân văn của thông tin báo chí?
Mỗi buổi sáng thức dậy, mỗi khi chúng ta nhận được tin vui từ bạn bè, người thân và
đồng loại (đặc biệt là qua thông tin báo chí), chắc hẳn ngày làm việc sẽ hứng khởi, hiệu
quả hơn bởi lòng chúng ta phấn chấn; ngược lại, khi mỗi sáng đón nhận những thông tin
buồn, liệu có ai vui trên nỗi đau của đồng loại? Thông tin báo chí không nên là tiếng kèn
đám ma, cũng không nên lúc nào cũng tiếng kèn đám cưới; thông tin báo chí nên là tiếng
kèn xung trận, có thể thổi vào trí tuệ và cảm xúc của lòng người sức mạnh của niềm tin.
Niềm tin là sức mạnh mềm của cộng đồng không bao giờ cạn kiệt, ngược lại, nó là nguồn
sức mạnh vô biên, nếu báo chí biết khơi dậy, củng cố và nhân lên trong mỗi con người
thông quá giá trị của tin tức hàng ngày cung cấp cho công chúng.
Báo chí thông tin về tiêu cực, nhưng cố gắng luôn nhằm đạt được hiệu ứng tác động
xã hội tích cực; viết về cái ác, nhưng làm thế nào khơi dậy và đề cao cái thiện; viết về

khoảng tối hay đốm đen nhưng với mục đích là giúp công chúng tìm ra và đi tới khoảng
sáng, bình minh;…
Tính nhân văn của báo chí vừa là vấn đề có tính chất trừu tượng, nhưng lại rất cụ thể
và hiện hữu trong mỗi tác phẩm hay sản phẩm báo chí. Tựu trung lại, có thể nêu các cấp độ
khác nhau của tính nhân văn như sau.
Thứ nhất, mảng đề tài mà báo chí quan tâm, chú trọng hướng ưu tiên cho những sự
kiện và vấn đề thời sự - mối quan tâm trong sản xuất và đời sống hàng ngày của cộng đồng,
mà nếu giải quyết được những vấn đề ấy sẽ giúp ích cho sự phát triển bền vững, nâng cao
chất lượng cuộc sống; không nên chú tâm quá mức vào những góc tù nước đọng để góp
phần làm mờ, làm đen tấm gương phản chiếu cuộc sống hôm nay. Nói khác đi, hướng ưu
tiên đề tài của thông tin báo chí là nhìn ra chân trời, góc biển để nới rộng tầm mắt, nối dài
tầm tay của công chúng mình, không nên ngoái nhìn chăm chăm về góc tù nước đọng bằng
việc dáp ứng nhu cầu thị hiếu của nhóm nhỏ tò mò thông qua các sự kiện giật gân câu
khách – mà việc giật gân này dần dần hạ thấp vai trò vị thế xã hội của báo chí và làm suy
giảm niềm tin của công chúng. Công chúng chỉ cần nhìn lướt qua giao diện của báo mạng
điện tử, nhìn qua những tin tức bài vở của các trang báo hay nghe qua các đầu đề tác phẩm
trong chương trình phát thanh, truyền hình cũng có thể biết được hướng đề tài ưu tiên của
tòa soạn.
Thứ hai, khi tiếp cận sự kiện và vấn đề thông tin, nhà báo chọn lựa góc nhìn nào để
làm ánh lên những giá trị nhân bản. Sự kiện ba thanh niên ở Hà Tây (cũ) bị án tù oan ức
mười năm, được một phụ nữ dày công tìm cách lôi ra ánh sáng của công lý, được báo chí
phân tích dưới góc nhìn văn hóa và nhân văn, như vậy vừa soi rọi vào mảng đen của quyền
lực, vừa chỉ ra luồng sáng, khơi dậy niềm tin cho công chúng vào chân lý cuộc đời, mặc dù
vụ án này còn nhiều gian truân và uẩn khúc mà hiện không dễ gì tháo gỡ.
Thứ ba là, tính nhân văn của báo chí thể hiện ở cách thức lựa chọn chi tiết thông tin
về sự kiện và vấn đề trong tác phẩm. Nhà báo tập trung lựa chọn chi tiết để khoét sâu nỗi
đau bất hạnh của con người và tra tấn công chúng mình bởi những thông tin giật gân câu
khách, hay là ngay trong thông tin sự kiện về những vụ án mạng dã man, vẫn có thể tìm lựa
những gì không làm đau thêm nỗi đau của người trong cuộc, không làm cho công chúng và
cộng đồng bị lụy và cuộc sống đen tối thêm. Báo chí Hoa Kỳ thông tin về sự kiện ngày 11

tháng 9 năm 2001 ở nước Mỹ là một ví dụ. Ngay sau chương trình truyền hình CNN phát
đi phóng sự với nhiều chi tiết cận cảnh những nạn nhân bị dập nát chân tay mặt mũi, máu
chảy be bét được khiêng ra từ tòa nhà đổ nát, tổng thống Mỹ thông qua trợ lý báo chí của
mình gửi tới giới truyền thông Hóa Kỳ một thông điệp: không nên thông tin những gì làm
cho người Mỹ bi lụy hơn. Ngay lập tức, chương trình hôm sau phát lại, các chi tiết cận
cảnh trong phóng sự đã bị cắt bỏ. Bởi vì, những chi tiết cụ thể, sinh động và đang cựa quậy
trong tác phẩm có sức tác động ghê gớm váo lý trí và cảm xúc con người. Hàm lượng văn
hóa và giá trị nhân văn của tác phẩm báo chí có thể ẩn chứa sức mạnh dồi dào và năng
lượng văn hóa đằng sau những chi tiết do nhà báo cung cấp. Thông qua những chi tiết cụ
thể, sinh động và đang cựa quậy ấy sẽ ánh lên nhân cách nghề nghiệp của nhà báo.
Thứ tư, ngôn từ và giọng điệu trong tác phẩm cũng là công cụ quan trọng trực tiếp
biểu hiện tính nhân văn của thông tin báo chí; đồng thời đó cũng là chỉ báo thang đo đẳng
cấp văn hóa và tính chuyên nghiệp của nhà báo. Cũng là dọng điệu chỉ trích phê phán,
nhưng dùng từ chỉ trích phê phán thế nào cho “lọt tai, lọt mắt” để công chúng có thể chấp
nhận và bài viết thể hiện sự thiện chí và cái tâm sáng của người viết, tránh dùng từ ngữ chỉ
chiết, thóa mạ hoặc gây sốc. Ông cha ta có câu “lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói
cho vừa lòng nhau’. “Vừa lòng nhau” ở đây không phải chiều lòng nhau, bợ đỡ hay nịnh
nọt nhau, mà là tính chất và cấp độ của từ ngữ sử dụng cần tương thích với bản chất của sự
kiện giao tiếp, tính chất, mục đích và bối cảnh thông tin. Gần đây, trên một số sản phẩm
báo chí xuất hiện ngày càng dày những từ nóng, “hot’ như “kinh hoàng”, “kinh khủng”,
“khủng khiếp”, “rùng mình’, ….chủ yếu do người viết tạo ra, sáo rỗng, chứ bản chất sự
kiện không tới mức như thế; mà dù bản chất sự kiện có đúng là như thế, cũng có thể nên
dùng những từ “mềm” hơn, thật hơn, gần gũi hơn.
Giữa việc chọn lựa chi tiết và cách dùng từ ngữ dọng điệu liên quan mật thiết với
nhau. Ngôn ngữ báo chí, chủ yếu là ngôn ngữ sự kiện; người viết nên để cho sự kiện và chi
tiết giao tiếp trực tiếp với công chúng; để cho sự kiện và chi tiết nói lên bản chất sự kiện,
vấn đề thông tin và ý đồ, ý định của nhà báo; nhà báo không cần và không nên dùng từ ngữ
khoa trương, sáo rỗng, bốc lên làm cho thông tin sự kiện trong bài viết nhẹ tênh, nhạt nhẽo,
thậm chí sự kiện thông tin bị sai lệch, bóp méo. Hoặc mới đây, trong trận chung kết
Champions League giữa câu lạc bộ Barcelona và Manchester United, rạng sáng ngày

29/5/2011, spost quảng cáo trên kênh VTV3 của Đài THVN đã gây phản cảm và bức xúc
đối với khán giả truyền hình. “Việc quảng cáo một sản phẩm vào giờ vàng trong trận chung
kết bóng đá được khản giả cả nước quan tâm, nhưng không hiểu sao VTV lại có cách làm
gây bức xúc như vậy. Không những khán giả môn túc cầu bực tức mà đoạn quảng cáo như
những tiếng nổ chát chúa lặp đi lặp lại liên tục khiến những người đang ngủ cũng phát
hoảng.”
2
Rất đáng mừng là không như những lần trước chần chừ và biện hộ, lần này VTV
đã kịp thời xin lỗi công chúng truyền hình. Nhưng thử hỏi, lần nào cũng là ‘lần đầu tiên và
đáng tiếc’, liệu niềm tin của công chúng đối với đài truyền hình quốc gia có suy giảm,
trong khi nhiều đài truyền hình khác đang trở thành đối thủ cạnh tranh nặng ký?
Thứ năm, thời điểm đăng tải bài viết – xã hội hóa sự kiện và vấn đề thông tin đúng lúc
và đúng liều lượng, có chừng mức để có thể tạo ra hiệu ứng xã hội tốt nhất, phù hợp với
tâm lý và tâm trạng xã hội. Mấy năm trước, spost quảng cáo Kotex trên VTV1 phát sóng
ngay trước chương trình thời sự 19 giờ, đúng vào thời điểm công chúng truyền hình đang
ăn cơm tối đã gây phản cảm trong tâm lý tiếp nhận.
Vấn đề cần chú ý là trong khi nhà báo viết về sự kiện và con người cụ thể với tư cách
là đối tượng phản ánh, với thái độ và quan điểm tiếp cận của mình – dù chỉ trích, phê phán
hay ngợi ca, nhưng đồng thời thông qua tác phẩm báo chí được tiếp nhận, công chúng và
dư luận xã hội nhìn vào nhà báo và phán xét anh ta về mọi phương diện. Nhà báo có thể
phê phán chỉ trích một vấn đề, một con người, nhưng công chúng và dư luận xã hội cũng
hoàn toàn có quyền – một cách tự nhiên, sẽ nhìn vào nhà báo và tòa soạn báo chí để thẩm

2
Nguồn: may-loc-nuoc-hang-dau-vn html
định, phán xét nhân cách nhà báo và lập trường xã hội của tòa soạn. Thiết nghĩ, nêu ra vấn
đề này để chúng ta cùng suy nghĩ, hướng tới hạn chế thông tin theo kiểu “dậu đổ bìm leo”,
“đục nước béo cò”. Bởi vì, trong quá trình xây dựng, nâng cao tính chuyên nghiệp và cách
mạng của báo chí Việt Nam, một trong những vấn đề quan trọng là xây dựng và củng cố
lập trường chính trị – xã hội, bản lĩnh nghề nghiệp và tính nhân văn của báo chí, để có thể

gia tăng niềm tin của công chúng xã hội vào báo chí. Mà báo chí của nước ta là cơ quan
ngôn luận của tổ chức Đảng, nhà nước và là diễn đàn của nhân dân vì sự phồn thịnh và
phát triển bền vững của đất nước.








Sơ đồ mô phỏng mối quan hệ phán xét giá trị của công chúng
và dư luận xã hội đối với nhà báo

Có thể nhận thấy rằng, nhờ năng lực nghề nghiệp của nhà báo và sự hỗ trợ của kỹ
thuật và công nghệ truyền thông số, thông tin sự kiện, phản ánh tình hình thời sự của báo
chí nước ta hiện nay là rất nhanh nhạy. Nhưng trong thực tế hiện nay, có những biểu hiện
làm báo vội vàng đưa tin về tất cả những gì nhà báo biết, mắt thấy tai nghe mà đôi khi chưa
cân nhắc cẩn thận đến hiệu quả tác động của tin, bài báo. Trong nghệ thuật làm báo không
phải chỉ có nghe, nhìn mà còn quan trọng hơn phải suy nghĩ sâu lắng, cân nhắc, xem xét vấn
đề một cách kỹ lưỡng về ý nghĩa tác động của sự kiện thông tin mà nhà báo cung cấp cho
công chúng. Nhà báo cần có óc phân tích tốt, cần phải biết phân tích bản chất sự kiên và vấn
Công chúng xã
hội

Nhà báo
Sự kiện, vấn đề,
nhân vật trong
tác ph
ẩm


đề cũng như năng lực tác động của nó trong các mối quan hệ đang đặt ra. Bởi nếu thông tin
nhanh mà thiếu chọn lọc, cân nhắc, và nhất là thiếu phân tích thì khả năng đem lại niềm tin
cho công chúng sẽ bị suy giảm. Mà mỗi khi công chúng mất niềm tin vào thông tin báo chí,
thì sức mạnh xã hội của báo chí sẽ suy giảm, thậm chí không còn. Báo chí đánh mất niềm tin
nơi công chúng là mất tất cả. Trong cuộc cạnh tranh giữa các loại hình báo chí hiện nay, báo
in sẽ mất dần lợi thế về tính nhanh nhạy của thông tin, “nhường” ưu thế này cho báo mạng
điện tử và báo hình, báo nói. Nhưng thế mạnh cố hữu của báo in sẽ không bao giờ mất đi vì
nó gắn với văn hóa đọc, gắn với thuộc tính “văn bia’ và đã xe duyên với công chúng qua
hàng mấy thế kỷ, khi nó biết chọn lọc và phân tích thông tin nhiều chiều, theo chiều sâu trí
tuệ và cảm xúc nhân văn sâu lắng trong mỗi con người trong sự phù hợp với công chúng –
nhóm đối tượng về sự kiện và vấn đề thông tin.
Hiện nay báo in Mỹ đang giai đoạn khủng hoảng khá trầm trọng; và nhân cuộc khủng
hoảng này, người ta nói báo in sẽ chết. Nhưng cũng vài năm nay, báo in Mỹ đã và đang tìm
được phương thức tồn tại và con đướng phát triển của mình thông qua đọc báo trả tiền trên
mạng internet và sự kết hợp linh hoạt giữa nó với các dạng thức truyền thông trên mạng
thông tin toàn cầu. Trong khi đó, báo in châu Á (như ở Nhật Bản và Ấn Độ) lại vẫn như chưa
có chuyện gì lớn xẩy ra. Nhưng thực tế cũng cho thấy một số ấn phẩm báo in Việt Nam suy
giảm lượng phát hành trông thấy. Nguyên nhân suy giảm, một phần do báo mạng điện tử
cùng với truyền thông – mạng xã hội phát triển trong môi trường công nghệ số, nhưng có lẽ
phần lớn và chủ yếu do chính tư duy chính trị và cách làm báo in của chúng ta. Có thể do
“sức yếu” lại ra gió trong cuộc chạy đua thông tin các sự kiện “hot’ với các loại hình báo chí
điện tử, trong khi vấn đề chọn lọc thông tin, phân tích sự kiện và vấn đề theo chiều sâu để tạo
ra sự khác biệt lại ít được chú ý; hoặc một số tòa soạn “lực bất tòng tâm’ bởi đội ngũ và
chậm đổi mới phong cách làm nghề; Mặt khác, lý do nằm ‘ngoài nghề’ cũng khó vượt qua.
Ví như vấn đề công chúng quan tâm như chống tiêu cực – tham nhũng lại “khó nói”, đôi khi
‘buộc” phải săn tìm những loại sự kiện khác, hoặc thậm chí giật gân câu khách, hoặc ‘đào
bới” những sự kiện mà đáng lẽ cần giúp công chúng lướt qua, quên càng nhanh càng tốt. Tối
hôm trước đọc báo mạng điện tử, sáng hôm sau mua tờ báo giấy lại thấy nguyên xi như
những gì đã đọc được hôm qua, không có sự khác biệt đáng kể, không thấy chiều sâu của sự

phân tích thú vị và góc nhìn mới lạ khác về những gì đã diễn ra.
Như vậy, trong nhiều nguyên nhân đánh mất công chúng và quan trọng nhất là làm suy
giảm niêm tin vào thông tin báo chí – truyền thông, trong đó một trong những điều quan
trọng là do hàm lượng văn hóa và tính nhân văn của sản phẩm báo chí chi phối. Do đó,
“phẩm chất quan trọng nhất của nhà báo nằm ở khả năng phân tích vấn đề, khả năng hoài
nghi, biết hoài nghi và biết cách thoát ra khỏi hoài nghi. Chúng tôi luôn giáo dục sinh viên
phải biết hoài nghi và sau đó biết cách thoát khỏi hoài nghi. Chính sự hoài nghi giúp người ta
nhận ra con đường đúng đắn của nhận thức. Nhà báo đã tụt hậu so với kiến thức chung của
nhân loại trên nhiều lĩnh vực và đó là điều rất đáng lo ngại”
3
.
Một khảo sát về mức độ tin cậy của công chúng và dư luận xã hội khu vực Hà Nội và
Đồng bằng sông Hồng
4
đối với thông tin báo chí (cụ thể là đối với một số tờ báo lớn) cho
thấy kết quả khả quan hơn (gần 70%) so với mức độ tin cậy bởi thông tin do cán bộ cơ sở
cung cấp (6,7%). Tuy nhiên, với tình hình báo chí hiện nay cũng không nên chủ quan, và
cảnh báo về suy giảm niềm tin của công chúng đối với thông tin báo chí không phải là không
có cơ sở thực tế.
Từ những vấn đề trên đây, đã và đang đặt ra cho hoạt động lãnh đạo quản lí, trong đó
có đào tạo báo chí (kể cả đào tạo cơ bản ban đầu và đào tạo lại) những vấn đề vừa cơ bản,
vừa bức thiết cần quan tâm. Muốn gia tăng hàm lượng văn hóa và tính nhân văn của thông
tin báo chí, cần chú trọng tạo lập những yếu tố nền tảng để có thể hình thành nhân cách văn
hóa cho sinh viên báo chí ngay trên ghế nhà trường. Đây là vấn đề không dễ dàng, bởi phần
đông sinh viên hiện nay nhanh nhạy và dễ nắm bắt kỹ thuật và công nghệ truyền thông số
nhưng lại ngại đọc sách; ngại đọc sách thì khó có thể có nhân cách văn hóa vững vàng – nhất
là khó hình thành hệ kiến thức nền cũng như hệ thống luận điểm…để phát triển bền lâu trong
nghề, nhất là đối với nghề báo in đẳng cấp và lịch lãm. Mặt khác, muốn giúp sinh viên biết
hoài nghi và biết cách thoát khỏi hoài nghi để có năng lực phân tích sự kiện, vấn đề thời sự
trên các bình diện pháp lý, chính trị, văn hóa, xã hội và đạo đức…, thì cùng với việc bản thân

sinh viên biết cách và có ý thức tự “xây” kiến thức nền tảng của mình, người thầy cần chú
trọng hơn nữa trang bị phương pháp tiếp cận và phân tích sự kiện và vấn đề thời sự cho
người học. Với tốc độ phát triển mạng internet và công nghệ số như hiện nay, người thầy khó

3
Giáo sư Yaxen N. Zaxurơxki, trong bài nói chuyện với cán bộ và sinh viên báo chí Học viện báo chí và Tuyên truyền
tháng 1/2009.,
4
Dẫn theo khảo sát của Đỗ Chí Nghĩa năm 2007
có thể đáp ứng nhu cầu thông tin cho sinh viên, thay vào đó là phương pháp truy cập, tìm tòi,
cách thức tiếp cận, phương pháp và kỹ năng điều tra, phân tích vấn đề một cách thuyết phục.
Rèn nghề, xét cho cùng, chủ yếu là rèn cách tư duy, rèn kỹ năng và cách thức tiếp cận, khai
thác và phân tích thông tin, rèn cách phân tích lập luận thuyết phục và tạo sự khác biệt thú vị
có được trong sản phẩm báo chí; thông qua đó, lôi kéo và thuyết phục công chúng xã hội vào
tầm ảnh hưởng của mình. Bởi nghề báo, thực chất là nghề thuyết phục công chúng và dư
luận xã hội; chỉ có thuyết phục, thuyết phục bằng sự kiện và phân tích sự kiện mới có thể thu
hút sự quan tâm và gây dựng niềm tin cho công chúng xã hội. Báo chí hiện đại ngày càng đòi
hỏi gia tăng hàm lượng văn hóa và tính nhân văn trong nội dung và phương thức thông tin
giao tiếp; đồng thời, đòi hỏi đặc biệt chú trọng bảo đảm và tuân thủ tính nhân văn để thu
phục lòng người.
Mặt khác, công tác lãnh đạo, quản lí báo chí từ vi mô (cấp tòa soạn, cơ quan báo chí
truyền thông) đến vĩ mô (quản lí nhà nước về báo chí truyền thông). Có thể nói trước năm
2011, trong các cuộc giao ban báo chí hàng tuần, không mấy khi nhắc nhở, cảnh báo các sai
phạm về văn hóa, về tính nhân văn; trong khi đó chủ yếu nhấn mạnh, kiểm soát những sai sót
về chính trị, tư tưởng. Cần chú ý rằng lợi ích văn hóa, giá trị nhân văn của báo chí truyền
thông có ý nghĩa lâu bền với tiến trình phát triển của dân tộc, của cộng đồng.
Bảo đảm tính nhân văn và gia tăng hàm lượng văn hóa trong sản phẩm báo chí –
truyền thông, yêu cầu nhà báo cần tích lũy điều kiện cần và đủ về kiến thức, quan điểm,
thái độ hành nghề, bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp. Mặt khác, thể hiện tính nhân văn
không phải là vấn đề trừu tượng hay cao siêu gì, mà là từ cái tâm của nhà báo và từ những

thái độ và kỹ năng, thao tác hàng ngày trong cuộc sống và trong tác nghiệp, như thái độ và
hành vi đối với những con người bình dị xung quanh, những con người bất hạnh có hoàn
cảnh éo le, hay thậm chí, đối với những con người đang vào vòng lao lý mà nhà báo vừa
phê phán vừa có thể, chia sẻ, không a dua “dậu đổ bìm leo”, không “té nước theo mưa”,
càng không “đục nước béo cò”, hay “đâm bị thóc chọc bị gạo.” Trong quá trình đó, tổng
biên tập (hay giám đốc) cơ quan báo chí có vai trò đặc biệt quan trọng. Có thể nói rằng, sản
phẩm báo chí – truyền thông thể hiện rõ nét nhất chân dung diện mạo, tính chuyên nghiệp
và văn hóa - nhân cách người đứng đầu cơ quan báo chí cũng như người đứng đầu cơ quan
chủ quản cơ quan báo chí /.


×