Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Đạo hiếu trong giáo dục đạo đức ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







LÝ THỊ CẨM VÂN






ĐẠO HIẾU TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY







LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Triết học








Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






LÝ THỊ CẨM VÂN





ĐẠO HIẾU TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80





LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Phúc






Hà Nội – 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự
hƣớng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều trung thực và có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2014
Tác giả luận văn


Lý Thị Cẩm Vân















MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 8
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO HIẾU 8
1.1. Đạo hiếu và sự cần thiết của giáo dục đạo hiếu ở nước ta hiện nay 8
1.1.1. Đạo hiếu 8
1.1.2. Sự cần thiết của giáo dục đạo hiếu ở nƣớc ta hiện nay 15
1.2. Nội dung của giáo dục đạo hiếu hiện nay 20
1.2.1. Giáo dục sự trân trọng, tôn quý và chăm sóc của con cái đối với
đấng sinh thành. 20
1.2.2. Giáo dục đạo hiếu theo tƣ tƣởng của chủ tịch Hồ Chí Minh 31
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ CỦA GIÁO DỤC ĐẠO
HIẾU Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 36
2.1. Thực trạng giáo dục đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay 36
2.1.1. Những thành tựu đạt đƣợc trong giáo dục đạo hiếu hiện nay. 36
2.1.2. Những hạn chế trong giáo dục đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay 46
2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
của giáo dục đạo hiếu ở nước ta hiện nay 69
2.2.1. Nâng cao nhận thức toàn xã hội về sự cần thiết đẩy mạnh hơn nữa
công tác giáo dục đạo đức và đạo đức gia đình 69
2.2.2. Đổi mới nội dung và phƣơng pháp giáo dục đạo hiếu cho phù hợp
với điều kiện hiện nay 71

2.2.3. Kết hợp xã hội - nhà trƣờng – gia đình trong giáo dục đạo hiếu 76
KẾT LUẬN 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hiếu thảo với cha mẹ là một nét đẹp văn hoá đã trở thành giá trị đạo
đức truyền thống, tiêu biểu cho cốt cách con người Việt Nam, là bước đi đầu
tiên trên con đường hoàn thiện nhân cách và đạo đức. “Hiếu” được hình thành
từ xa xưa, gắn liền với phong tục thờ cúng tổ tiên, về sau được Nho giáo phát
triển và thể chế hoá thành chuẩn mực đạo đức. Về cơ bản, nội dung phạm
trù “hiếu” mang một ý nghĩa tích cực, đó là bổn phận làm con phải có hiếu
với cha mẹ. Trong việc thực hành đạo hiếu, người Việt Nam chịu nhiều ảnh
hưởng của Nho giáo, song đạo hiếu ở Việt Nam vẫn có nét đặc sắc riêng,
không hà khắc và cứng nhắc như trong quan niệm của Nho giáo. Đặc biệt,
truyền thống “hiếu” của dân tộc được kế thừa và nâng cao trong tư tưởng và
nhân cách Hồ Chí Minh. Ở Người, phạm trù “hiếu” được chuyển đổi mang
tính cách mạng. Trong điều kiện hiện nay chúng ta cần tiếp tục khẳng định vai
trò của chữ “hiếu” trong gia đình cũng như ngoài xã hội; kế thừa, phát
triển “hiếu” theo tinh thần Hồ Chí Minh, gắn với yêu cầu của xây dựng gia
đình văn hoá mới. Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội Việt Nam
ta là hiếu thảo với cha mẹ không bao giờ thay đổi. Sự hiếu thảo của con là
điều mong đợi của cha mẹ, là nỗi niềm riêng tư có khi thầm kín của những
người từng mang nặng đẻ đau và sinh thành dưỡng dục. Tuy vậy, trong xã hội
hiện nay có rất nhiều trường hợp con cái bất hiếu với cha mẹ thậm chí đánh
đập, chửi bới, đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, coi rẻ khinh thường cha mẹ mình đi
ngược lại đạo làm con mà họ không hề biết chính những điều đó đã làm cho
cha mẹ họ vô cùng đau lòng. Tình trạng người già bị ngược đãi xảy ra ngày
càng nhiều. Đây là nỗi buồn trong xã hội hiện đại. Nhiều đứa con bất hiếu đã

thẳng tay đuổi bố mẹ già ra khỏi nhà, thậm chí đánh đập dã man người đã
mang nặng đẻ đau vì coi họ là gánh nặng. Người già không nơi nương tựa
phải vào trung tâm dưỡng lão, lang thang tạo ra một áp lực lớn cho xã hội.

2
Bởi vây, chúng ta cần tiếp tục khẳng định vai trò của chữ hiếu trong gia
đình cũng như ngoài xã hội, kế thừa và phát triển đạo hiếu theo tinh thần Hồ
Chí Minh. Để trở thành người hiếu thảo, người ta phải được giáo dục và biết
cách thể hiện điều mình muốn. Hiếu thảo là bổn phận, là cách sống thông
thường của những người bình thường. Tấm gương của chính thái độ đối xử
của cha mẹ với ông bà chính là nền tảng để nuôi dưỡng và sáng tạo những
ứng xử hiếu thảo cho con cái. Nói khác đi, sống có hiếu với cha mẹ hiện nay,
đó là sự ươm mầm cho sự kính trọng của con đối với chúng ta sau này.
Chính vì vậy tôi chọn “Đạo hiếu trong giáo dục đạo đức ở Việt Nam
hiện nay ” làm đề tài nghiên cứu nhằm góp một phần thức tỉnh nhận thức của
giới trẻ hiện nay về đạo hiếu. Qua đó nêu các tấm gương về lòng hiếu thảo
đồng thời phê phán và lên án những người có biểu hiện đi ngược lại với đạo
hiếu truyền thống.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Như chúng ta đã biết đạo hiếu là một giá trị đạo đức truyền thống quý
báu của dân tộc. Đạo hiếu là một đề tài vô cùng quen thuộc với mỗi con người
Việt Nam ta và đã có rất nhiều người dày công nghiên cứu và bình luận về
chữ hiếu. Nhắc đến đạo hiếu là ta nghĩ ngay đến sự chăm sóc, phụng dưỡng,
lòng kính yêu… của thế hệ sau đối với thế hệ trước. Có rất nhiều những
nghiên cứu liên quan đến đề tài này, những công trình nghiên cứu này sẽ được
liệt kê cụ thể trong phần danh mục tài liệu tham khảo. Ở đây tôi chỉ xin điểm
qua một số tài liệu đáng lưu ý:
Nguyễn Văn Lý (2000), Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức
truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam
hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội. Luận án đã nêu lên một cách khái quát về sự kế thừa và đổi
mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay. Ở nước ta, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị

3
trường có sự định hướng và quản lý của Nhà nước, bên cạnh những mặt tích
cực, đã xuất hiện những cách sống và lối sống xa lạ, trái với các chuẩn mực
của xã hội và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Một bộ phận trong các tầng
lớp, các thành phần xã hội khi mưu cầu lợi ích cá nhân đã chà đạp lên nhưng
khuôn mẫu, những giá trị đạo đức đích thực. Một bộ phận trong lớp trẻ hiện
nay có tâm lý sống thực dụng, buông thả, quay lưng lại với văn hóa, đạo đức
truyền thống Trong bối cảnh đó, việc bảo vệ các giá trị đạo đức truyền
thống là vấn đề cần phải nhìn nhận nghiêm túc và có sự quan tâm đặc biệt
cùng với quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Chúng
ta càng cần phải gìn giữ những giá trị đạo đức truyền thống, đồng thời phải
coi trọng giáo dục đạo đức, phải tăng cường giáo dục đạo đức trong gia đình,
trong nhà trường và ngoài xã hội.
Công trình “ Vai trò của gia đình trong giáo dục thế hệ trẻ ở nƣớc ta
hiện nay” của Nguyễn Sĩ Liêm ( luận án tiến sĩ, 2001) nói lên vai trò hết sức
quan trọng của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay.
Theo tác giả gia đình vừa là một đơn vị kinh tế, vừa là cái nôi đầu tiên nuôi
dưỡng, giáo dục con người, duy trì và phát triển ở họ những quan hệ tình cảm
đặc biệt và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cùng với các thiết
chế của xã hội, gia đình có vai trò quan trọng trong việc xã hội hóa con người.
Việc giáo dục đạo hiếu trong xã hội nay là hết sức quan trọng, được biểu hiện
cụ thể qua sự chăm sóc, kính trọng của các thế hệ trong cùng một gia đình
dòng họ. Sự hình thành những chuẩn mực và định hướng giá trị tốt đẹp của
gia đình sẽ không chỉ củng cố các mối quan hệ gia đình mà còn kiến tạo một
môi trường xã hội thuận lợi cho mỗi cá nhân được phát triển hài hòa và toàn
diện. Chính cha mẹ là những tấm gương về lòng hiếu thảo cho con cháu noi

theo, cha mẹ đối xử với ông bà như thế nào sẽ nhận được từ con cái với chính
thái độ đấy. Về phương diện này, gia đình là cơ sở đầu tiên cho việc tái sản

4
xuất ra con người và xã hội. Gia đình là nơi và là nguồn cung cấp lực lượng
lao động cho xã hội để tham gia quá trình vận hành của xã hội từ sản xuất,
phân phối, đến trao đổi và tiêu dùng. Rõ ràng gia đình là môi trường đầu tiên
quan trọng nhất để con người hoàn thiện mình trước khi tham gia vào xã hội.
Tác giả Nguyễn Thị Khoa, với công trình nghiên cứu “ Đạo đức gia đình
trong nền kinh tế thị trƣờng” – Tạp chí Triết học số 4/2002; trong đó tác giả
đã đưa ra khái niệm “ Đạo đức gia đình” và bước đầu tìm hiểu về sự biến đổi
của đạo đức gia đình, đặc biệt là sự biến đổi của đạo hiếu trong điều kiện kinh
tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Nêu lên một số biểu hiện lệch chuẩn đạo
đức gia đình và đặc biệt đã nêu lên những suy nghĩ về việc xây dựng đạo hiếu
gia đình tiến bộ, lành mạnh phù hợp với điều kiện phát triển của xã hội trong
điều kiện mới. Tác giả Phạm Côn Sơn, với các công trình nghiên cứu “ Đạo
nghĩa trong gia đình”, nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành 2003 và “ Nề nếp gia
phong”, Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành 2006; trong các công trình nghiên
cứu của mình, phần nào tác giả đã chỉ ra những yếu tố cơ bản của đạo đức gia
đình như: gia phong, gia lễ, gia huấn, gia giáo, quan điểm đạo hiếu xưa của
dân tộc Việt Nam…. Qua đó chỉ ra những chuẩn mực đạo đức cơ bản trong
các mối quan hệ gia đình, chỉ ra vai trò vô cùng quan trọng của đạo hiếu đối
với sự trưởng thành của mỗi con người cũng như sự hưng thịnh của một đất
nước. Tác giả Vũ Ngọc Khánh, với công trình nghiên cứu “ Văn hóa gia đình
Việt Nam”, Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành năm 2007. Trong công trình
nghiên cứu của mình tác giả đã khẳng định, vấn đề gia đình là một vấn đề lớn,
phạm vi lại rất rộng. Chuyện đạo đức luân lý, chuyện hôn nhân, chuyện giáo
dục trẻ em… đều nằm trong phạm vi gia đình. Và đặc biệt tác giả đã khắc họa
rõ cho chúng ta thấy được gia đình ở Việt Nam tồn tại như nào, những nền
nếp, tập tục của gia đình Việt Nam, gia phả, gia lễ, gia pháp… cũng như ảnh

hưởng của Nho giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo tới đạo đức, đặc biệt là đạo

5
hiếu trong gia đình Việt Nam. Công trình : “Xây dựng đạo đức gia đình ở
nƣớc ta hiện nay” Nguyễn Thị Thọ Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
Tác giả đã luận giải về tác động hai mặt của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa với đạo đức gia đình truyền thống ở Việt Nam hiện nay,
trong đó việc giáo dục đạo hiếu trong gia đình là vấn đề quan trọng được nhắc
đến. Theo tác giả, việc giáo dục đạo đức trong gia đình là hết sức cơ bản và
quan trọng. Bởi vì, gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng
trong việc giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách cho mỗi con
người. Trong có vấn đề về giáo dục đạo hiếu, lòng hiếu thảo của con cháu đối
với ông bà cha mẹ luôn được chú trọng gìn giữ và đổi mới sao cho phù hợp
với xã hội hiện nay. Cái hồn cốt của văn hóa đạo đức trong gia đình truyền
thống là đạo Hiếu. Đó là giá trị văn hóa đạo đức rất căn bản của văn hóa gia
đình mà chúng ta cần kế thừa và phát huy trong xã hội hiện đại. Hiếu là cội
nguồn của đạo lý, là cơ sở vững chắc của gia đình. Trong gia đình Việt Nam
truyền thống, chữ Hiếu luôn được tôn trọng, đề cao và mang giá trị nhân bản
sâu sắc. Hiếu là ý thức biết ơn của con cái đối với công lao sinh thành dưỡng
dục của tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Vấn đề giáo dục đạo hiếu trong xã hội, nhà
trường và gia đình cần được kết hợp chặt chẽ hơn.
Nhận xét chung, tất cả những công trình nghiên cứu mà tôi có dịp tham
khảo đều rất đáng trân trọng. Dù đứng ở góc độ này hay góc độ khác, với
những mục tiêu và tâm huyết khác nhau thì các tác giả cũng đã làm nổi bật
được vấn đề chung, đó là vai trò của đạo hiếu cũng như tầm quan trọng của
việc xây dựng đời sống đạo đức cho con người Việt Nam hiện nay, với sự đầu
tư công sức và thái độ khoa học rất đáng trân trọng. Đây sẽ là những tài liệu
tham khảo vô cùng quý giá cho bản thân tôi. Tuy nhiên , ở từng góc độ tiếp
cận và quan điểm khác nhau, nên các tác giả đều có hướng đi của mình để đạt
mục đích riêng, mỗi người lại có những cách biểu hiện lòng hiếu thảo theo


6
cách riêng của mình tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi gia đình; chính vì vậy
mà cho tới nay vấn đề về giáo dục đạo hiếu chưa được nghiên cứu một cách
hệ thống và chuyên sâu. Trong thời đại nào đi chăng nữa thì luôn luôn tồn tại
mối quan hệ cha - con và chữ hiếu luôn luôn là một đề tài có rất nhiều vấn đề
cho chúng ta tìm tòi đi sâu vào tìm hiểu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn trình bày một số vấn đề lý luận về đạo hiếu từ đó phân tích
thực trạng giáo dục đạo hiếu ở nước ta hiện nay và đề xuất một số giải pháp
cơ bản nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục đạo hiếu
ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về đạo hiếu để chỉ ra vai trò vị trí của
Đạo hiếu trong giáo dục đạo đức ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng giáo dục đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay và nguyên
nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả của giáo dục đạo hiếu ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu: đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- không gian: gia đình – nhà trường – xã hội Việt Nam.
- thời gian: từ khi đổi mới đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đạo đức, giáo dục đạo


7
đức cho các thế hệ. Ngoài ra tác giả luận văn có tham khảo, kế thừa các thành
tựu của các công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú ý sử
dụng phương pháp logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp , so sánh, khái quát
hóa…trên cơ sở quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thực trạng của giáo dục đạo hiếu ở Việt Nam
hiện nay từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng
và hiệu quả của giáo dục đạo hiếu trong điều kiện hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
việc nghiên cứu và giảng dạy môn đạo đức học về vấn đề đạo hiếu. Luận văn
cũng có ý nghĩa khuyến nghị cho công tác giáo dục đạo hiếu ở Việt Nam hiện
nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn
được bố cục thành 2 chương. 4 tiết:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đạo hiếu.
Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả của giáo dục đạo hiếu ở nước ta hiện nay.


8
NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO HIẾU

1.1. Đạo hiếu và sự cần thiết của giáo dục đạo hiếu ở nước ta hiện nay

1.1.1. Đạo hiếu
Đạo, theo chữ Hán nghĩa đen là con đường hay đường đi, nghĩa bóng
mang khái niệm trừu tượng về con đường, phương hướng, đường lối dẫn dắt
con người đi đến mục tiêu hay lý tưởng nào đó. Có rất nhiều lý tưởng,
phương hướng và nguyên tắc khác nhau về Đạo, thí dụ Thiên đạo, Nhơn đạo,
Trí đạo, Tâm đạo. Tuy vậy, tất cả những con đường Đạo khác nhau đó có
cùng chung một nền tảng cơ bản là dựa trên cái Thiện, cái Đẹp, Tự Nhiên
trong sáng lành mạnh và Chân Chính để mưu cầu Hạnh Phúc và An Bình cho
con người. Khi nói đến Đạo, người ta thường cho rằng đó là vấn đề thuộc Tôn
giáo nhằm đến đạo Phật, đạo Thiên Chúa hay những đạo giáo khác đang lưu
truyền hiện nay. Thật sự, đạo giáo hay tôn giáo chỉ là 1 trong nhiều Đạo khác
nhau, nhưng chủ yếu về tâm linh dựa vào lòng tin hay đức tin của người theo
đạo giáo để khuyên con người làm lành tránh dữ. Những đường Đạo khác
cũng thế, đều dẫn dạy con người cách sống, cách hành xử, cách yêu thương
cho và nhận trên công bình bác ái. Kinh Dịch nói: "Nhất âm nhất dương chi vị
đạo", hai khí âm và dương tác động lẫn nhau là động lực thúc đẩy sự hình
thành và chuyển hóa của sự vật, tức Đạo là do 1 Âm 1 Dương tác động ảnh
hưởng lẫn nhau để sinh ra, chuyển biến hoá và phát triển vạn vật trong vũ trụ.
Đó là sự biến chuyển không ngừng trong mối liên quan giữa Trời, Đất và Con
Người trong mô hình trật tự của hai chiều âm và dương. Người nào thấu hiểu
được Dịch, hiểu được sự vật và còn thông thấu được cả đạo của sự vật, tất
nhiên sẽ hành xử theo đạo là Đạo Quân Tử. Không gì mà không có Đạo, Đạo
hiện hữu khắp nơi. Mọi vạn vật đều sinh tồn trong quy luật biến hóa của Đạo
và nhờ Đạo, vì Đạo liên tục biến chuyển để đổi mới cho vạn vật giúp thế gian

9
ngày càng tươi đẹp và phát triển thêm. Điều kiện căn bản để bước vào con
đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ.
Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”. Một người không có hiếu thì
không xứng đáng làm người, còn người phật tử mà bất hiếu thì không phải là

phật tử chân chính. Chúng ta hàng ngày đến chùa lễ Phật, tụng kinh, làm công
quả… nhưng đối với cha mẹ lại bất kính, thờ ơ thì những việc làm đó có đúng
với ý nghĩa “tốt đời đẹp đạo” không?
Đạo hiếu là chân lý thuộc về tục đế. Đông phương hay Tây phương đều
phải giữ gìn đạo hiếu. Đó là bản sắc văn hóa đạo đức của nhân loại. Bất cứ
đất nước nào, xã hội nào cũng khuyến khích người dân giữ gìn đạo hiếu. Tất
cả mọi người đang hiện hữu trên cuộc đời này đều không được làm trái với
luân lý đạo đức đó. Chữ "Hiếu" là chữ viết tắt của hai chữ "Lão" ở trên (lượt
bớt phần dưới) và chữ "Tử" ở dưới. "Hiếu" tức là mối quan hệ cha trên, con
dưới; suy rộng ra là đạo nghĩa của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên.
Đạo hiếu xuyên suốt trong mọi phong tục của nhân dân ta, không thể không
nói đến chữ hiếu khi viết về phong tục cổ truyền của ta. Lễ tế, lễ tang, lễ cưới,
kể cả sinh đẻ, xây nhà dựng cửa, hội hè đình đám, việc nước, việc làng, thuần
phong mỹ tục đã đành mà trong số những phong tục đã lỗi thời, ngày nay bị
xếp vào loại đồi phong bại tục, ta cũng chắt lọc được một phần tinh hoa của
đạo hiếu. "Hiếu" là thiên kinh địa nghĩa, là gốc của mọi đức tính. Ca dao tục
ngữ đã nói nhiều, ngay trong bài học vỡ lòng, trong "Luân lý giáo khoa thư"
các em đã hiểu: "Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong
nguồn chảy ra" Những chân lý đó, ai không chấp nhận, song quan niệm về
chữ "Hiếu" ngày nay cũng có phần khác thời xưa. Trong Hiếu Kinh, Khổng
Tử rất đề cao chữ hiếu vì đó là căn bản ứng xử của con người, từ đó mà việc
thảo kính của con cái đối với cha mẹ đã được xem như là một đạo hiếu (hiếu
đạo). Một cách tổng quát, theo Khổng giáo, lòng hiếu thảo có nghĩa là đối xử
tốt với cha mẹ của mình; chăm sóc cha mẹ của mình; có hành vi cư xử tốt

10
không chỉ đối với cha mẹ mà còn ở bên ngoài nhà để mang lại danh tiếng tốt
cho cha mẹ và tổ tiên; thực hiện tốt các nhiệm vụ và công việc làm để có thể
bảo đảm vật chất hỗ trợ các bậc cha mẹ cũng như để thờ phụng tổ tiên; không
nổi loạn; thể hiện tình yêu, sự tôn trọng và hỗ trợ; thể hiện phong cách lễ độ;

đảm bảo có người thừa kế nam giới, phát huy tình huynh đệ giữa các anh em;
tư vấn cho cha mẹ một cách khôn ngoan, trong đó có việc giữ họ tránh khỏi
những hành vi không đạo đức; thể hiện nỗi buồn khi cha mẹ bệnh tật và qua
đời; và thực hiện tang lễ, sự cư tang, thờ phụng sau khi họ qua đời.
Trong quá trình sống và hoạt động xã hội của con người, ý thức đạo đức
được hình thành. Trong các xã hội, nhất là các xã hội dựa trên đối kháng giai
cấp, ý thức đạo đức bao giờ cũng mang tính giai cấp. Trên thực tế, ở các xã
hội khác nhau, đạo đức và ý thức đạo đức biểu hiện ở những điều cấm và
khuyến khích khác nhau nhằm ngăn chặn những hành vi xấu xa và kích thích
những điều tốt trên quan điểm lợi ích chung, lợi ích xã hội. Nói cách khác, sự
phát triển của ý thức đạo đức có những biến thái cơ bản tương ứng với các
hình thái kinh tế - xã hội bởi vì mỗi hình thức sở hữu đều sản sinh ra lý luận
luân lý của nó.
Đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện ác, lương tâm, danh dự,
trách nhiệm, về lòng tự trọng, về công bằng hạnh phúc và về những quy tắc
đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa người với người, cá nhân và xã hội.
Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc xử lý các mối quan hệ trong gia
đình, cộng đồng hay xã hội, được thừa nhận rộng rãi. Đạo đức quy định hành
vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội nói chung; là những
nguyên tắc phải tuân theo trong quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân
với xã hội, phù hợp yêu cầu của mỗi chế độ chính trị và kinh tế xã hội nhất
định. Nếu không tuân theo những "nguyên tắc" ấy thì được gọi là người vô
đạo đức. Đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống trên nền tảng của hoạt
động sản xuất kinh tế - xã hội C.Mác đã viết rằng, chính con người khi phát

11
triển sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình đã làm biến đổi
cùng với hiện thực đó của mình cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình.
Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức.
Như vậy với tư cách là một phạm trù của ý thức xã hội, đạo đức cũng là sản

phẩm của những điều kiện lịch sử - xã hội, vì vậy khi xã hội thay đổi thì đạo
đức cũng có sự biến đổi thông qua cuộc đấu tranh lọc bỏ và kế thừa. Giáo dục
đạo đức là quá trình tuyên truyền những tư tưởng, những chuẩn mực đạo đức
xã hội, biến nó thành thước đo đánh giá, điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân
nhằm đạt tới một sự phù hợp giữa hành vi cá nhân với lợi ích xã hội. Tự giáo
dục đạo đức của cá nhân, trước hết thể hiện ở chỗ, mỗi cá nhân thông qua sự
tự phán xét của lương tâm về hành vi của mình để củng cố các chuẩn mực đạo
đức cá nhân, để đạt tới hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức
đó. Mặt khác, dựa vào dư luận xã hội, họ tự điều chỉnh hành vi và điều chỉnh
ngay cả những chuẩn mực đạo đức cá nhân khi nhận thấy nó sai lệch với
chuẩn mực xã hội. Từ khi lập nước, Việt Nam chủ yếu là nước nông nghiệp;
con người sống chủ yếu trong không gian làng xã vừa là một cộng đồng xã
hội, vừa là một đơn vị hành chính có tính chất tự trị và luôn là mục tiêu xâm
lược của nhiều quốc gia. Các đặc điểm này tạo ra sự cố kết cộng đồng, sự ưu
tiên các giá trị đạo đức trong đời sống. Trên nền tảng của văn hóa bản địa, với
điều kiện địa lý thuận lợi, Việt Nam đã tiếp biến các giá trị văn hóa bên ngoài
với cốt lõi là Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo.
Lòng hiếu thảo là một giá trị đạo đức chẳng những có ý nghĩa về mặt
văn hóa, đạo đức mà còn có tác dụng giáo dục. Người biết hiếu thảo với ông
bà cha mẹ của mình là tấm gương sáng cho con cháu sau này noi theo, đó là
truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” quý báu. Đức Phật còn dạy rằng, lòng
hiếu thảo cũng chính là nhân lành, là hạnh của bậc Thánh, ta tự nhớ trong
nhiều kiếp quá khứ, từ tâm hiếu thuận cúng dường cha mẹ, do công đức như
vậy nên lên các tầng trời thì làm vị Thiên đế, xuống trần gian thì làm vị thánh

12
vương. Giáo dục đạo đức luôn gắn với hành động thiết thực, thể hiện bằng kết
quả công việc, lý luận đạo đức luôn gắn với cuộc sống. Giáo dục đạo đức là
yêu cầu khách quan của sự nghiệp "trồng người", nó giúp đào tạo ra thế hệ
vừa "hồng" vừa "chuyên" nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại

hóa đất nước. Nội dung của giáo dục đạo đức rất phong phú trong đó không
thể không nhắc đến vai trò quan trọng của giáo dục đạo hiếu. Chữ hiếu ở mỗi
thời khác nhau, do sự khác biệt ý thức hệ và hành trạng xã hội luôn đặt sự
nhận thức khác nhau về bổn phận trách nhiệm của người con phải hành xử như
thế nào cho trọn tình hiếu nghĩa với cha mẹ, trong quan hệ với tình anh em, đồng
bào, Tổ quốc. Cuộc sống hối hả, tình người hời hợt, kẻ sống đua đòi, háo danh,
lắm lúc quên đi tình cảm thiêng liêng nhất là gia đình, quên rằng mình chỉ có
duy nhất một người cha và một người mẹ trên đời, đức Phật dạy: “Này các Tỳ
kheo, không dễ gì tìm thấy một chúng sanh chưa từng là cha, là mẹ, là anh, là
chị, là con trai, là con gái của các Thầy trong bước đường dài của sự tái sanh ”
[12, tr.94].
Đối với truyền thống đạo đức Đông phương vấn đề thể nghiệm luôn là
yếu tố chính mà các tư tưởng gia thường hướng đến. Không giống như hệ
thống tư tưởng kinh viện của các nhà đạo đức học Tây phương, những lời
giáo huấn của các bậc hiền giả Đông phương được người đời sau ghi lại và
truyền giữ cẩn thận không phải là những học thuyết, những giáo điều khô
khan để bàn luận mà ngược lại chúng là những tinh hoa được chắt lọc từ kinh
nghiệm sống thường nhật của những tâm hồn mẫn cảm và bao dung. Đạo đức
học Đông phương vì thế luôn hàm chứa một tiềm lực dồi dào và trên thực tế
chính tiềm lực này đã làm cho nền luân lý ấy hòa quyện vào nền văn minh vật
chất để từ đó hình thành nên các giá trị văn hóa tinh thần của mỗi dân tộc. Ta
có thể hiểu rõ hơn điều này khi tìm hiểu về ý nghĩa của chữ hiếu trong hai
dòng tư tưởng lớn của Đông phương là Nho giáo và Phật giáo. Nho giáo là
một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời và tồn tại đến nay đã hơn 2500 năm.

13
Trong suốt thời gian tồn tại, Nho giáo đã có ảnh hưởng ở nhiều nước phương
Đông, trong đó có Việt Nam. Đó là các vấn đề đề cập đến những nội dung
đạo đức chủ yếu của Nho giáo như tam cương ( gồm ba mối quan hệ cơ bản là
vua-tôi, cha-con, chồng-vợ ), ngũ thường ( gồm năm chuẩn mực đạo đức cá

nhân là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín ). Đó là những tiền đề để thực hiện thuyết
chính danh, làm cho xã hội được ổn định, trật tự. Ảnh hưởng của Nho giáo
được thể hiện trên nhiều phương diện, đặc biệt là trong lĩnh vực đạo đức trước
đây cũng như hiện nay. Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu
đạo được xem là một di sản quí báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi
người yêu chuộng và giữ gìn. Trong Phật giáo, hiếu đạo được đề cập đến một
cách trọn vẹn và hoàn hảo. Chữ Hiếu trong đạo Phật mang tính siêu việt hơn
những quan niệm hiếu thảo thông thường, hành động hiếu thảo không chỉ là
mến yêu, cung kính, vâng lời, phụng dưỡng khi cha mẹ còn sống và thờ
phụng, tưởng nhớ khi cha mẹ đã qua đời, mà còn là việc hướng cha mẹ đến
với điều thiện điều lành, xa lánh điều xấu điều ác, và bản thân người con cũng
phải sống tốt để cha mẹ vui lòng. Đức Phật đã dạy mỗi người con làm cách
nào để đáp đền công ơn cha mẹ một cách đầy đủ, trọn vẹn: “Hãy khuyên cha
mẹ bỏ ác làm lành, thọ Tam quy, giữ Ngũ giới. Dù cha mẹ buổi sớm mai thọ
trì Tam quy Ngũ giới, chiều về cõi chết, đối với ơn nặng của cha mẹ cũng gọi
là tạm đền” [12, tr.105]. “Những ai đền ơn cha mẹ bằng cách nuôi dưỡng,
cúng dường với của cải vật chất, tiền bạc thời không bao giờ đủ để trả ơn cha
mẹ. Nhưng những ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng
dẫn cha mẹ có lòng tin vào điều thiện, sống theo điều thiện; đối với cha mẹ
xan tham, khuyến khích, hướng dẫn cha mẹ bố thí, biết sớt chia san sẻ; đối
với cha mẹ có ác kiến, theo đường tà, giúp cha mẹ có chánh kiến, khuyến
khích, hướng dẫn cha mẹ trở về con đường lành con đường chơn chánh, sáng
suốt, như thế mới đủ trả ơn cho cha mẹ” [12, tr. 116]. Đối với đạo Phật,
những việc làm xuất phát từ lòng hiếu thảo mang lại lợi ích thiết thực cho cha

14
mẹ trong hiện tại và tương lai mới chính là hành động hiếu. Theo Phật giáo,
con người không chỉ có kiếp sống hiện tại mà còn có kiếp sống vị lai, do đó
người con hiếu thảo cần phải chăm lo cho cha mẹ cả đời sống sau khi từ giã
cõi đời này. Người con hiếu trong đạo Phật luôn ưu tư: Sau khi chết cha mẹ sẽ

đi về đâu? Làm sao để giúp cha mẹ có được niềm an lạc hạnh phúc trong đời
sống hiện tại và đời sống sau khi chết? Việc hướng cha mẹ theo con đường
chân chính, giúp cha mẹ gieo trồng những nhân duyên lành cho đời này và
đời sau, chăm lo vun bồi công đức phước báu chính là việc làm thiết thực để
đáp đền công ơn cha mẹ. Phật giáo thường nói đến bốn ân căn bản mà một
người Phật tử thường phải ghi nhớ và đền đáp là: ân cha mẹ, ân Tam bảo, ân
quốc gia và ân chúng sanh. Bốn ân này được xem trọng vì theo giáo lý
Nghiệp và Duyên Khởi của Phật giáo trong vô lượng kiếp trước cho đến đời
hiện tại mỗi người đều đã tạo ra vô số nhân duyên khác nhau, đã thọ ân của
vô số chúng sanh và đến đời này lại thọ ân của cha mẹ đã sinh thành nuôi
nấng, ân Tam bảo đã soi sáng và dẫn bước trên đường tu học và ân quốc gia
đã bao bọc, chăm lo cho cuộc sống mình được bình an, hạnh phúc. Trong bốn
ân nói trên, ân cha mẹ là ân căn bản và phổ biến nhất. Trong kinh Đức Phật đã
dạy, công ơn cha mẹ thật vô biên và rằng dòng sữa mà mình đã thọ nhận từ
mẹ trong vô lượng kiếp còn nhiều hơn nước của đại dương. Vì công ơn cha
mẹ to lớn như thế nên người con khó có thể đền đáp trọn vẹn thâm ân của cha
mẹ mình. Đức Phật cũng dạy rằng cách đền đáp đúng đắn và ý nghĩa nhất của
người con đối với cha mẹ là ngoài việc báo ân cha mẹ theo năm cách như
kinh Thiện Sinh (nuôi dưỡng cha mẹ, làm tròn mọi bổn phận người con, giữ
gìn gia đình với truyền thống, bảo vệ tài sản thừa tự, và làm tang lễ khi cha
mẹ qua đời ) thì người con phải khuyến hóa cha mẹ làm điều phước thiện, qui
y Tam bảo, thọ trì giới luật, sống theo chính kiến. Không những khuyến hóa
cha mẹ mà bản thân người con cũng phải thực hành những nguyên tắc này
trong cuộc sống của mình. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái là một quan hệ

15
tương hỗ mật thiết nên cha mẹ cũng chính là một trợ duyên để người con giữ
gìn đạo hiếu được trọn vẹn. Do vậy để con mình sống đúng với đạo lý ấy bản
thân cha mẹ cũng thể hiện trách nhiệm đối với con. Đức Phật đã dạy về trách
nhiệm đó như sau: Ngăn chặn con làm điều ác; khuyến khích con làm điều

thiện; dạy con nghề nghiệp; lo việc cưới hỏi cho con thật xứng đáng; và trao
tài sản thừa tự cho con đúng thời. Như thế chữ hiếu trong đạo Phật không chỉ
dừng lại ở chỗ nhận thức được công ơn của cha mẹ là bao la nên người con
phải đền đáp thâm ân đó theo các nguyên tắc nhân bản của xã hội mà hơn thế
nữa một người con hiếu phải còn là một thiện tri thức làm trợ duyên cho cha
mẹ trong việc tu tập hướng đến sự giác ngộ và giải thoát. Đây là điểm khác
biệt căn bản giữa chữ hiếu trong Phật giáo và Nho giáo.
1.1.2. Sự cần thiết của giáo dục đạo hiếu ở nƣớc ta hiện nay
Hiếu là nền tảng của đạo làm người, là nhân tố để hình thành nên đức
Nhân của người Quân tử, một mẫu người lý tưởng trong Nho giáo. Chung
quy việc tu thân để tiến đến việc tề gia, trị quốc và bình thiên hạ phải bắt
đầu từ một đức tính căn bản trong mỗi người, đức tính đó không gì khác
hơn là hiếu hạnh.
Trƣớc hết, giáo dục đạo hiếu chính là góp phần làm ổn định gia đình.
Hiếu là cội nguồn của đạo lý, là cơ sở vững chắc của gia đình. Một trong
những yếu tố quan trọng cấu thành xã hội là tổ chức gia đình, gia đình ổn định
là cơ sở bảo đảm cho xã hội hài hòa và phát triển. Trong gia đình Việt Nam
truyền thống, chữ Hiếu được tôn trọng, đề cao và mang giá trị nhân bản sâu
sắc. Hiếu là ý thức biết ơn của con cái đối với công lao sinh thành dưỡng dục
của tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Trong các danh gia vọng tộc thường có gia huấn
để dạy bảo con cháu về đạo đức nói chung và đạo Hiếu nói riêng. Gia đình,
nơi có cha, có mẹ, có anh, có em vốn là nơi kết nối ân tình, là mầm móng
yêu thương và phát triển nhân cách, là nơi chốn bình yên mỗi khi ta tìm về thì
nay ta đã vô tình quên lối, từ đó mới xảy ra nhiều những sự việc đau lòng cho

16
xã hội. Chữ hiếu là nền tảng của đạo đức. Gia đình là nền tảng của xã hội.
Trong gia đình chữ hiếu là nền tảng để xây dựng hạnh phúc, đem đến sự an
vui, an lạc cho tất cả mọi người. Con cái có hiếu với cha mẹ, ngoài việc mang
lại niềm hạnh phúc chung trong gia đình, còn mang đến cho chính mình sự an

lạc, bình an. Mỗi cá nhân, mỗi gia đình trong xã hội, mỗi công dân của một
quốc gia có an lạc, bình an thì xã hội, quốc gia đó mới có an lạc bình an, và
mỗi xã hội, mỗi quốc gia có an lạc bình an thì thế giới của chúng ta mới được
an lạc, bình an. Không có tình yêu thương kính trọng vô điều kiện đối với cha
mẹ thì không thể có tình yêu thương thật sự đối với người khác. Một xã hội
không có những cá nhân có tình yêu thương thật sự, chỉ có những cá nhân, mà
lòng yêu thương trong họ chỉ tồn tại khi các điều kiện xuất phát từ lòng tham
dục đã được thỏa mãn, nếu không đúng theo sự ham muốn, nếu trái với ý
muốn, thì tình thương đó sẽ tan biến, dễ biến thành sự khinh khi, đố kỵ, ganh
ghét và hận thù. Như thế thì xã hội đó, sẽ không thể có được sự an lạc, sự an
bình thật sự. Trong Nho giáo, gia đình có một sức mạnh và khả năng khống
chế rất lớn đối với mỗi con người, nó chế định những sợi dây ràng buộc con
người một cách chặt chẽ. Coi vấn đề “tề gia” là gốc của nước và thiên hạ,
muốn “trị nƣớc” trước hết phải giữ yên được nhà nên Nho giáo luôn cố gắng
tìm cách xây dựng gia đình, gia tộc thành những bức tường mạnh mẽ. Lễ giáo
Nho giáo quy định một cách chặt chẽ các mối quan hệ giữa người với người,
trong đó những quan hệ cơ bản nhất là tam cương và ngũ luân (Vua – tôi, cha
– con, vợ - chồng, anh – em, bạn - bè), trong các mối quan hệ đó thì đã có ba
mối quan hệ trong gia đình. Chịu ảnh hưởng sâu sắc của ý thức hệ Nho giáo
nên giai cấp phong kiến Việt Nam trong lịch sử cũng chủ trương xây dựng gia
đình theo những khuôn mẫu của lễ giáo Nho giáo. Trong mối quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình, chữ hiếu được đề cao và nhấn mạnh. Gia đình
Việt Nam trong xã hội hiện nay cũng rất đề cao mối quan hệ này, coi “hiếu”
không chỉ là trách nhiệm mà còn là phẩm chất lớn nhất của đạo làm con.

17
Phong tục tập quán của các dân tộc, giáo lý của các tôn giáo đều khuyên
dạy, đề cao và hướng con người đến việc nhận thức và thể hiện lòng hiếu
hạnh của mình đối với đấng sinh thành. Đặc biệt nước ta với nền văn minh
phát triển từ rất lâu, văn hóa Nho-Phật-Lão đã ảnh hưởng sâu đậm trong xã

hội. Chữ Hiếu đã hình thành và tồn tại trong từng cá nhân như là bản tính tự
nhiên vốn có từ khi chúng ta mới chào đời. Gia đình truyền thống Việt Nam
hình thành trong chế độ phong kiến với tư tưởng Nho giáo chi phối, nên theo
lễ nghĩa Nho giáo: lấy “Hiếu Đễ” làm nội dung cốt lõi, coi trọng việc giáo dục
trong gia đình hay còn gọi là gia giáo, coi trọng quyền gia trưởng của người
đàn ông trụ cột. Như vậy, nếu bỏ qua những hạn chế thì gia đình truyền thống
có những giá trị nhất định, góp phần tích cực trong việc xây dựng một thiết
chế xã hội nhỏ nhất - gia đình ổn định, hài hòa tạo cơ sở cho xã hội phát triển.
Thực chất, thực hiện tốt chữ “Hiếu” chính là giải quyết tốt mối quan hệ người
với người trong gia đình dựa trên cơ sở huyết thống gần. Gia đình truyền
thống bắt buộc mỗi người thực hiện tốt “Hiếu” để bảo đảm gia đình ổn định,
mà gia đình ổn định là cơ sở để xã hội ổn định. Thực hiện chữ “Hiếu” cũng
chính là thực hiện tình yêu thương huyết thống gần và đó là cơ sở để thực
hiện tốt tình yêu thương với những người huyết thống xa. Những chuẩn mực
đạo đức cơ bản của mỗi con người, cũng như việc ứng xử giữa các thành viên
trong gia đình là cơ sở xây dựng quan hệ ứng xử trong xã hội như: Kính trên,
nhường dưới, tôn trọng phép tắc cộng đồng
Thứ hai, hiếu thảo với cha mẹ là một nét đẹp văn hóa đã trở thành
truyền thống tiêu biểu cho cốt cách con người Việt Nam, là bước đi đầu tiên
trên con đường hoàn thiện nhân cách và đạo đức con người. Theo Nho giáo,
hiếu là một khái niệm đạo đức nền tảng, là cái gốc của mọi vấn đề về đạo đức,
chính trị. Trong xã hội phong kiến Việt Nam luôn lấy “hiếu” làm chuẩn mực
trong xã hội, làm tiêu chuẩn rèn luyện và đánh giá nhân cách con người, lấy
hiếu để buộc người và người. Hiếu vốn là một nội dung quan trọng của đạo

18
đức gia đình truyền thống Việt Nam, đó là: "Nết đầu trong trăm nết”, đạo
hiếu hình thành lâu đời trong những phong tục của người Việt như: thờ cúng
tổ tiên, kính trọng người già, tôn trọng cha mẹ… Con người có lòng hiếu thảo
mới hội tụ đủ “ Nhân - Lễ -Trí –Tín ” và nếu ai không có đủ phẩm chất đó có

thể được coi là “ không thành người ”. Hiếu thảo với cha mẹ là một truyền
thống tốt đẹp của người Việt Nam ta. Có thể nói hiếu thảo là cái gốc của đạo
làm người. Đã bao thế hệ người Việt Nam ta lớn lên trong lời ru nhẹ nhàng
sâu lắng : “Hiếu trọng, tình thân. Tứ thân phụ mẫu”. Để rồi từ lúc nào triết lý
sống đậm chất nhân bản ấy thấm sâu vào tâm khảm, trở thành phương châm
sống trong mỗi người. Cùng với sự phát triển của xã hội ngày nay các gia
đình hai thế hệ chiếm số đông, gia đình nhiều thế hệ ngày một ít đi. Song dù
thế nào đi nữa thì một trong những tiêu chí lớn của đạo làm người của người
Việt Nam ta là hiếu thảo với cha mẹ không bao giờ thay đổi. Người xưa răn
dạy con cháu vô cùng sâu sắc, khi cha mẹ còn, hết lòng thương nhớ, đó thực
sự là cái đạo hiếu của con đối với cha mẹ vậy. Làm trái lại hẳn như thế là bất
hiếu, mang tội rất to. Làm trái lại một nửa như thế nghĩa là khi cha mẹ còn thì
chểnh mảng thờ ơ, lúc cha mẹ mất thì làm mâm cao cỗ đầy làm văn tế ruồi
như thế cũng là bất hiếu. Cho nên là người con có hiếu còn cha mẹ ngày nào
nên mừng ngày ấy, kiếp ăn ở trọn đạo, chớ để đến lúc cha mẹ mất rồi có hối
lại cũng không sao được nữa. Vì rằng làm con mà được còn cha mẹ để báo
đáp là một việc sung sướng ở đời mà cũng là có duyên có phúc nữa. Cha mẹ
là đấng sinh thành đã cống hiến trọn đời cho gia đình, cho quê hương đất
nước. Cha mẹ đã từng sống, chiến đấu, lao động, học tập góp phần làm lên
những chiến công thầm lặng. Khi già yếu cha mẹ có quyền nghỉ ngơi và được
quyền hưởng sự chăm sóc của gia đình và xã hội. Hạnh phúc của cha mẹ là
được thấy một gia đình hoà thuận, con cháu khoẻ mạnh chăm ngoan, học tập
và lao động chăm chỉ trở thành những công dân tốt cho xã hội. Điều đó cần
thiết hơn mọi sự chăm sóc về vật chất. Đặc biệt là sự gặp gỡ gần gũi chăm sóc

19
thăm hỏi thường xuyên dù vật chất còn hạn chế vẫn đáng quý hơn sự lạnh
nhạt, thờ ơ mặc cho cha mẹ thui thủi một mình chỉ khi có nguy cấp mới có
mặt nhưng anh em lại tỵ nhau so đo tính toán tranh giành thiệt hơn của cải
trong gia đình đó là bất hiếu.

Thứ ba, giáo dục đạo hiếu nhằm khắc phục suy thoái đạo đức gia đình
trong xã hội hiện nay. Thời gian gần đây, ở nước ta đã có khá nhiều hiện
tượng xã hội bất kính, bất hiếu của con cái với cha mẹ như con cái hành hung,
ngược đãi cha mẹ; chối bỏ trách nhiệm nuôi cha mẹ, đuổi cha mẹ khỏi nhà
Hiện tượng ấy tuy không phổ biến nhưng gây bức xúc dư luận, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến giá trị, thuần phong mỹ tục của đạo làm người và gióng lên
hồi chuông cảnh tỉnh về sự xuống cấp đạo đức gia đình, xã hội. Với thực
trạng chữ “hiếu” thời nay, cần có những biện pháp cụ thể để ngăn chặn sự
xuống cấp đó. Trong điều kiện hiện nay, chúng ta cần tiếp tục khẳng định vai
trò của chữ Hiếu trong gia đình cũng như ngoài xã hội; kế thừa, phát
triển hiếu theo tinh thần Hồ Chí Minh, gắn với việc xây dựng gia đình văn
hoá mới đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá xã hội và xây dựng cuộc sống ấm no,
hạnh phúc. Trong văn hóa Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo được xem là một di
sản quí báu, một chất liệu sống tốt đẹp được dân tộc ta yêu chuộng và giữ
gìn. Ở nước ta với nền văn minh phát triển từ rất lâu, văn hoá Nho, Phật, Lão
đã ảnh hưởng sâu đậm trong xã hội. Đạo Nho giáo cho rằng, hiếu thảo hay sự
phụng dưỡng cha mẹ là cội nguồn của Nhân. Phật giáo Việt Nam thì dạy rằng,
con cái không chỉ hiếu thuận cha mẹ một ngày mà là cả đời mình. Người Việt
Nam theo Thiên chúa giáo cũng luôn kính hiếu với cha mẹ, tổ tiên, ngày giỗ
nhiều tín đồ đến nhà thờ cầu nguyện cho hương hồn người đã khuất, họ đi đắp
mộ, đặt hoa tưởng nhớ tổ tiên. Tuy có nhiều quan điểm song tựu trung lại giáo
lý của các tôn giáo Việt Nam đều khuyên dạy đề cao và hướng con người đến
việc nhận thức, thể hiện lòng hiếu hạnh của mình đối với đấng sinh thành.
Trong phạm vi gia đình người Việt thể hiện đạo hiếu là sự biết ơn với cha mẹ,

20
ông bà đó là công ơn sinh thành, nuôi nấng. Đó là sự chăm sóc, phụng dưỡng
cha mẹ lúc tuổi già và thờ cúng khi đã qua đời. Truyền thống này đã có từ rất lâu
đời, được duy trì từ đời này qua đời khác, trở thành đạo lý, tập tục, thấm sâu
trong tiềm thức mỗi con người Việt Nam. Đời sống ngày nay thay đổi theo

hướng tiện nghi hóa, vì vậy tư tưởng con người, nhất là những con người trẻ
tuổi, thường dễ bị ảnh hưởng tiêu cực khi đòi hỏi cha mẹ phải đáp ứng vật chất
và chiều theo những sở thích riêng. Đất nước đang hòa nhập vào sự phát triển
khoa học kĩ thuật hiện đại, cùng với sự du nhập các nền văn hóa phương Tây,
liệu chúng ta có giữ được truyền thống tốt đẹp của lòng hiếu kính hay
không? Phàm đã làm người, chúng ta không thể sống một cách buông thả để
ngày tháng trôi qua mà không nuối tiếc. Vì rằng, khi chúng ta còn hiện hữu trên
cuộc đời này nghĩa là chúng ta còn phải mang ơn và có bổn phận báo ơn cha mẹ:
“ Ca dao khúc hát chứa chan
Suối Nguồn Gốc Tổ tuôn tràn muôn năm
Con ơi ! ghi nhớ chuyên chăm
Tinh thần Đạo- Hiếu Việt Nam tinh ròng ” [ 41, tr 25 ].
1.2. Nội dung của giáo dục đạo hiếu hiện nay
Theo cội nguồn văn hóa, chữ Hiếu được hiểu theo ba nghĩa căn bản là
đối xử tốt với cha mẹ, noi theo chí hướng của tổ tiên và giữ tang lễ cho đúng
cách. Truyền thống hiếu đạo lưu truyền đời đời. Ngày nay chữ Hiếu cũng
không khác mấy so với ngày xưa, vì cũng xuất phát từ tấm lòng tri ân và báo
ân (biết ơn và đền đáp ơn) cha mẹ. Tuy nhiên do điều kiện, hoàn cảnh xã hội
ngày nay không giống như ngày xưa, cho nên cách thể hiện lòng hiếu thảo
của người con thời nay có khác người xưa.
1.2.1. Giáo dục sự trân trọng, tôn quý và chăm sóc của con cái đối với
đấng sinh thành.
Chữ Hiếu có sẵn trong tâm thức của mỗi người, là nét đẹp trong tâm
hồn con người. Cho tới nay dù cuộc sống có thay đổi, đối mặt với nhiều vấn

21
đề thời hiện đại, thì ý nghĩa chữ hiếu vẫn không thay đổi. Đó chính là sự tôn
trọng, trân quý người sinh thành dưỡng dục ra mình, và luôn luôn suy nghĩ về
trách nhiệm với những đấng sinh thành. Trách nhiệm là làm sao để bậc sinh
thành luôn vui mừng, yên tâm, tự hào về mình. Một phần nữa là chúng ta là sự

tiếp nối của ông bà, cha mẹ. Nếu chúng ta sống đạo đức, tốt đẹp tức là biết bảo
vệ mình, không bị đánh mất mình trước những biến đổi của xã hội. Đây cũng
chính là thể hiện sự hiếu hạnh với cha mẹ. Xuất phát từ tâm hiếu với cha mẹ,
chúng ta có thể nhìn sâu, nhìn rộng ra ngoài xã hội để thấy được mọi người,
những người cao tuổi cũng như ông bà, cha mẹ của mình. Chúng ta xây dựng
được mối quan hệ giữa người với người tốt đẹp trong xã hội chúng ta.
Lòng tôn kính đối với cha mẹ là điều không thể thiếu ở con cái. Điều
này được thể hiện trước hết ở việc giữ gìn phép tắc của gia đình “kính trên,
nhường dưới”. Con cái phải biết cách phụng dưỡng cha mẹ. Trong giao tiếp
thì kính cẩn, nhẹ nhàng, lễ phép, chu đáo. Nếu cha mẹ có gì sai trái không
được tỏ thái độ thiếu tôn kính, mà phải lựa dịp thuận lợi mà giãi bày, “cha mẹ
nói sai ngày mai thưa lại”. Lòng tôn kính còn thể hiện ở chỗ, con cái luôn
mong muốn điều tốt đẹp cho cha mẹ. Phan Bội Châu đã dạy “những điều gì
tốt, trông cha mẹ nên; những tiếng hư hèn, trông cha mẹ khỏi”. Ngoài ra cách
thể hiện lòng tôn kính còn ở chỗ con cái phải vâng lời cha mẹ, không sa vào
tệ nạn hư hỏng, làm ảnh hưởng đến tương lai, gây nhiều tiếng xấu cho cha
mẹ. Người xưa xem Hiếu là của báu, có cha mẹ sống để báo Hiếu là niềm
hạnh phúc lớn lao. Vì vậy, cha mẹ ngoài niềm vui được con cái biết vâng lời,
còn có niềm vui được con cái sống cùng cha mẹ để sớm hôm phụng dưỡng và
đỡ đần những khó khăn vất vả, thậm chí sẵn sàng hy sinh tính mạng để cứu
cha mẹ. Điều khiến cha mẹ đẹp lòng và tự hào nhất là khi con cái biết tìm
cách lập thân hoặc tạo dựng nên sự nghiệp mang lại lợi ích cho gia đình và xã
hội, làm cha mẹ được vẻ vang. Vì vậy, học hành chăm chỉ để đỗ đạt là biểu
hiện cao nhất của đạo Hiếu. Đó là kết quả của sự vâng lời, lòng kính yêu cha
mẹ, là biểu hiện cụ thể của lòng biết ơn.

×