Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

CÁC PHƯƠNG PHÁP CHỦ yếu của QUẢN lý KINH DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.62 KB, 21 trang )

CÁC PHƯƠNG PHÁP CHỦ YẾU CỦA QUẢN LÝ KINH DOANH
A.LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, người quản lý có
thể coi là một vị tướng chỉ huy, không có một người quản lý kinh tế
nào lại không có khát vọng thành công và mong muốn trở thành
người quản lý giỏi nhưng ý tưởng đó không dễ gì thực hiện được nếu
như người quản lý kinh tế đó không có trình độ năng lực, kỹ sảo.
Cũng như người quản lý phải hiểu rõ thực chất của các phương pháp
quản lý được áp dụng hiện nay ở nước ta cho các doanh nghiệp và
hiểu được rồi cũng cần phải có kinh nghiệm để thực hiện tốt các
phương pháp quản lý phù hợp với doanh nghiệp của mình để làm sao
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao.
1
B.NỘI DUNG
I) CÁC PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ NÓI CHUNG:
Phương pháp quản lý là tổng thể các thức tác động có thể và có
những chủ định của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý để đạt được
mục tiêu đề ra và điều này đi liền với các bước thăng trầm của doanh
nghiệp . Từ xưa tới nay, nhà quản lý thành công đều phải thông qua
nhiều sách lược và các biện pháp để đưa doanh nghiệp của mình phát
triển. Có nhiều cách phân loại quản lý theo tiêu chí khác nhau tuỳ góc
độ của nhà nghiên cứu. Trong các căn cứ nội dung và cơ chế hoạt
động quản lý chia thành:
- Các phương pháp quản lý trong nội bộ doanh nghiệp
Các phương pháp cạnh tranh với các đối thủ
- Các phương pháp quan hệ với bạn hàng*( đối tác)
- Các phương pháp quan hệ với các cơ quan quản lý nhà nước
1) Các phương pháp quản lý trong nội bộ doanh nghiệp:
a) Tác động lên con người: Bằng các phương pháp hành chính, các
phương pháp kinh tế và các phương pháp giáo dục.


*Phương pháp hành chính: Là phương pháp quản lý dùa trên cơ sở
các mối quan hệ về tài chính và kỷ luật của doanh nghiệp. Đặc trưng
cơ bản của phương pháp hành chính là mọi người phải thực hiện
2
thông qua điều kiện các mệnh lệnh, chỉ thị, quy chế…, mọi sự vi
phạm phải được xử lý kịp thời, thích đáng. Phương pháp hành chính
đóng một vai trò rất quan trọng, không thể thiếu trong hoạt động quản
lý vì nó xác lập trật tự, kỷ cương đối với hoạt động của mọi bộ phận,
cá nhân trong doanh nghiệp.
*Phương pháp kinh tế: Là phương pháp tác động vào mọi người lao
động thông qua các biện pháp kinh tế. Khi sử dụng phương pháp kinh
tế phải vận dụng đúng đắn các phạm trù, đòn bẩy kinh tế, phải giải
quyết thảo đáng mối quan hệ về lợi Ých giữa chủ sở hữu và ngưòi
kinh doanh, giữa chủ thể và khách thể quản lý. Muốn vậy, phải tính
giới hạn của từng công cụ, đòn bẩy kinh tế, phải ưu tiên sử dụng công
cụ mang tính ổn định, gắn bó với số lượng và chất lượng công việc,
phải chú ý đến các ràng buộc của từng công cụ với mục tiêu phải đạt.
Do lợi Ých là động lực thúc đẩy hoặc kìm hãm năng lực làm việc sáng
tạo của người lao động nên phương pháp kinh tế luôn đóng một vai
trò đặc biệt quan trọng. Với phương pháp kinh tế người quản lý giảm
được nhiều việc điều hành đôn đốc kiểm tra chi li, sự vụ để tập trung
vào các việc cơ bản. Người quản lý doanh nghiệp sử dụng các phương
pháp kinh tế theo các hướng sau:
3
- Để ra những chỉ tiêu cụ thể từng thời gian cho từng bộ phận trong
doanh nghiệp, lấy đó làm chuẩn mực cho việc thưởng phạt về vật
chất.
- Sử dụng các định mức kinh tế, kỹ thuật gắn với đòn bẩy kinh tế
- Thực hiện các chế độ kinh tế có thưởng phạt về vật chất
Phương pháp kinh tế chú trọng vấn đề sau:

- Hoàn thiện hệ thống đòn bẩy
- Thực hiện phân cấp quản lý đúng đắn
- Nâng cao trình độ và năng lực của cán bộ quản lý
*Các phương pháp về giáo dục thuyết phục: Là phương pháp tác
động vào người lao động bằng các biện pháp tâm lý xã hội và giáo
dục thuyết phục. Phương pháp này có đặc trưng là rất uyển chuyển
linh hoạt, không có khuôn mẫu chung và liên quan rất chặt chẽ đến tác
phong và nghệ thuật của chủ thể quản lý. Nó đóng vai trò quan trọng
trong động viên tinh thần quyết tâm sáng tạo, say sưa với công việc
của người lao động, làm cho họ nhận thức rõ cái thiện, cái ác, cái xấu,
cái đẹp và trách nhiệm của họ trước công việc và tập thể.
b) Tác động lên các yếu tố khác của doanh nghiệp:
4
Đó là các phương pháp tác động sâu vào từng yếu tố chi phối các
đầu vào của quá trình kinh doanh như: tài chính, lao động, công
nghệ, vật tư.v….vv……
2) Các phương pháp quản lý tác động lên khách hàng: Đây là
phương pháp phục vụ và kích thích khách hàng, một nhân tố quyết
định đến kết quả kinh doanh
a) Phương pháp điều tra xã hội học:
- Động cơ mua hàng của người tiêu dùng là yếu tố tác động trực
tiếp đến quy mô, cơ cấu và hình thức của nhu cầu: nhu cầu tự
nhiên, trí tưởng tượng tạo ra những Ên tượng mới khi tiếp xúc với
hàng hoá, mong muốn bức thiết được đáp ứng.
- Yếu tố môi trường của người tiêu dùng gồm: sự giao tiếp với
bạn bè về thị hiếu, dư luận người tiêu dùng, cơ cấu gia đình, thành
phần xã hội, trình độ văn hoá, mức thu nhập khả năng mua sắm,
tính tình thãi quen tiêu dùng.
- Về bên bán hàng, có các yếu tố quyết định đến khối lượng
nhu cầu, tính năng hình dáng, chất lượng sản phẩm đem ra bán, giá

cả hiện hành, giá cả của sản phẩm thay thế, các biện pháp và hiệu
quả chiêu thị
5
- Ngoài ra còn có các yếu tố của môi trường vĩ mô: cơ chế
quản lý, quan hệ đối ngoại, sức mua của đồng tiền, sự ổn định
chính trị xã hội.
b) Hoạt động chi tiêu: Là các hoạt động thúc đẩy việc tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp trên thị trường nói chung và thị trường
mục tiêu nói riêng của doanh nghiệp
- Né dung cơ bản của chiêu thị gồm :
+ Chào hàng: Cho nhân viên đưa hàng đến giới thiệu và bán trực tiệp
cho khách hàng.
+Quảng cáo: là tuyên truyền bằng chữ viết, tiếng nói, hình ảnh, sản
phẩm mẫu , thu hót sự chú ý và lôi kéo hành vi mua của người tiêu
dùng.
+ Chiêu hàng: là các biện pháp nhằm yểm trợ bán hàng, bằng nhiều
hình thức độc đáo, công phu như: hội chợ, triển lãm, hội nghị khách
hàng, chiêu đãi, bảo trợ các hoạt động văn hoá, thể thao, từ thiện, bảo
hành sản phẩm…….
3) Các phương pháp tác động đến đối thủ cạnh tranh:
a) Phương pháp cạnh tranh:
- Tính toán mọi khả năng, yếu tè và thủ đoạn để tạo lợi thế cho
sản phẩm của doanh nghiệp chiếm lĩnh và mở rộng thị phần, sử
6
dụng các biện pháp kinh tế, hành chính, tâm lý xã hội thậm chí cả
biện pháp chính trị để giành giật thị trường và khách hàng. Các
phương pháp sử dụng hợp pháp và có lương tâm ( đầu cơ lành
mạnh)
b) Phương pháp thương lượng:
- Thoả thuận giữa các doanh nghiệp để chia sẻ thị trường một

cách ôn hoà các bên cùng có lợi. Thường sử dụng các kỹ thuật tính
toán của lý thuyết trò chơi để lùa chọn chiến lược cạnh tranh, trong
đó giải pháp cần đặt là các phía không cần chi phí chiêu thị nhiều
mà kết quả thu được lợi nhuận bằng nhau, tránh giải pháp quyết
liệt là " mét mất một còn"
c) Các phương pháp né tránh:
- Trong trường hợp doanh nghiệp kém ưu thế rõ ràng thì tìm cách
rút lui khỏi cuộc cạnh tranh không cân sức, chấp nhận chuyển sang
thị trường khác để tồn tại và tìm cơ hội mới. Cũng co khi phải từ
bỏ vài mặt hàng bất lợi để chuyển sang mặt hàng khác, hoặc tạm
thời chịu thua lỗ khi chưa có giải pháp khác
4) Các phương pháp quan hệ với khách hàng:
Bạn hàng là đối tác cung cấp các đầu vào nh nguyên vật liệu,
thiết bị, phụ tùng, bán thành phẩm, thường hợp tác lâu dài với nhau
7
song cũng có cạnh tranh. Phương pháp chủ yếu quan trong quan hệ là
giữ chữ " tín", tôn trọng lẫn nhau, thanh toán sòng phẳng và chia sẻ
khó khăn, song cũng cần tránh sự o Ðp khi gặp bạn hàng bất tín, trục
lợi, không biết điều, giải quyết chủ yếu là quan hệ đa phương tức là có
nhiều bạn hàng với cùng mặt hàng.
5) Các phương pháp quan hệ với cơ quan quản lý nhà nước:
Các cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô sử dụng quyền lực nhà nước
để định hướng , điều tiết, và kiểm soát các hoạt động kinh tế trong
khuôn khổ pháp luật và chính sách. Mặt trái của nó là thể hiện ở hai
khía cạnh: sự chưa hoàn thiện của hệ thống pháp luật- chính sách của
nàh nước cũng như cơ cấu tổ chức, cách thức hoạt động của các cơ
quan quản lý nhà nước hiện đang trong quá trình hoàn thiện. Quá trình
hoàn thiện này, thực chất cũng là quá trình thay đổi, và bất cứ sự thay
đổi nào cũng để có thể có tác động tới phương thức hoạt động của tổ
chức, doanh nghiệp trong nền kinh tế .

II) PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ KINH DOANH VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI HIỆU
QUẢ QUẢN LÝ KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT Nam HIỆN
NAY:
Doanh nghiệp muốn cạnh tranh thì phải hoạt động hữu hiệu và
hiệu quả, điều này phụ thuộc nhiều vào công việc quản lý doanh nghiệp. Từ
8
hơn 10 năm nay, các sinh viên và giám đốc công ty đã học rất nhiều kiến
thức hiện đại về quản lý. Tuy nhiên, nếu cơ chế có phản ứng mang tính bản
năng sinh tồn , đẩy những vật lạ được cấy ghép vào nó thì trong quản lý,
trình độ quản lý doanh nghiệp cũng không cho phép tiếp thu và sử dụng
những kiến thức không tương thích. Mỗi một doanh nghiệp vận động theo
quy luật riêng của nó, tập đoàn hay tổng công ty hoạt động phức tạp và đa
dạng hơn so với công ty nhỏ, vậy để áp dụng một khung các phương pháp
quản lý chung cho tất cả và những đối tượng đặc thù đương nhiên là khiếm
nhưỡng và không tránh khỏi thất bại. Do vậy, mà mỗi doanh nghiệp phải có
phương pháp quản lý đặc thù, một tiêu thức quản lý thích hợp với tính duy
nhất đòi hỏi tính khách quan. Do đó, vấn đề không phải là có kiến thức hiện
đại mà là kiến thức thích hợp, tức là phải lùa chọn, mà muốn làm được thì
phải xác định các đặc điểm của phương pháp quản lý kinh doanh của các
doanh nghiệp ở nước ta.
Mét thời chúng ta lấy mẫu quản lý nông thôn, đặc biệt nông thôn miền
Bắc, làm chuẩn mực cho quản lý xã hội nói chung, kể cả sau đất nước hoàn
toàn giải phóng cái hại đã rõ. Hôm nay, đất nước ta đang ở vào thời điểm
chuyển động hết sức dồn dập, mặc dù tỷ lệ đất nông nghiệp và cư dân nông
thôn vẫn còn cao trong sơ đồ kinh tế quốc gia, song giá trị sản xuất không bì
được với trận địa công nghiệp, dịch vụ, khai thác tiềm năng lòng đất v.v…
9
tuy địa bàn hẹp hơn, lao động Ýt hơn nhiều. Thống kê hàng năm đã cho thấy
điều đó. vậy thì, sự chuyển hoá này là từ một nền kinh tế nông nghiệp thay
đổi dần lên nền kinh tế mang tính chất công nghiệp và bản thân nền kinh tế

nông nghiệp ở nước ta chỉ tồn tại, phát triển khi nó tương tác vói công
nghiệp ở những mức độ nhất định- nói là ở những mức độ nhất định, song là
những mức quyết định. Quản lý một nền kinh tế trong buổi "giao thời" quả
khá phức tạp, đòi hỏi những suy nghĩ, những phân tích thấu đáo. Bây giê
chúng ta chưa quản lý một xã hội công nghiệp - chuyện của một vài thập
niên nữa- nhưng đang quản lý một xã hội trong quá trình công nghiệp hoá
mà một số địa bàn, ngành thực sự đã thuộc lĩnh vực quản lý công nghiệp.
Một nền kinh tế mở phải hoà nhập với bên ngoài đòi hỏi cung cách quản lý
rất khác quản lý nền kinh tế tự cung tự cấp.
- Ngày nay, tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ đã
làm thay đổi bộ mặt thế giới từng ngày, từng giê. Nền kinh tế thế giới cũng
đã bước sang thời kỳ phát triển của nền kinh tế tri thức. Bởi vậy hơn bao giê
hết nhà quản lý doanh nghiệp càng phải hiểu chất lượng doanh nghiệp cao
hay thấp càng phụ thuộc vào 4 nhân tố chính sau: Quản lý, kỹ thuật, tài
chính đặc biệt là nhân sự. Chúng ta ngày càng nhận ra rằng bên cạnh những
tri thức chắc chắn phần lớn những tri thức còn lại của con người là không
chắc chắn vì vậy phải luôn luôn kiểm định lại, hiểu như vậy để thấy rằng
10
tiếp cận phương pháp quản lý một cách thực tế theo quy luật đã khó mà quản
lý được sự vận động của nó càng khó biết bao. Đây là những điều mà hầu
hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa áp dụng một cách đúng đắn có hiệu
quả nhưng cũng có một số doanh nghiệp có phương pháp quản lý tác động
lên con người thành công để cho doanh nghiệp phát triển.
- Còn phương pháp quản lý hành chính trong những năm qua tuy có
nhiều cải tiến nhưng hệ thống tổ chức quản lý hành chính kinh tế của nhiều
doanh nghiệp vẫn còn nhiều ách tắc cho việc điều hành các hoạt động của
công ty và việc thực hiện các chức năng vẫn chưa được rõ ràng, thông suốt,
ngoài ra vẫn còn những doanh nghiệp duy trì nếp làm việc theo kiểu tập
trung bao cấp, tư tưởng ban phát còn nặng nề, tạo điều kiện cho tiêu cực
phát triển. vậy điều này đòi hỏi các nhà doanh nghiệp điều chỉnh lại cơ cấu

và các yếu tố quan trọng để thích hợp với doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp Việt Nam luôn vẫn bình thản, không quá lo âu về
tương lai. Có lẽ do họ vẫn chưa cảm nhận được tình trạng khủng hoảng kinh
tế. Điều này trong một chõng mực nào đó có thể do môi trường thuận lợi mà
họ vẫn tồn tại được, chẳng cần phải nỗ lực nhiều hơn. Nhiều doanh nghiệp
nhà nước thì vẫn trông đợi vào sự trợ cấp của chính phủ nên cũng không cần
quá nỗ lực. Tuy nhiên đến một lúc nào đó mọi điều sẽ thay đổi. Nhiều doanh
nghiệp Việt Nam vẫn " bình chân như vại" xuất phát từ chỗ họ chưa lường
11
hết những thách thức ở phía trước. Năm 2005 tới, khi hội nhập AFTA và
WTO, các doanh nghiệp Việt Nam phải thực sự cạnh tranh mới có thể tồn tại
được. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn quá nhiều vấn đề phải giải quyết
như: công việc quản lý kinh doanh, năng suất, chất lượng, hiệu quả, phát
triển sản phẩm, khai thác thị trường……Để làm được các điều này các
doanh nghiệp phải có một cuộc cách mạng thực sự trong quản lý doanh
nghiệp.
- Các doanh nghiệp Việt Nam không quen nghĩ về quản lý kinh doanh
một cách chiến lược và lâu dài, họ chỉ quan tâm đến việc thu lợi nhanh
chóng
- Doanh nghiệp Việt Nam thiếu quy hoạch phát triển nguồn nhân lực
- Ýt nhà quản lý nào lại nghĩ đến việc nâng cao giá trị và hình ảnh của
doanh nghiệp của mình
=> Những điểm yếu này lại là những yếu tố cơ bản để trở thành doanh
nghiệp toàn cầu, có năng lực cạnh tranh quôc tế. Nhìn chung, các nhà quản
lý thiếu tầm nhìn của một nhà lãnh đạo, thiếu tư duy quản lý quốc tế.
Nền kinh tế phát triển là nền kinh tế có nhiều doanh nghiệp phát triển.
Muốn làm được như vậy thì các doanh nghiệp phải có các phương pháp
quản lý hợp nhất, tốt nhất để có thể nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh:
12
- Trong mét doanh nghiệp, người lãnh đạo được coi là ngọn cờ đầu, như

ngọn đèn hay như người chèo lái cho cả con thuyền. Trong mỗi con người,
khả năng lãnh đạo luôn sẵn có, chúng ta cần có ý thức về nó, xây dựng thành
kỹ năng và phát huy để có một thành công đột phá cho hiện tại và tương
lai.Người quản lý doanh nghiệp thực sự muốn doanh nghiệp của mình phát
triển thì bản thân người đó như chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy phải: " vừa
hồng, vừa chuyên" . Con người là nguồn lực cơ bản nhất của doanh nghiệp.
Vì hiểu rõ sự thành bại của doanh nghiệp phụ thuộc vào con người nên phải
xây dựng một chiến lược phát triển nhân sự. Trình độ năng lực đội ngò cán
bộ công nhân viên nhiều nơi ở một số doanh nghiệp còn hạn chế cần phải
nâng cao để phù hợp với " giai đoạn mới " để luôn "sửa soạn " mét đội ngò
nhân viên kế thừa có tính đột phá bền vững trong tương lai của doanh nghiệp
thông qua hệ thống tuyển mộ, sử dụng, phát huy, xây dựng, tạo lập khả
năng, kỹ xảo mới, đào tạo người lao động dùa trên những tiêu chuẩn về
phẩm chất đạo đức, năng lực làm việc, kết quả cống hiến với những chính
sách tiền lương, tiền thưởng xứng đáng cho những người thực sự làm việc
tốt, mang lại hiệu quả cao trong công việc. Doanh nghiệp cần phải giúp nhân
viên làm việc có phương pháp, khích lệ họ hoàn thành đồng thời tăng thêm
sức sống cho doanh nghiệp thông qua các công việc được hoàn thành để
người lao động trong doanh nghiệp sống và lao động lành mạnh, khoa học,
13
nhân hoà, hợp tác, cùng nhau xây dựng đời sống làm việc thực sự có chất
lượng, có tính nhân văn và nhân bản cao. Đó là cái chân- thiên- mỹ mà trong
mọi thời gian con người hằng mơ ước và phấn đấu đạt tới. Người quản lý
doanh nghiệp phải dám cầu sự thực, dám làm điều phải, để đưa doanh
nghiệp đi đúng hướng với những kế hoạch phát triển ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn. Khi điều hành doanh nghiệp , phải biết tập trung trí tuệ của tập thể
để đưa ra những quyết sách đúng đắn, phải xây dựng thái độ ý thức cộng
đồng, thực hiện quá trình" hữu sản hoá" người lao động trong doanh nghiệp,
phải làm cho doanh nghiệp giống như gia đình. Trong môi trường như vậy
mới có khả năng làm cho ngưòi lao động nảy nở và phát triển ý thức " yêu

doanh nghiệp như gia đình" để xây dựng ý thức làm cho người lao động
trung thành với doanh nghiệp, trung thành với sự nghiệp, trung thành với
cương vị công tác, có tinh thần trách nhiệm làm chủ cao. Người lao động
phải được trang bị đầy đủ khả năng nghề nghiệp và yêu cầu cần thiết cho sự
thành công và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Với mục đích này,
mỗi cá nhân người lao động phải được phép phát triển theo cách thức mà lợi
Ých của cá nhân và tổ chức hoà làm một.
- Chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng và nhà nước chính là
để khuyến khích các doanh nghiệp thích ứng tốt hơn với những thay đổi
trong môi trường công nghệ. sự thay đổi công nghệ tác động tới doanh
14
nghiệp với nhiều khía cạnh khác nhau, đặc biệt nó không tách rời khỏi yếu
tố con người. Hơn nữa, yếu tố con người còn quyết định sự thành công hay
thất bại của những thay đổi lớn trong công nghệ. Vì vậy quản lý có hiệu quả
những thay đổi trong nội bộ doanh nghiệp để đáp lại những yêu cầu và thay
đổi của môi trường. Sự phát triển của công nghệ cũng ảnh hưởng lớn tới cơ
cấu quản lý, chức năng, nhiệm vụ của từng cấp bậc quản lý. Hệ thống thông
tin viễn thông, việc sử dụng rộng rãi hệ thống mạng máy tính đã và đang
làm thay đổi chức năng và mối quan hệ giữa các cấp bậc quản lý. Để thích
ứng với sự thay đổi đó, nhiều khi các nhà quản lý phải thay đổi cả cách nhìn
chứ không đơn giản chỉ là phương pháp và kỹ năng quản lý.
-Thị trường kinh doanh của doanh nghiệp chỉ là khách hàng, doanh
nghiệp chiếm lĩnh thị trường, khai thác thị trường, nâng cao năng lực cạnh
tranh, thực chất của nó là giành được khách hàng. Sản phẩm của doanh
nghiệp phải dùa vào khách hàng đến mua. Lợi nhuận của doanh nghiệp chỉ
thông qua mua sắm của khách hàng mới có khả năng thực hiện. Trong tất cả
các hoạt động kinh doanh, thời gian phản ứng nhanh hơn, thời gian quay
vòng ngắn hơn, và đáp ứng nhanh hơn đối với yêu cầu của khách hàng là
cực kỳ quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với một doanh nghiệp. Vì thu
nhập của toàn xã hội cũng như số lượng những người có thu nhập cao tăng

lên đã và đang làm thay đổi xu hướng tiêu dùng xã hội như: Tốc độ thay đổi
15
hàng hoá sử dụng ngày càng cao kể cả với những sản phẩm có giá trị lớn và
thời hạn sử dụng dài như nhà cửa, xe cộ…." bền" không còn là tiêu chuẩn
hàng đầu lấn át mọi tiêu chuẩn về chất lượng, mẫu mã, danh tiếng sản phẩm
và đặc biệt là dịch vụ phục vụ ngày càng trở nên quan trọng. Thời gian đang
ngày càng trở nên khan hiếm và quý báu. Điều đó đặt ra nhu cầu lớn cho
những sản phẩm " tiết kiệm thời gian " như : máy tính, photocopy,
fastfood…Ngoài ra, đối với nhiều sản phẩm, những dịch vụ khách hàng mua
bán thuận tiện, nhang chóng đang là vũ khí cạnh tranh của nhiều doanh
nghiệp. Nhu cầu ngày càng đa dạng, sản phẩm đáp ứng một nhu cầu cũng
ngày càng đa dạng hơn, tạo nên sự phong phú trên thị trường. Nhờ đó khách
hàng có quyền hơn và họ cũng khó tính hơn trong lùa chọn. Yêu cầu và đòi
hỏi của khách hàng cũng khó khăn hơn. Đầy vừa là cơ hội, vừa là những mối
đe doạ trong kinh doanh. Do vậy, các hoạt động của doanh nghiệp phải được
nhìn nhận như những quá trình nhằm tạo ra các giá trị đích thực cho khách
hàng. Phương pháp định hướng quá trình, khuyến khích việc phân tích, cải
tiến các dòng chảy công việc và tổ chức công việc. Chúng mở ra cách thức
để phát triển doanh nghiệp theo hướng thoả mãn khách hàng. Sự thành công
bền vững của một doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng tạo ra các giá trị
cho những người mà doanh nghiệp đó phục vụ- đó chính là khách hàng.
Những yêu cầu đã xác định hoặc tiềm Èn, các nhu cầu, các đòi hỏi và mong
16
muốn của khách hàng nội bộ và khách hàng bên ngoài phải là những định
hướng của doanh nghiệp, các hoạt động của doanh nghiệp cũng như các
nhân viên của doanh nghiệp đó.
- Kinh doanh thị trường doanh nghiệp thành công hay không ngoài vấn đề
khách hàng ra, còn quyết định bởi sự hiểu biết ủng hộ và hợp tác của bạn
hàng( bạn cung ứng, bạn tiêu thụ, doanh nghiệp hợp tác), giới tài chính, giới
báo chí, chính phủ và xã khu. Quan hệ chung bên ngoài của doanh nghiệp

thuộc vào công việc đưa vào nuôi dưỡng chăm sóc này. Quan hệ chung mà
doanh nghiệp theo đuổi là nâng cao mức độ nổi tiếng và mức độ uy tín về
doanh nghiệp và sản phẩm doanh nghiệp. Mức độ nổi tiếng cùng mức độ uy
tín danh dự chính là biểu hiên tập trung của hiểu biết, ủng hộ của bên ngoài
đối với doanh nghiệp. Mối quan hệ đối tác là điều kiện cơ bản mang đến
thành công của bất kỳ một doanh nghiệp nào.
- Sù thay đổi trong hoạt động kinh doanh của đổi thủ cạnh tranh như cải
tiến công nghệ, thay đổi chiến lược Marketing, đầu tư mở rộng hoặc nâng
cấp doanh nghiệp của họ trong yêu cầu của khách hàng cũng như khả năng
của người cung ứng thường đòi hỏi doanh nghiệp có sù thích ứng phù hợp.
Sự cạnh tranh đòi hỏi phải cải tiến và đổi mới không ngừng tất cả các mặt
của các hoạt động. Doanh nghiêp là một bộ máy để phát triển, mở rộng và
đổi mới kinh tế, nó đòi hỏi công việc cải tiến phải xuyên suốt trong doanh
17
nghiệp đó và phải tạo ra văn hoá nhằm khuyến khích sáng tạo và những ý
tưởng mới, không ngừng cung cấp cho xã hội những nhu cầu mới, khác
trước. Drucker nói: " mét doanh nghiệp không nhất thiết phải phát triển hơn
trước nhưng chất lượng kinh doanh của nó phải luôn được cải tiến tốt hơn".
Điều này có nghĩa là một doanh nghiệp không thể giới hạn ở chỗ cung cấp
những sản phẩm dịch vụ cho xã hội, mà còn phải cung cấp những sản phẩm
dịch vụ mới hơn, tốt hơn cho xã hội. Tất cả các doanh nghiệp đều phải coi
việc sáng tạo cái mới cũng giống như việc tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ
trên thị trường, không chỉ là chức năng của một bộ phận cá biệt mà là môt
chức năng cơ bản có liên quan đến các hoạt động và bộ phận của doanh
nghiệp.
- Các qúa trình hoạt động diễn ra trong mét doanh nghiệp phải được gắn
kết chặt chẽ với nhau bằng một hệ thống. Đầu ra của quá trình sau là kết quả
của quá trình trước quản lý hệ thống nhằm giúp cho doanh nghiêp đảm bảo
tính thống nhất của các mục tiêu và các hoạt động cũng như đạt được chúng.
Người quản lý phải tạo ra mét " thể thống nhất của sản xuất" sức sản xuất

của thể thống nhất này phải lớn hơn sức sản xuất của các bộ phận cộng lai.
Xuất phát từ ý nghĩa trên mà người lãnh đạo vừa là một nhạc sĩ, vừa là chỉ
huy dàn nhạc, đồng thời lại là người cải cách điểm yếu tồn tại trong doanh
nghiệp đồng thời phải làm cho các nguồn tài nguyên đặc biệt là nguồn nhân
18
lực được phát huy. Mỗi khi đưa ra một quyết sách hoặc áp dụng một hành
động, người lãnh đạo phải nghĩ đến lợi Ých trước mắt và lợi Ých lâu dài.
- Mỗi doanh nghiệp đều là bộ máy của xã hội và tồn tại vì xã hội. Doanh
nghiệp không thể tự đánh giá bản thân mà chỉ có thể căn cứ vào ảnh hưởng
của nó đối với xã hội để đánh giá mình đòi hỏi phải có sự so sánh với các
doanh nghiệp khác đang đứng đầu trong lĩnh vực tương tự mà doanh nghiệp
đó đang hoạt động.
19
C.KẾT LUẬN
Quá trình cạnh tranh toàn cầu, việc sử dụng rộng rãi máy tính và
thông tin viễn thông, các chính sách mở rộng tự do trong kinh doanh
của nhiều chính phủ , chính sách đổi mới mở cửa, chuyển nền kinh tế
tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, có sự điều tiết của nhà nước đang vừa là động lực thúc đẩy nền
kinh tế vừa là những cú sốc lớn cho nhiều doanh nghiệp. Vì vậy, các
phương pháp quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp rất đa dạng,
phải luôn luôn thay đổi để thích ứng với điều kiện trong từng tình
huống tuỳ thuộc đặc điểm của từng đối tượng quản lý cũng như năng
lực kinh nghiệm của nhà quản lý. Sự lùa chọn phương pháp để sử
dụng không thể tuỳ tiện theo cảm tình chủ quan mà cần tỉnh táo nắm
chắc tình hình thực tế kịp thời điều chỉnh , bổ sung để khắc phục các
trở ngại phát sinh chưa lường trước, quản lý có hiệu quả nhất khi biết
lùa chọn đúng và kết hợp, điều chỉnh linh hoạt các phương pháp quản
lý. Đó là cầu nối đưa các chiến lược và kế hoạch vào thực tiễn, là
động lực làm nhạy cảm hoá từng cá nhân, từng tổ chức với môi

20
trường và vì vậy là một trong những điều kiện đảm bảo sự phát triển
của từng doanh nghiệp.
Để viết về các phương pháp quản lý được áp dụng trong doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay thì rất rộng và có Ýt thời gian nghiên cứu nên còn
nhiều thiếu sót mong được sự góp ý của các thầy cô giáo để chủ đề
được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
21

×