Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 124 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGÔ THỊ QUÝ




ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC






HÀ NỘI - 2014





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGÔ THỊ QUÝ



ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN





HÀ NỘI - 2014




Lời cảm ơn!
Trong quá trình thực hiện luận văn, em đã nhận được sự quan tâm
giúp đỡ của các thầy cô giáo trong Khoa Triết học - Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã
tạo điều kiện để em hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Thanh
Huyền – người đã trực tiếp giúp đỡ, tận tình hướng dẫn và động viên để
em có thể hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!

Người thực hiện đề tài



Ngô Thị Quý














LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền. Các số liệu, kết quả
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào.



TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Ngô Thị Quý


















MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 12
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 12
1.1. Nguồn nhân lực chất lượng cao và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao 12
1.1.1. Khái niệm "nguồn nhân lực chất lượng cao". 12
1.1.2. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. 23
1.2. Khái quát quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam và vai trò của đào tạo
NNLCLC trong quá trình hội nhập quốc tế. 29
1.2.1. Khái quát quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 29
1.2.2. Vai trò của đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình hội
nhập quốc tế 36
Chương 2 48
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY-THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 48
2.1. Khái quát thực trạng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối
cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 48
2.1.1. Thành tựu: 48
2.1.2. Hạn chế. 64
2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong đào tạo NNLCLC: 74
2.2. Những yêu cầu đặt ra của hội nhập quốc tế đối với đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay: 78
2.3. Phương hướng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện
nay. 85



2.3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao ở Việt Nam hiện nay. 85
2.3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay 88
KẾT LUẬN 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103
1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hội nhập quốc tế là một tất yếu của thế giới, vì vậy cũng là con
đường phát triển đối với các nước trong thời đại toàn cầu hóa. Ngày nay,
cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ và sự ra đời của nền kinh tế
tri thức trong xu thế toàn cầu hóa thì nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân
lực chất lượng cao (NNLCLC) ngày càng thể hiện vai trò quyết định đối với
sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Nếu văn hóa như tấm căn cước
của một dân tộc để đi vào đời sống văn minh thì phát triển giáo dục – đào tạo,
đặc biệt là đào tạo NNLCLC lại là lối đi cho ta hình dung diện mạo một xã
hội, biết nó ở thế mạnh hay yếu, lực nhiều hay ít, đang có sức sống, sức bật
vươn lên hay đang suy yếu, suy kiệt,…
Ngày nay, thế giới đã bước vào giai đoạn phát triển kinh tế tri thức, thì
vai trò của lao động trí tuệ của con người thể hiện ngày càng rõ nét, đúng như
dự báo của Mác và Ăngghen: Khoa học do lao động trí tuệ của con người
sáng tạo ra sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức khoa học đang
thấm sâu vào mọi yếu tố của quá trình sản xuất và trở thành một nhân tố có ý
nghĩa quyết định sự phát triển. NNLCLC sẽ là lợi thế, là vũ khí hiệu quả nhất
để mỗi quốc gia đạt được thành công một cách bền vững. Trong quá trình hội
nhập quốc tế, khi sự cạnh tranh giữa các quốc gia trong mọi lĩnh vực đặc biệt
là lĩnh vực kinh tế ngày càng quyết liệt hơn, gay gắt hơn, thì lợi thế cạnh

tranh sẽ thuộc về quốc gia nào có NNLCLC phát triển. Do đó, có thể khẳng
định NNLCLC là yếu tố giữ vai trò quan trọng hàng đầu của nguồn nhân lực,
vì vậy cần coi trọng và phát huy tiềm năng của NNLCLC qua đào tạo.
Theo đánh giá của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Việt Nam đã
trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong khu vực
châu Á. Việt Nam lại là một nước nhỏ, nguồn tài nguyên tự nhiên không
nhiều nên nguồn nhân lực càng có tầm quan trọng đặc biệt. Nhưng nguồn
nhân lực phát huy được vai trò của nó không phải ở ưu thế về số lượng mà là
2

ở chất lượng. Khi nguồn nhân lực có quy mô lớn nhưng chất lượng và năng
suất lao động thấp thì lại trở thành nhân tố hạn chế sự phát triển. Thực tiễn
đào tạo ở nước ta cho thấy, NNLCLC không đáp ứng đủ được cả về số lượng
và chất lượng. Hàng năm chúng ta phải thuê một số lượng lớn chuyên gia từ
nước ngoài. Chất lượng đào tạo yếu kém dẫn đến nguy cơ mất sức cạnh tranh
trên thị trường toàn cầu, là rào cản, là thách thức lớn đối với nền kinh tế đang
trong quá trình hội nhập quốc tế. Cùng với tiến trình mở cửa hội nhập quốc
tế, nhu cầu cấp thiết về lực lượng lao động có kỹ năng ngày càng cao, trong
khi hệ thống giáo dục bậc cao ở Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được.
Để đáp ứng nhanh chóng các nhu cầu về nhân lực trong tiến trình hội
nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh mạnh mẽ của lực lượng lao động trên thị
trường lao động khu vực và quốc tế, nhà nước cần đề ra một chiến lược mang
tính cấp bách, lâu dài về đào tạo và phát triển NNLCLC. Đào tạo NNLCLC
là phát huy nguồn lực nội sinh, phát huy yếu tố trí tuệ con người Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới. Vai trò quyết định
của NNLCLC chỉ trở thành hiện thực khi người lao động được đào tạo để có
năng lực và phẩm chất cần thiết, đáp ứng được những yêu cầu mà quá trình
hội nhập quốc tế đặt ra hiện nay. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X của Đảng Cộng sản Việt Nam để khẳng định sự hiện diện của một bộ phận
nhân lực đầu tàu trong quá trình phát triển của đất nước: “Thông qua việc đổi

mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển NNLCLC, chấn hưng nền giáo
dục Việt Nam” [20, tr. 34]. Đến Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ XI Đảng
ta lại khẳng định: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là
NNLCLC là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền
vững đất nước” [21, tr. 41].
Nghiên cứu về thực trạng đào tạo NNLCLC, từ đó đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả đào tạo là một yêu cầu cấp thiết ở Việt Nam hiện nay.
Xuất phát từ lý do trên đây, tôi chọn đề tài: “Đào tạo nguồn nhân lực chất
3

lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” làm đề
tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
* Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề NNLCLC
Ở Việt Nam, NNLCLC mới thật sự được chú ý trong những năm gần
đây trước sự bùng nổ của cách mạng khoa học - công nghệ, và xu hướng phát
triển nền kinh tế tri thức. Liên quan đến vấn đề này phải kể đến các công
trình nghiên cứu khoa học cơ bản sau:
Viện Chiến lược phát triển của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006) đã chủ trì
triển khai nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ với chủ đề, Nguồn nhân lực
chất lượng cao: Hiện trạng phát triển, sử dụng và các giải pháp tăng cường.
Các tác giả đã nêu ra quan điểm của mình về NNLCLC và tìm hiểu những
yếu tố tác động đến NNLCLC. Đề tài cũng bước đầu đánh giá thực trạng một
số nhóm NNLCLC của nước ta và đề xuất những phương hướng, giải pháp để
phát triển NNLCLC của Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Luận án tiến sĩ Triết học của tác giả Vũ Thị Phương Mai (2013), Nguồn
nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Trong luận án, tác giả đã làm rõ khái niệm NNLCLC, phân tích mối quan hệ
giữa NNLCLC với sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên

cơ sở đánh giá thực trạng NNLCLC và những vấn đề đặt ra trong việc phát
triển NNLCLC, tác giả đề xuất những quan điểm cơ bản và những giải pháp
chủ yếu góp phần phát triển NNLCLC ở Việt Nam.
Tiếp theo là các bài viết: "Tìm hiểu khái niệm “nguồn nhân lực chất
lượng cao” trong văn kiện Đại hội X của Đảng cộng sản Việt Nam", trong
Kỷ yếu hội thảo khoa học : Vai trò lãnh đạo của Đảng trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Trung tâm Đào tạo – Bồi
dưỡng giảng viên Lý luận chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội và bài "Các
tiêu chí xác định nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam", đăng trên Tạp
4

chí Lý luận chính trị, 2008, số 8, của Lê Thị Hồng Điệp. Trong các bài viết
trên, tác giả đã đề cập đến khái niệm NNLCLC nêu ra trong văn kiện Đại hội
X của Đảng, đưa ra các cách định nghĩa khác nhau về NNLCLC và các tiêu
chí xác định riêng về nguồn nhân lực này.
Trong bài: “Vài nét về thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao trước
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế", của Nguyễn Ngọc Tú, Tạp chí Nghiên cứu
Châu Âu, số 4, 2008, đã phần nào nói lên thực trạng NNLCLC cũng như
công tác đào tạo NNLCLC trong bối cảnh hội nhập hiện nay
* Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề đào tạo
NNLCLC ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Trước hết là, Chương trình khoa học – công nghệ cấp Nhà nước KX -
07, đề tài KX -07-1, PGS.TS Nguyễn Trọng Bảo chủ biên (1996), Gia đình,
nhà trường, xã hội với việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng và đãi ngộ người tài, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Cuốn sách giúp chúng ta
tìm hiểu vấn đề “bồi dưỡng nhân tài” - một bộ phận của NNLCLC, mà Đảng
và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đặc biệt, các tác giả đã tập trung làm rõ
vai trò của gia đình, nhà trường và xã hội trong việc phát hiện, tuyển chọn,
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài, trên cơ sở đó, đã đưa ra một
số giải pháp để phát triển nguồn nhân lực này.

TS. Đỗ Minh Cương, PGS.TS Nguyễn Thị Doan (2001), Phát triển
nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cuốn sách đã đề cập đến một số nội dung về giáo dục đại học Việt Nam,
đồng thời đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm phát triển nguồn nhân
lực giáo dục đại học, bộ phận nhân lực có trình độ cao trong nguồn nhân lực
nước ta, để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
TS. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã chỉ ra vai trò
quan trọng của nguồn lực trí tuệ đối với sự phát triển của xã hội, đồng thời
làm rõ đặc điểm, thực trạng phát huy và xu hướng phát triển nguồn lực trí tuệ
5

Việt Nam, từ đó khẳng định sự cần thiết phải chăm lo phát triển và phát huy
cao độ sức mạnh của nguồn lực trí tuệ, bộ phận quan trọng nhất của
NNLCLC trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Tác giả đưa ra các quan
điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực này
của đất nước.
TS. Nguyễn Hữu Dũng có công trình: Sử dụng hiệu quả nguồn lực con
người ở Việt Nam, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2003. Cuốn sách đã trình
bày hệ thống một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến phát triển,
phân bố và sử dụng nguồn lực con người trong phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; đánh giá thực trạng 15 năm
đổi mới lĩnh vực nguồn nhân lực; giới thiệu kinh nghiệm của Mỹ, Nhật Bản
và Trung Quốc về vấn đề này, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển,
phân bố hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực con người trong quá trình phát
triển kinh tế ở nước ta tới năm 2010.
Trần Văn Tùng với công trình: Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn
nhân lực tài năng, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2005. Nội dung cuốn sách trình bày
những kinh nghiệm trong phát hiện,đào tạo và sử dụng tài năng khoa học –
công nghệ sản xuất kinh doanh, quản lý của một số nước tiêu biểu trên thế

giới và khu vực. Từ đó tác giả đã đưa ra vấn đề: Việt Nam cần đổi mới các
chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn tài năng hiện có. Công trình
nghiên cứu của tác giả có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với nước ta trong việc
phát hiện, đào tạo, sử dụng tài năng khoa học – công nghệ phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công cuộc đổi mới đất nước.
Tiếp theo là cuốn: Diễn đàn quốc tế về giáo dục Việt Nam “Đổi mới
giáo dục đại học và hội nhập quốc tế” = International forum on Vietnam
education “Higher education reform and international intergration” của các
tác giả Nguyễn Minh Hiển, Trần Quốc Toản, Tạ Ngọc Châu (2005), Nxb
Giáo dục Hà Nội. Cuốn sách là tập hợp những bài phát biểu, báo cáo nghiên
cứu khoa học của các tác giả cung cấp các thông tin đa dạng – phong phú,
6

những kinh nghiệm, ý tưởng, đề xuất có tính chất tư vấn cho việc đổi mới và
phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam.
Luận án tiến sĩ của Lê Thị Hồng Điệp với đề tài: Phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam, Trung
tâm đào tạo bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học quốc gia Hà Nội,
2005. Tác giả đã góp phần làm phong phú thêm những lý luận mới về phát
triển NNLCLC để hình thành nền kinh tế tri thức thông qua những phân tích
nội dung, tiêu chí và những yếu tố tác động tới quá trình phát triển lực lượng
này; Thực hiện việc đánh giá tương đối toàn diện thực trạng phát triển
NNLCLC để hình thành nền kinh tế tri thức giai đoạn 2001 -2007 gắn với
những nội dung tiêu chí nêu trên. Đồng thời, tác giả cũng đề xuất một số giải
pháp phát triển NNLCLC thực sự trở thành lực lượng tiên phong trên hành
trình hiện thực hóa nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Trong cuốn Giáo dục Đại học: Một số thành tố của chất lượng, do
Nguyễn Phương Nga – Nguyễn Quý Thanh (cb) (2007), Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội, ở phần 1, tác giả Trịnh Ngọc Thạch có bài viết: "Đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua giáo dục đại học". Trong đó,

tác giả đã cố gắng làm rõ cơ sở lý luận về đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao trong điều kiện chuyển đổi mạnh mẽ của khoa học - công
nghệ và kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh đó, tác giả chỉ ra thực tiễn
đào tạo và phát triển NNLCLC thông qua kinh nghiệm của Đông Á và Hoa
Kỳ làm ví dụ điển hình để minh họa. Tuy nhiên việc áp dụng nghiên cứu vấn
đề này vào nước ta chưa được tác giả quan tâm làm rõ.
PGS. TS Phạm Hồng Tung (chủ biên) (2008), Lược khảo về kinh nghiệm
phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài trong lịch sử Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã đánh giá tương đối toàn diện, súc tích về
những mặt tốt và hạn chế của thực tiễn đào tạo và sử dụng nhân tài của ông
cha ta trong các thời kỳ lịch sử, từ thời kỳ dựng nước cho đến giai đoạn cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Tác giả cũng làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về
việc đào tạo thế hệ nhân tài góp phần xây dựng Đảng và đất nước. Trên cơ sở
7

đó, tác giả đã đúc rút ra bài học kinh nghiệm hữu ích, góp phần xây dựng
luận cứ khoa học cho việc hoạch định chiến lược phát triển, sử dụng, trọng
đãi, tôn vinh nhân tài ở nước ta hiện nay.
Viện Khoa học giáo dục Việt Nam (2010), Kinh nghiệm một số nước về
phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với xây dựng đội
ngũ trí thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Các tác giả đã phân tích chính
sách phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ với xây dựng đội
ngũ trí thức của từng nước, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam.
Trong công trình: Mô hình quản lý đào tạo NNLCLC trong giáo dục Đại
học Việt Nam (2012), Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, tác giả Trịnh Ngọc
Thạch đã nghiên cứu lý thuyết và kinh nghiệm mô hình quản lí đào tạo
NNLCLC trong giáo dục đại học ở một số nước. Phân tích các mô hình quản
lí đào tạo NNLCLC trong một số trường đại học ở Việt Nam. Qua đó kiến
nghị mô hình quản lý đào tạo NNLCLC trong các trường đại học.

TS. Hoàng Anh chủ biên (2013),Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và
vận dụng vào đào tạo đại học hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia. Nội dung
cuốn sách trình bày nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục theo từng thời kỳ gắn với cuộc đời hoạt động cách
mạng của Người cũng như đất nước và nêu bật tầm quan trọng của việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào nâng cao chất lượng đào tạo đại
học hiện nay. Từ việc phân tích một số vấn đề trong công tác đào tạo đại học
hiện nay như chất lượng sinh viên, đội ngũ giảng viên, nội dung, chương
trình đào tạo, phương pháp giảng dạy, các tác giả đã đề xuất một số giải pháp
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào nâng cao chất lượng đào tạo
đại học hiện nay.
Bên cạnh những cuốn sách và công trình nghiên cứu tiêu biểu của các
nhà khoa học, các nhà quản lý trong nước, còn một số bài báo khoa học cũng
đề cập đến vấn đề này :
8

TS Nguyễn Hữu Dũng (2002), "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc
tế", Tạp chí Lý luận chính trị, số 8, 2002. Trong bài viết của mình, tác giả đã
đưa ra quan niệm về NNLCLC, sơ lược về thực trạng NNLCLC ở nước ta
hiện nay, trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát
huy nguồn lực này ở nước ta trong thời kì đổi mới.
PGS.TS Phan Thanh Khôi (2008), "Đóng góp của đội ngũ trí thức vào
chủ trương, đường lối hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí Lý luận chính trị
tháng 3/2008. Qua bài viết của mình, tác giả đã làm rõ vai trò quan trọng của
đội ngũ trí thức trong việc xây dựng luận cứ khoa học, bổ sung, hoàn thiện hệ
thống pháp luật, đào tạo nguồn nhân lực, góp phần vào quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Đồng thời tác giả đã chỉ ra một
số giải pháp nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.

- TS Phạm Công Nhất (2008), "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế", Tạp chí Cộng sản, số 786 (tháng 4
năm 2008). Tác giả đã phân tích làm rõ thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay, về cả số lượng và chất lượng. Đặc biệt, điểm nhấn
mạnh trong bài viết của tác giả chính là chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
đang còn nhiều hạn chế, yếu kém, cho dù nước ta có nguồn nhân lực dồi dào.
Tác giả đã chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng đó, từ đó đề
xuất một số những giải pháp để có thể phát triển NNLCLC đủ mạnh đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tiếp theo là loạt bài viết “Hợp tác quốc tế đào tạo nguồn nhân lực – Giải
pháp để hội nhập thành công” của tác giả Chu Trí Thắng trên Tạp chí Hoạt
động khoa học, Bộ Khoa học và công nghệ, số 12/2007; "Bàn về tiêu chí xếp
hạng các trường đại học từ thực tiễn Việt Nam" của PGS. TS Đào Duy Huân;
"Đổi mới phương pháp và giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đại
học" của PGS. TS Nguyễn Văn Trình, trên Tạp chí Phát triển và hội nhập, Số
9

tháng 4- 2010; "Liên kết giáo dục đào tạo quốc tế - Mô hình đào tạo năng
động và hiệu quả", Tô Thu Thủy, Nguyễn Hữu Trí, trong Tạp chí Phát triển
và hội nhập, số tháng 10-2010 Các bài viết trên đã chỉ rõ trong bối cảnh hội
nhập quốc tế đòi hỏi những yêu cầu ngày càng cao đối với NNLCLC, từ đó
các tác giả đã đưa ra các giải pháp khác nhau cho giáo dục đại học, nâng cao
chất lượng đào tạo NNLCLC.
Bài viết “Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay:
Thực trạng và triển vọng” của GS. TS Nguyễn Văn Khánh, Hoàng Thu
Hương, trong tạp chí Nghiên cứu con người, số 1(46), 2010. Các tác giả đã
đưa ra quan niệm về NNLCLC, thực trạng đào tạo NNLCLC ở Việt Nam
hiện nay. Trên cơ sở đó, các tác giả đã chỉ ra triển vọng phát triển NNLCLC
và một số khuyến nghị để phát triển nguồn lực này phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.

Các cuộc hội thảo đựơc tổ chức gần đây cũng đã bàn đến trực tiếp và
gián tiếp về vấn đề này như:
Hội thảo "Giáo dục Đại học - cơ hội và thách thức trong bối cảnh toàn
cầu hóa và hội nhập", lần đầu tiên hội thảo thường niên của Ban liên lạc các
trường đại học, cao đẳng Việt Nam (VUN) tổ chức trong hai ngày 14-15/4/
2014 tại Đà Lạt có mặt các khách mời quốc tế là các giáo sư đến từ các
trường Đại học Chi Nan, Diwan và Chiayi (Đài Loan). Từ những vấn đề cụ
thể đặt ra trong hội thảo, các đại biểu của Đài Loan và 142 trường đại hoc,
cao đẳng Việt Nam đã có nhiều cơ hội để chia sẻ nhận thức về việc hội nhập
quốc tế, trao đổi kinh nghiệm về việc phát triển giáo dục đại học và quản lý
nhà trường, đưa ra các phân tích nhận định công tác đào tạo NNLCLC trong
bối cảnh hội nhập từ đó đưa ra các giải pháp đảm bảo chất lượng, trao quyền
tự chủ cho các trường.
Hội thảo “Hội nhập quốc tế trong quá trình đổi mới giáo dục đại học
Việt Nam” do Hội đồng Quốc gia Giáo dục và phát triển nhân lực và Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh tổ chức ngày 8/6/2014. Nội dung được các
10

chuyên gia giáo dục trong và ngoài nước thảo luận nhiều nhất tại hội thảo đó
là: đổi mới tài chính mới mong muốn giáo dục đại học Việt Nam hội nhập
quốc tế. Trên cơ sở phân tích các thụân lợi, khó khăn của giáo dục đại học
trong quá trình hội nhập, nguyên nhân được phân tích là từ chi phí đào tạo
thấp dẫn đến nhiều hệ lụy trong đào tạo toàn diện. Và các đại biểu đã nhấn
mạnh giải pháp đổi mới tài chính để nâng chất lượng giáo dục đại học.
Các tham luận, các ý kiến của các nhà nghiên cứu trong các cuộc hội
thảo trên ít nhiều đề cập đến những khía cạnh liên quan đến luận văn và là
nguồn tài liệu tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến các vấn đề khác nhau về
NNLCLC. Hầu hết các tác giả đều nhấn mạnh tầm quan trọng của NNLCLC
đối với nước ta hiện nay, nhưng khả năng đào tạo của nguồn nhân lực này

trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế còn rất hạn chế cả về số
lượng và chất lượng. Cần phải xây dựng những chính sách để phát triển
nguồn nhân lực này một cách hợp lý trong thời gian tới.
Có thể nói đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu về vấn đề nguồn
nhân lực nói chung, cũng như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt
Nam. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về NNLCLC và về đào tạo
NNLCLC ở nước ta còn chưa nhiều và chủ yếu mới chỉ dừng ở các bài viết,
nghiên cứu ở từng khía cạnh khác nhau. Luận văn trên cơ sở kế thừa các công
trình nghiên cứu đã có, tiếp tục đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề
đào tạo NNLCLC trong bối cảnh hội nhập thế giới ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
- Mục đích:
Luận văn làm rõ thực trạng đào tạo NNLCLC, từ đó đưa ra một số giải
pháp nâng cao chất lượng đào tạo NNLCLC trong bối cảnh hội nhập quốc tế
ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ:
11

+ Phân tích làm rõ khái niệm NNLCLC, đào tạo NNLCLC; khái quát
quá trình hội nhập quốc tế và vai trò của đào tạo NNLCLC trong bối cảnh hội
nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
+ Khái quát những thành tựu và hạn chế của đào tạo NNLCLC trong bối
cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
+ Đưa ra phương hướng và một số giải pháp nâng cao chất lượng đào
tạo NNLCLC trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: công tác đào tạo NNLCLC trong bối cảnh hội nhập quốc tế
ở Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu đào tạo NNLCLC
ở bậc cao đẳng, đại học và sau đại học trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt

Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận: luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về giáo dục - đào tạo.
- Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể sau: phương pháp logic và lịch
sử, phân tích và tổng hợp cùng một số phương pháp xã hội học khác như
thống kê, so sánh, đối chiếu,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
- Luận văn góp phần nghiên cứu hệ thống vấn đề NNLCLC và đào tạo
NNLCLC trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm
đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn:
Luận văn gồm 2 chương, 5 tiết ngoài phần mở đầu, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo.
12

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TRONG BỐI CẢNH HỘI
NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Nguồn nhân lực chất lượng cao và đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao.
Để đi đến khái niệm "nguồn nhân lực chất lượng cao", trước hết chúng
ta cần làm rõ khái niệm "nguồn nhân lực".
Thuật ngữ nguồn nhân lực (human resources) xuất hiện vào thập niên 60
của thế kỷ XX khi mà có sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý, sử

dụng con người trong kinh tế lao động. Trước đây, phương thức quản trị nhân
viên (personnel management) có đặc trưng, coi nhân viên là lực lượng thừa
hành, phụ thuộc, cần khai thác tối đa sức lao động của họ với chi phí tối thiểu.
Từ những năm 80 đến nay với phương thức quản lý mới, quản lý nguồn nhân
lực (human resources management) với tính chất mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn,
tạo điều kiện tốt hơn để người lao động có thể phát huy ở mức cao nhất các
khả năng tiềm tàng, vốn có của họ thông qua tích lũy tự nhiên trong quá trình
lao động phát triển. Có thể nói sự xuất hiện của thuật ngữ “nguồn nhân lực” là
một trong những biểu hiện cụ thể cho sự thắng thế của phương thức quản lý
mới đối với phương thức quản lý cũ trong việc sử dụng nguồn lực con người.
Cho đến nay đã có khá nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực,
có thể kể đến những quan niệm sau đây:
Theo Cơ quan Phát triển của Liên hợp quốc UNDP: “Nguồn nhân lực
là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của
con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước ” [96,
tr. 8]. Quan niệm về nguồn nhân lực theo hướng tiếp cận này có phần thiên về
chất lượng của nguồn nhân lực. Trong quan niệm này, điểm được đánh giá
cao là coi các tiềm năng của con người cũng là năng lực, khả năng để từ đó có
13

những cơ chế thích hợp trong quản lý, sử dụng. Quan niệm về nguồn nhân lực
như vậy cũng đã cho ta thấy phần nào sự tán đồng của Liên hợp quốc với
phương thức quản lý mới.
Theo GS.VS Phạm Minh Hạc: “nguồn nhân lực là tổng thể tiềm năng
lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động được
chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) tham gia một công việc lao động nào đó,
tức là người lao động có kỹ năng (hay lao động nói chung) bằng con đường
đáp ứng yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”. [30, tr. 269]
Theo các quan niệm nêu trên, có thể thấy, nguồn nhân lực không chỉ là

lực lượng lao động hay nguồn lao động mà còn là một tập hợp các yếu tố quy
định đến năng lực hoạt động của con người.
Theo chúng tôi hiểu, nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất
lượng con người với các tiêu chí về thể lực, trí lực và tâm lực tạo nên năng
lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động vào quá trình
lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Như vậy, nguồn nhân lực bao hàm các yếu tố sau:
Số lượng nhân lực, nói đến nguồn nhân lực của bất kỳ tổ chức nào, một
địa phương hay một quốc gia nào câu hỏi đầu tiên đặt ra là có bao nhiêu
người và sẽ có thêm bao nhiêu nữa trong tương lai. Đấy là những câu hỏi cho
việc xác định số lượng nguồn nhân lực. Sự phát triển về số lượng nguồn nhân
lực dựa trên hai nhóm yếu tố bên trong (ví dụ nhu cầu thực tế công việc đòi
hỏi phải tăng số lượng lao động) và những yếu tố bên ngoài của tổ chức như
sự gia tăng về dân số hay lực lượng lao động do di dân.
Chất lượng nhân lực, là yếu tố tổng hợp của nhiều yếu tố bộ phận như
trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, sức khỏe, thẩm mỹ…của
người lao động. Trong các yếu tố trên thì trí lực và thể lực là hai yếu tố quan
trọng trong việc xem xét đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.
14

Thể lực là trạng thái sức khỏe của con người biểu hiện ở sự phát triển
sinh học, không có bệnh tật, có sức làm việc trong một hình thái lao động-
nghề nghiệp nào đó, có sức khỏe để tiếp tục công việc học tập, làm việc lâu
dài… thể lực không khỏe mạnh sẽ hạn chế lớn tới sự phát triển trí lực, trí tuệ
của nhân dân và của cả cộng đồng xã hội nói chung
Trí lực là yếu tố trí tuệ, tinh thần là cái nói lên tiềm lực văn hóa tinh
thần của con người. Nó quyết định khả năng sáng tạo và năng lực lao động
của con người. Muốn nâng cao chất lượng nguồn lực lao động thì phải nâng
cao trình độ trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực lao động của người lao
động bên cạnh các yếu tố khác, như C. Mác đã chỉ ra rằng “Năng suất lao

động phụ thuộc nhiều vào trình độ khéo léo trung bình của người công nhân,
mức độ phát triển của khoa học và trình độ, tác dụng của khoa học vào quy
trình công nghệ, sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất, quy mô và hiệu suất
của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên” [56, tr. 69]. Trí lực là yếu tố
ngày càng có vai trò quyết định trong sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực của
con người, đặc biệt trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay.
Đạo đức cá nhân phản ánh những giá trị và chuẩn mực xã hội. Những
giá trị chuẩn mực đó phản ánh bản chất của xã hội, lý tưởng đạo đức mà xã
hội vươn tới, được cá nhân lĩnh hội và thể hiện trong đời sống của mình, nhất
là trong hoạt động lao động trong lối sống và nếp sống hàng ngày.
Cơ cấu nhân lực là yếu tố không thể thiếu khi xem xét đánh giá về
nguồn nhân lực. Khái niệm nguồn nhân lực phản ánh khía cạnh cơ cấu dân cư
và cơ cấu lao động trong các ngành, các vùng, cơ cấu lao động đã qua đào tạo
trong các lĩnh vực và khu vực kinh tế, cơ cấu trong tuổi lao động, cơ cấu độ
tuổi trong lực lượng lao động, cơ cấu nguồn lao động dự trữ. Cơ cấu dân cư
và lao động ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và sức mạnh nguồn nhân lực.
Như vậy, khái niệm nguồn nhân lực có nội dung rộng lớn, phản ánh
qua các phương diện cơ bản như số lượng, chất lượng, cơ cấu dân cư và lao
15

động… Qua đó cho thấy vai trò, đặc điểm và sức mạnh của con người với tư
cách là một nguồn lực cơ bản của sự phát triển xã hội.
Giữa chất lượng nguồn nhân lực và NNLCLC có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nói đến chất lượng
nguồn nhân lực là muốn nói đến tổng thể nguồn nhân lực của một quốc gia,
trong đó NNLCLC là bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh tuý
nhất, có chất lượng nhất. Bởi vậy, khi bàn về NNLCLC không thể không đặt
nó trong tổng thể vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nói chung của một đất
nước.
 Nguồn nhân lực chất lượng cao.

NNLCLC là một khái niệm rộng và mang tính tương đối, tùy vào cách
tiếp cận mà có nhiều quan niệm khác nhau.
Thuật ngữ NNLCLC, vào thời kì của C. Mác và Ph. Ăngghen chưa
được sử dụng nhưng các ông đã chỉ ra tính vượt trội và ưu thế của loại lao
động trình độ cao, so với “lao động giản đơn”. C. Mác phân tích “lao động
giản đơn” và “lao động phức tạp” và kết luận: lao động phức tạp (lao động
được đào tạo) là bội số của lao động giản đơn. “Lao động phức tạp là lao
động giản đơn được nâng lên lũy thừa, hay nói đúng hơn lao động giản đơn
được nâng lên”[56, tr.75]. Đồng thời, C.Mác cũng khẳng định thêm rằng:
“Vậy thì nền công nghiệp do toàn xã hội thực hiện một cách tập thể và có kế
hoạch lại càng cần có những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ
sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất” [57, tr. 474]. Từ đầu thế kỷ XIX, C.
Mác đã chỉ ra, chính hoạt động sáng tạo của con người đã làm cho khoa học
ra đời, phát triển mạnh mẽ và khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp và các loại lao động phức tạp, trí tuệ, lao động quản lý sẽ có xu hướng
ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản phẩm. Do đó, lao động phức
tạp đòi hỏi phải bỏ ra chi phí đào tạo cao hơn.
Các nhà kinh tế học cũng cho rằng: Nguồn nhân lực mà hạt nhân của
nó là lao động kĩ thuật với toàn bộ thể lực, trí lực với trình độ chuyên môn, kĩ
16

năng cao cấp mà con người tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập vượt
trội trong tương lai. Theo đó, có ba loại nhân lực chủ yếu quyết định sự phát
triển, đó là: người lao động thể lực; chuyên gia lành nghề và những người có
ý tưởng sáng tạo.
Để chỉ NNLCLC, trong các tạp chí nghiên cứu về giáo dục, đào tạo và
kinh tế thường sử dụng khái niệm lao động có kỹ năng cao (High Skill
Labours) hoặc lao động chất lượng cao (High Quality Labours). Đối với lao
động có kỹ năng cao, người ta quan niệm đó là những người thông thạo về
một nghề nghiệp nào đó, từ nghề đơn giản cho đến phức tạp trong lĩnh vực

chuyên môn hẹp, thí dụ kỹ năng của người công nhân may, kỹ năng của người
lập trình viên… Còn lao động chất lượng cao thể hiện ở chỗ họ có kỹ năng
lao động trong những lĩnh vực phức tạp hơn, được đào tạo tốt hơn, đáp ứng
những yêu cầu khắt khe của thị trường lao động và được hưởng lương cao
hơn.
Ở Việt Nam cụm từ “NNLCLC” được đề cập nhiều từ khi nước ta gia
nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nghị quyết Đại hội lần thứ X của
Đảng đã nhấn mạnh: “Đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục và đào tạo, phát
triển NNLCLC đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”[20, tr.95] . Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam
đã chủ trương phát triển: “Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lí giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động
lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn”[21, tr.130]. Như vậy,
Đảng ta đặc biệt coi trọng việc phát triển NNLCLC– tức đề cập đến bộ phận
tinh túy nhất của nguồn lực con người; thông qua con đường phát triển giáo
dục - đào tạo, khoa học và công nghệ chính là khâu then chốt để nước ta vượt
qua tình trạng nước nghèo, kém phát triển. Tuy nhiên trong các văn kiện mới
dừng ở việc nêu ra chứ chưa có sự giải thích, làm rõ khái niệm này. Hiện nay
các nhà nghiên cứu trong nước đã từng bước tìm hiểu, hình thành nên những
17

quan niệm về NNLCLC. Sau đây là quan niệm NNLCLC của một số nhà
nghiên cứu:
GS. TSKH Phạm Minh Hạc cho rằng: “NNLCLC là đội ngũ nhân lực
có trình độ và năng lực cao, là lực lượng xung kích tiếp nhận chuyển giao
công nghệ tiên tiến, thực hiện có kết quả việc ứng dụng vào điều kiện nước ta,
là hạt nhân đưa lĩnh vực của mình đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa được
mở rộng theo kiểu vết dầu loang bằng cách dẫn dắt những bộ phận có trình độ
và năng lực thấp hơn, đi lên với tốc độ nhanh”.[31, tr.148]
GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn đưa ra khái niệm “một nguồn nhân lực

mới” mang tinh thần khái niệm NNLCLC để chỉ “một lực lượng lao động có
học vấn, có trình độ chuyên môn cao và nhất là khả năng thích ứng nhanh với
những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất”.[10, tr.185]
Tác giả Đỗ Văn Dạo cho rằng: NNLCLC là “bộ phận lao động xã hội
có trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao; có kỹ năng lao động giỏi và
có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ
sản xuất; có sức khỏe và phẩm chất tốt, có khả năng vận dụng sáng tạo những
tri thức, những kỹ năng đã được đào tạo vào qúa trình lao động sản xuất nhằm
đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao” [12, tr.29-32].
TS. Nguyễn Hữu Dũng, coi: “ Nhân lực chất lượng cao là khái niệm để
chỉ một con người, một con người lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về
chuyên môn kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại
lao động về chuyên môn kỹ thuật nhất định (trên đại học, cao đẳng, công nhân
kỹ thuật lành nghề)”[14, tr.20]
Theo TS. Lê Thị Hồng Điệp, NNLCLC có thể hiểu là một bộ phận của
nguồn nhân lực nói chung; “bao gồm những người lao động qua đào tạo được
cấp bằng, chứng chỉ của các bậc đào tạo và có khả năng đáp ứng những yêu
cầu phức tạp của công việc tương ứng với trình độ được đào tạo (trừ một số
trường hợp đặc biệt không qua đào tạo) từ đó tạo ra năng suất và hiệu quả cao
18

trong công việc, có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng và phát triển
của mỗi đơn vị nói riêng và toàn xã hội nói chung”. [25, tr.68]
Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm thống nhất cũng như những tiêu
chí cơ bản để xác định thế nào là NNLCLC. Nhưng nhìn chung khái niệm
NNLCLC được các nhà nghiên cứu tiếp cận theo hai cách phổ biến sau:
Thứ nhất, cách tiếp cận mang tính định tính. Tức là định nghĩa
NNLCLC dựa trên hiệu quả năng suất lao động của người lao động, có khả
năng đáp ứng những yêu cầu phức tạp của công việc, từ đó tạo ra năng suất và
hiệu quả cao trong công việc, có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng

và phát triển của cộng đồng nói riêng và cho toàn xã hội nói chung.
Định nghĩa về NNLCLC nêu trên thiên về mặt định tính, giúp chúng ta
có thể trả lời một cách lý thuyết: NNLCLC bao gồm những người lao động có
khả năng như thế nào trong lực lượng lao động. Tuy vậy trong bối cảnh thực
tế ở Việt Nam hiện nay, khi những tiêu chí đánh giá khả năng của người lao
động chưa được lượng hóa thì dựa vào những định nghĩa này, chúng ta sẽ rất
khó khăn trong việc thống kê bộ phận lao động chất lượng cao.
Thứ hai, cách tiếp cận theo định lượng. Định nghĩa NNLCLC dựa trên
trình độ được đào tạo của nguồn nhân lực. NNLCLC bao gồm những người
lao động qua đào tạo, đó là những người lao động được đào tạo trong hệ
thống giáo dục quốc dân thống nhất (hệ thống giáo dục nghề nghiệp đào tạo
lao động kỹ thuật và hệ thống giáo dục cao đẳng, đại học, sau đại học), đào
tạo lao động chuyên môn được cấp bằng, chứng chỉ của các bậc đào tạo. Bộ
phận lao động này được gọi chung là lao động chuyên môn kỹ thuật. Tuy
nhiên, khái niệm “lao động qua đào tạo” khá phức tạp vì hiện nay có rất nhiều
hình thức đào tạo khác nhau. Học nghề ngắn hạn hay học cao đẳng, đại học
đều có thể gom vào khái niệm “lao động qua đào tạo”. Nếu coi NNLCLC là
lao động qua đào tạo thì sẽ có một sự phân hóa khá lớn về trình độ của nguồn
nhân lực này.
19

Dẫn đến cách hiểu định lượng hẹp hơn, coi NNLCLC là bộ phận nhân
lực có trình độ đại học, cao đẳng, nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý và hoạch
định chính sách, nguồn nhân lực khoa học – công nghệ, đội ngũ giảng viên
các trường đại học, cao đẳng… Còn có một cách hiểu hẹp hơn nữa chỉ xem
những người có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ là NNLCLC.
Cách tiếp cận này mặc dù vẫn còn bộc lộ những nhược điểm nhất định
nhưng cho phép ta thống kê một cách tương đối chính xác NNLCLC hiện có
đã được lượng hóa bằng các văn bằng, chứng chỉ.
Như vậy, chưa có sự thống nhất về khái niệm NNLCLC. Ở cả hai cách

hiểu định tính và định lượng đều có những hạn chế. Tuy nhiên, một cách tổng
quát thì có thể hiểu rằng, NNLCLC là lực lượng lao động có khả năng đáp
ứng yêu cầu cao của thực tiễn. Họ được đặc trưng bởi trình độ học vấn và
trình độ chuyên môn cao, có khả năng nhận thức, tiếp thu nhanh chóng những
kiến thức mới, có năng lực sáng tạo, biết vận dụng thành tựu khoa học và
công nghệ vào thực tiễn. Họ có phẩm chất công dân tốt, có đạo đức nghề
nghiệp và đem lại năng suất, chất lượng hiệu quả lao động cao hơn hẳn so với
nguồn nhân lực phổ thông. Ngoài ra một bộ phận nhỏ không qua đào tạo
chính thức (ví dụ trường hợp của các nghệ nhân) nhưng có khả năng đáp ứng
tốt những yêu cầu của một số ngành nghề đặc biệt cũng được thống kê trong
NNLCLC.
Trong luận văn, tôi tiếp cận khái niệm “nguồn nhân lực chất lượng cao”
theo cách hiểu định lượng, như quan điểm xem “Nguồn nhân lực chất lượng
cao là một bộ phận của nguồn nhân lực nói chung bao gồm những người có
trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên, đang làm việc trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, có những đóng góp cho sự phát triển của cộng
đồng nói riêng và toàn xã hội nói chung”[48, tr.41]. Đặc điểm của nguồn
nhân lực trình độ cao theo cách hiểu định lượng này là đội ngũ này được
tuyển chọn và đào tạo bài bản qua các thiết chế giáo dục (các bậc học), có
tinh thần làm chủ và sáng tạo, thường được gọi là đội ngũ trí thức. Nguồn

×