Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Ứng dụng phương pháp hình thức hóa trong việc thẩm định tính logic của các mệnh đề trong các văn bản pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 110 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***





NGUYỄN THỊ THU



ỨNG DỤNG PHƢƠNG PHÁP HÌNH THỨC HÓA
TRONG VIỆC THẨM ĐỊNH TÍNH LOGIC CỦA
CÁC MỆNH ĐỀ TRONG CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT



LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Triết học






Hà Nội - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***




NGUYỄN THỊ THU


ỨNG DỤNG PHƢƠNG PHÁP HÌNH THỨC HÓA
TRONG VIỆC THẨM ĐỊNH TÍNH LOGIC CỦA
CÁC MỆNH ĐỀ TRONG CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80



Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS Nguyễn Thuý Vân





Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thuý Vân


Học viên

Nguyễn Thị Thu


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc
nhất đến PGS. TS Nguyễn Thuý Vân, người đã hết lòng giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn thạc sỹ.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các quý thầy, cô trong và ngoài trường
đã tạo điều kiện, nhiệt tình giúp đỡ tôi. Đặc biệt,tôi xin cảm ơn các thầy cô
trong Khoa Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội nhân văn đã cung cấp
cho tôi nền tảng kiến thức quý báu và sự giúp đỡ tận tình để tôi có thể hoàn
thành luận văn của mình.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình và cơ quan đã
luôn tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học cũng như thực hiện
luận văn.
Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 2014

Học viên

Nguyễn Thị Thu


1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
1. Tính cấp thiết của đề tài 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 9
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 10
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 10
6. Ý nghĩa của đề tài 10
7. Kết cấu 11
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
PHƢƠNG PHÁP HÌNH THỨC HOÁ VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT 12
1.1. Một số vấn đề lý luận về phƣơng pháp hình thức hóa 12
1.1.1. Phương pháp hình thức hoá và những yêu cầu của phương pháp
hình thức hóa 12
1.1.2. Phương pháp hình thức hóa trong sự phát triển của logic học 19
1.1.3. Sự biểu hiện phương pháp hình thức hoá qua một số hình thức cơ
bản của tư duy 25
1.2. Một số vấn đề lý luận về văn bản pháp luật 35
1.2.1. Khái niệm văn bản pháp luật 35
1.2.2. Những đặc điểm cơ bản của văn bản pháp luật 38
1.2.3. Một số yêu cầu về nội dung và ngôn ngữ văn bản pháp luật nhìn
từ góc độ logic học 41
1.3. Tính tất yếu của việc ứng dụng phƣơng pháp hình thức hóa vào
kiểm tra mức độ hoàn thiện của các văn bản pháp luật 52
1.3.1. Những yêu cầu về mặt logic để xác định chất lượng của các văn
bản pháp luật 52

2
1.3.2. Tầm quan trọng của việc ứng dụng phương pháp hình thức hóa
vào kiểm tra tính hoàn thiện của hệ thống văn bản pháp luật 59
Tiểu kết chƣơng 1 63
CHƢƠNG 2. TÍNH LOGIC CỦA CÁC MỆNH ĐỀ TRONG VĂN
BẢN PHÁP LUẬT VÀ VIỆC ỨNG DỤNG PHƢƠNG PHÁP HÌNH
THỨC HOÁ VÀO THẨM ĐỊNH TÍNH LOGIC CỦA CÁC MỆNH

ĐỀ ĐÓ 64
2.1. Tính logic của các mệnh đề trong văn bản pháp luật 64
2.1.1. Yêu cầu gắn kết hình thức của các mệnh đề văn bản pháp luật
với nội dung cần phản ánh 64
2.1.2. Yêu cầu đảm bảo tính nhất quán, tính không mâu thuẫn, tính xác
định và tính có căn cứ trong các văn bản pháp luật. 70
2.2. Các bƣớc dùng phƣơng pháp hình thức hoá để thẩm định tính
logic của mệnh đề trong các văn bản pháp luật 78
2.2.1. Chuyển đổi nội dung của các mệnh đề trong văn bản pháp luật
sang hình thức tư tưởng và mã hoá chúng 78
2.2.2. Dùng lý thuyết của phương pháp hình thức để kiểm tra tính đúng
đắn của nội dung và hình thức thể hiện của văn bản 82
Tiểu kết chƣơng 2 100
KẾT LUẬN 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103


3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỷ XXI, thế giới bước vào giai đoạn phát triển cao của tri thức khoa học
và công nghệ. Cùng với sự xâm nhập lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa… trong quá trình toàn cầu hóa thì một sự xâm nhập khác cũng đang
diễn ra giữa các khoa học, các ngành khoa học khác nhau, giữa các lĩnh vực tri
thức khác nhau của nhân loại. Sự xâm nhập này một mặt giúp các khoa học gạt bỏ
những biên giới tuyệt đối giữa chúng, mặt khác nó giúp cho con người khắc phục
được những hạn chế của mỗi một ngành khoa học khi giải quyết những vấn đề hoàn
toàn mới mà bản thân mỗi một ngành khoa học không thể giải quyết được. Xu thế
liên kết giữa các lĩnh vực tri thức, hay nghiên cứu liên ngành là một xu thế tất
yếu của thời đại. Nó phản ánh đúng sự phát triển khách quan của lịch sử và tư

duy con người. Đã đến giai đoạn mà mỗi khoa học độc tôn trong phạm vi nhất
định nào đó phải nhường chỗ cho thời kỳ giao thoa và liên kết giữa các lĩnh vực
tri thức khác nhau.
Trong bối cảnh đó, sự giao thoa giữa logic học và luật học cũng không ngoại
lệ. Sự liên kết và bổ sung giữa hai lĩnh vực khoa học này thể hiện sự liên kết tất
nhiên và là sự bổ sung cần thiết cho nhau ở hai khía cạnh cơ bản: thứ nhất, logic
học giúp tinh chỉnh tính hợp logic và đúng đắn của các văn bản pháp luật; thứ
hai, chính sự vận động của thực tiễn và những vấn đề mới liên tục phát sinh
trong lĩnh vực pháp luật đặt ra yêu cầu các nhà logic học nhiệm vụ xây dựng các
phương pháp tư duy khoa học mới để giúp con người tiến hành các hoạt động
nhận thức và cải tạo thế giới có hiệu quả.
Trong lĩnh vực luật pháp, hoạt động xây dựng và ban hành các văn bản pháp
luật là hoạt động chủ yếu. Văn bản pháp luật có tác động trực tiếp và sâu sắc đến
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Do đó, nâng cao chất lượng của các văn bản
pháp luật được xác định là một trong những biện pháp quan trọng để tăng cường
năng lực hoạt động của các cơ quan nhà nước và nâng cao tính hiệu quả của việc
áp dụng các văn bản pháp luật trong thực tiễn đời sống. Cùng với đó, sự ổn định
và phát triển của xã hội có được hay không là phụ thuộc phần lớn vào tính hiệu

4
quả và đúng đắn của việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Để thực hiện
chức năng đó, logic học chiếm một vai trò vô cùng quan trọng. Nó đóng vai trò như
là công cụ để thẩm định tính đúng đắn của các văn bản pháp luật về mặt logic cũng
như sự đúng đắn, phù hợp của văn bản pháp luật đó với hiện thực cuộc sống.
Trên thực tế, nhiều văn bản pháp luật được xây dựng ở nước ta trong những
năm gần đây còn nhiều điểm bất cập như: thiếu tính thực tiễn, không chặt chẽ,
chính xác, mâu thuẫn với những văn bản pháp luật đã ban hành hoặc không điều
chỉnh được hết những vấn đề mới nảy sinh trong sự vận động của các quan hệ xã
hội v.v. Vì thế, khi áp dụng vào thực tiễn, những văn bản pháp luật này khó đi
vào cuộc sống, hiệu quả áp dụng không cao. Nhiều mệnh đề trong các văn bản

không rõ ràng dẫn đến những cách hiểu và áp dụng khác nhau. Đây chính là
những “lỗ hổng” của pháp luật, là cơ hội để những người thực hiện pháp luật có
thể lách luật theo cách có lợi để đạt được mục đích của mình… Điều đó cho thấy
hệ thống văn bản pháp luật ở nước ta hiện nay còn kém hiệu quả, chưa toàn diện,
chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Vậy làm thế nào để tạo ra được
những văn bản pháp luật có tính chuyên nghiệp cao, đảm bảo tính hiệu quả khi đi
vào cuộc sống? Một trong những cách thức để giải quyết vấn đề này là vận dụng đúng
đắn các phương pháp và quy luật logic vào việc xây dựng và thẩm định tính logic của
các văn bản pháp luật, cụ thể là ứng dụng phương pháp hình thức hóa. Việc hình thức
hoá các văn bản pháp luật có tác động rất quan trọng, nó vừa giúp kiểm tra sự tường
minh, chính xác về mặt nội dung của các văn bản pháp luật, đồng thời nó đảm bảo sự
cụ thể hóa các văn bản luật thành các văn bản dưới luật được chính xác, cụ thể và nhờ
thế đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình ban hành và thực hiện.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Ứng dụng phương pháp hình thức hoá
trong việc thẩm định tính logic của các mệnh đề trong các văn bản pháp luật” để
nghiên cứu. Theo chúng tôi, đây không chỉ là một nhu cầu cấp thiết về mặt lý luận
mà còn là một đòi hỏi có tính nguyên tắc của thực tiễn xây dựng pháp luật ở nước ta
hiện nay. Điều này sẽ ảnh hưởng quan trọng tới quá trình xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ phát triển mới.


5
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc ứng dụng phương pháp hình thức hoá vào việc thẩm định tính logic của
các mệnh đề trong các văn bản pháp luật là một nhu cầu cấp thiết. Nhưng đây là
lĩnh vực khá mới mẻ ở Việt Nam nên chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp
về vấn đề này, chỉ có những công trình nghiên cứu có khả năng hỗ trợ gián tiếp
nằm rải rác trong hai lĩnh vực nghiên cứu:
- Những công trình nghiên cứu trong lĩnh vực luật pháp và các văn bản
pháp luật

Lĩnh vực luật học nghiên cứu rất nhiều vấn đề, nhưng trong phạm vi nghiên
cứu của mình, luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến văn bản
pháp luật, các luật và các bộ luật cụ thể:
+ Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội,
Nhà xuất bản Công an nhân dân. Giáo trình đã lý giải được những vấn đề cơ bản về
văn bản pháp luật và những vấn đề thuộc về kỹ thuật pháp lý trong việc xây dựng
văn bản pháp luật, bao gồm: kỹ thuật xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, xây
dựng văn bản áp dụng pháp luật, xây dựng văn bản hành chính và kiểm tra, xử lý
văn bản hành chính. Cách tiếp cận của giáo trình này đã góp phần nâng cao chất
lượng của văn bản pháp luật hướng tới việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh.
+ “Kỹ thuật lập pháp” của tác giả Phan Mạnh Hân, Nhà xuất bản Pháp lý,
xuất bản năm 1985. Trong cuốn sách này, tác giả đã trình bày những vấn đề về
kỹ thuật lập pháp, văn bản pháp quy, các trình bày các quy phạm pháp luật, ngôn
ngữ, cách hành văn và tính logic của các văn bản pháp quy và hệ thống hóa các
văn bản pháp quy. Đặc biệt trong phần IV, tác giả đã phân tích khá chi tiết những
yêu cầu về cách dùng chữ, cách đặt vấn đề và bố cục rõ ràng, mạch lạc khi xây
dựng văn bản pháp quy.
+ Luận án “Một số đặc điểm của ngôn ngữ luật pháp tiếng Việt” cuả NCS. Lê
Tiến Hùng. Luận án đã tập trung miêu tả các đặc điểm của ngôn ngữ luật pháp
như: từ vựng, ngữ pháp và văn bản trong văn bản luật pháp tiếng Việt trong sự so
sánh với văn bản luật pháp tiếng Anh. Đồng thời tác giả cũng đã trình bày những

6
nét khái quát nhất về tình hình làm luật pháp và hệ thống pháp luật Việt Nam, từ
đó chỉ ra những hạn chế còn tồn tại trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
+ Đặc biệt, cuốn sách “Soạn thảo luật pháp vì tiến bộ xã hội dân chủ - sổ tay
cho nhà soạn thảo luật” do Ann Seidman, Robert B. Seidman và Nail
Abeyesekere biên soạn, Nhà xuất bản Kluwer Law International ấn hành và được
xuất bản ở Việt Nam bởi Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Nội dung cuốn sách đề
cập đến những vấn đề về phương pháp và kỹ thuật lập pháp, xác định vai trò và

trách nhiệm của nhà soạn thảo luật, nhwungx yếu tố cần quan tâm trong trình tự
lập pháp, quy trình xây dựng dự luật một cách khoa học… Cuốn sách đã trình
bày những kỹ năng soạn thảo văn bản cụ thể giúp các nhà làm luật có thể xây dựng
được một đạo luật có hiệu quả.
+ “Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay” của Tiến sĩ Luật
học Ngô Huy Cương. Trong công trình này, tác giả đã trình bày khá toàn diện
các vấn đề lớn liên quan đến công cuộc cải cách pháp luật. Chúng ta có thể tìm
thấy trong cuốn sách này các quan niệm về cải cách pháp luật, kinh nghiệm của
một số công cuộc cải cách pháp luật lớn trên thế giới, sự cần thiết cải cách pháp
luật, các khiếm khuyết của hệ thống pháp luật của nước ta và các nguyên nhân,
các định hướng lớn, cách thức cải cách, chiến lược lập pháp, các quan điểm cải
cách cụ thể trong cả lĩnh vực luật tư và luật công.
- Những công trình nghiên cứu trong lĩnh vực lôgíc học, toán học nghiên
cứu về phương pháp hình thức hoá và sự ứng dụng tư duy logic trong một số
lĩnh vực của đời sống xã hội:
+ Giáo trình Lôgíc học đại cương của Vương Tất Đạt; Giáo trình Lôgíc hình
thức do GS. Bùi Thanh Quất làm chủ biên; Lôgíc học đại cương của PGS.TS.
Nguyễn Anh Tuấn và PGS.TS. Nguyễn Thuý Vân. Trong những giáo trình này,
các tác giả đã trình bày đầy đủ, sâu sắc những vấn đề cơ bản của Lôgíc học hình
thức, phương pháp hình thức hoá cũng như những hình thức tư duy lôgíc. Từ đó,
người đọc được cung cấp đầy đủ, chi tiết những kiến thức cơ bản về các hình
thức của tư duy như: khái niệm, phán đoán, suy luận cũng như những cách suy
diễn để đạt được tri thức đúng đắn phù hợp với thực tiễn khách quan.

7
+ “Mấy vấn đề về logic trong giảng dạy toán học” của tác giả Hoàng Chúng.
Cuốn sách này đề cập đến mấy vấn đề đại cương về khái niệm, phán đoán, suy
luận và chứng minh diễn dịch dành cho giáo viên dạy toán học. Đặc biệt, cuốn
sách đã lý giải nguyên nhân vì sao logic toán lại đóng vai trò quan trọng trong
việc trình bày logic hình thức và ý nghĩa thực tiễn cực kỳ quan trọng của logic

toán trong khoa học kỹ thuật hiện đại.
+ “Các bài toán về suy luận logic” của Trần Diên Hiển. Trong cuốn sách này,
tác giả đã trình bày phương pháp giải các bài toán về suy luận logic mà không
dùng công cụ của logic mệnh đề và các bài toán dùng công cụ của logic mệnh đề.
Trong phần trình bày về phương pháp giải các bài toán bằng công cụ của logic
mệnh đề, tác giả đã đề cập đến các phép toán trên mệnh đề như phép phủ định,
phép hội, phép tuyển, phép kéo theo, phép tương đương cũng như các bước giải
một bài toán dùng công cụ của logic mệnh đề và một số ứng dụng của logic
mệnh đề trong kỹ thuật lắp ráp các mạch điện và thiết bị trong nhà máy. Từ đấy
cho thấy lĩnh vực ứng dụng của phương pháp hình thức hóa rất đa dạng và nó có
vai trò lớn trong nhận thức khoa học.
+ “Logic qui nạp và vai trò của nó trong nhận thức khoa học” của tác giả
Nguyễn Gia Thơ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Cuốn sách
này đã đề cập đến ba vấn đề lớn: Vấn đề thứ nhất: Những nguyên nhân dẫn đến
sự ra đời của logic qui nạp phi cổ điển. Vấn đề thứ hai: Những khuynh hướng
phát triển của logic qui nạp phi cổ điển và vấn đề thứ ba: Ý nghĩa của logic qui
nạp trong nhận thức khoa học. Ngoài ra, trong cuốn sách này, chúng ta còn tìm
thấy ý nghĩa của logic học nói chung đối với nhận thức khoa học, đặc biệt là sự
phát triển của các hình thức tư duy trong lịch sử logic học.
+ Luận án tiến sỹ “Mối quan hệ giữa qui nạp và diễn dịch trong nhận thức
khao học” của tác giả Hà Thiên Sơn. Luận án này đã làm rõ thế nào là qui nạp,
diễn dịch, sự xuất hiện và quá trình phát triển của qui nạp và diễn dịch trong lịch
sử triết học giai đoạn Triết học Tây Âu trước Mác. Đồng thời, tác giả luận án đã
chỉ ra những hạn chế của hai phương pháp này và phân tích mối quan hệ biện

8
chứng giữa qui nạp và diễn dịch trong nhận thức khoa học. Từ đó, xem xét vai trò
của chúng cũng như mối quan hệ biện chúng của chúng trong quá trình xây dựng giả
thuyết, lý thuyết khoa học và phương pháp hình thức hóa.
+ Luận án “Logic vận động của khái niệm trong tư duy lý luận” của tác giả

Nguyễn Thanh Tân. Luận án đã phân tích các quy luật và chiều hướng có tính
quy luật hợp thành logic chủ yếu của sự vận động khái niệm trong tư duy lý luận,
làm rõ thêm lập trường duy vật biện chứng trong việc giải đáp những vấn đề lý
luận nhận thức và logic học về tư duy và khái niệm góp phần tìm hiểu cơ sở logic
của sự đổi mới, phát triển khái niệm và tư duy lý luận như một chiều cạnh khác
của hình thức tư duy dưới góc độ tư duy biện chứng
+ Nghiên cứu về nội dung cơ bản của tư duy hình thức, cần phải kể đến
những bài viết của tác giả Vũ Văn Viên như:
“Logic hình thức và tư duy chính xác”, in trên tạp chí Triết học số 4, tháng 12,
năm 1991. Trong bài báo này, tác giả đã trình bày vai trò của logic hình thức – khoa
học về tư duy chính xác và sự cần thiết phải học tập và nghiên cứu logic hình thức.
“Logic hình thức và phương pháp toán học ”, in trên tạp chí Triết học số 9
tháng 9 năm 2000. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan hệ giữa logic
hính thức và phương pháp toán học, từ đó làm rõ bản chất của phương pháp toán
học với tư cách là công cụ của tư duy duy lý và những biểu hiện của phương
pháp hình thức hóa thông qua mối quan hệ này.
“Vấn đề chính xác hóa các quy luật của logic học hình thức”, in trên tạp chí
Triết học số 6, tháng 12 năm 1997. Trong bài viết này, tác giả đã xem xét một số
vấn đề liên quan đến tính chính xác khi trình bày các quy luật cơ bản của logic
học hình thức trong các hình thức của tư duy.
“Tư duy logic bộ phận hợp thành của tư duy khoa học”, in trên tạp chí Triết
học số 12 tháng 12 năm 2006. Trong bài viết này, tác giả đã luận giải để làm rõ
tư duy logic là một bộ phận hợp thành của tư duy khoa học. Tư duy logic cùng
thống nhất với tư duy biện chứng tạo ra tư duy khoa học chính xác, trong đó, tư
duy tư duy biện chứng là phương pháp luận chỉ đạo còn tư duy logic là tổng hợp

9
các thao tác logic. Trên cơ sở luận chứng vai trò của tư duy logic trong tư duy
khoa học, tác giả khẳng định ý nghĩa quan trọng của việc học tập logic học –
giúp con người không những nắm vững, mà còn rèn luyện các ký năng, kỹ xảo tư

duy, nâng cao khả năng vận dụng các quy luật, quy tắc của logic vào hoạt động
nhận thức như vận dụng các tri thức vào hoạt động thực tiễn.
+ “Ứng dụng lôgíc hình thức (trong quản lý hành chính nhà nước)” của tác
giả Nguyễn Anh Tuấn. Công trình đã trình bày được các vấn đề liên quan đến
lôgíc học, các hình thức cơ bản của lôgíc hình thức và từ đó chỉ ra vai trò của
lôgíc hình thức trong quản lý hành chính và một số lỗi lôgíc hình thức có thể xảy
ra trong quản lý hành chính nhà nước.
Ngoài ra, cần phải kể đến Tập bài giảng “Lôgíc học trong luật pháp” của
PGS. TS. Nguyễn Thuý Vân. Trong tập bài giảng này, tác giả đã trình bày được
những nội dung sau: Thứ nhất, trình bày những vấn đề chuyên sâu về tư duy, tư
duy đúng đắn và vai trò của khoa học lôgíc trong nhận thức khoa học và hoạt
động thực tiễn; Thứ hai, phân tích những vấn đề của khoa học Luật học trên các
lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp; chỉ ra những nét cơ bản sự tác động của tư
duy lôgíc trên các lĩnh vực đó và chỉ ra những dạng lỗi lôgíc thường gặp trong
chúng, từ đó đề xuất một số định hướng ứng dụng của tư duy lôgíc trong luật
pháp. Đây là công trình đầu tiên và duy nhất đề cập trực tiếp đến những vấn đề
nghiên cứu của đề tài v.v…
Như vậy, các công trình nghiên cứu, tuỳ vào từng mảng vấn đề nghiên cứu,
đã bước đầu phân tích, hệ thống hoá được những vấn đề cơ bản liên quan đến
lôgíc học; phương pháp hình thức hoá; lĩnh vực luật pháp nói chung và văn bản
pháp luật nói riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đi vào nghiên
cứu ứng dụng phương pháp hình thức hoá để thẩm định tính lôgíc cho các mệnh
đề trong các văn bản pháp luật. Đây là hướng nghiên cứu chính mà luận văn
hướng tới làm rõ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở hệ thống một số vấn đề lý luận chung về phương pháp
hình thức hoá, về văn bản pháp luật, luận văn tập trung phân tích việc ứng dụng

10
phương pháp hình thức vào việc thẩm định tính lôgíc của các mệnh đề trong các

văn bản pháp luật.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện những nhiệm
vụ sau:
+ Thứ nhất: Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản của phương pháp hình
thức hoá, văn bản pháp luật và tầm quan trọng của việc ứng dụng phương pháp
hình thức hóa trong xây dựng văn bản pháp luật.
+ Thứ hai: Phân tích tính logic của các mệnh đề trong các văn bản pháp luật
+ Thứ ba: Phân tích việc ứng dụng phương pháp hình thức hoá vào thẩm định
tính logic của các mệnh đề trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: là quan điểm mácxít về lý luận nhận thức và lôgíc học, về
mối quan hệ giữa triết học và các khoa học cụ thể, cụ thể là mối quan hệ giữa
lôgíc học và luật học.
- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và các
phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích, tổng hợp, logic - lịch sử, so sánh,
đối chiếu, diễn dịch, quy nạp…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình ứng
dụng phương pháp hình thức hoá để thẩm định tính logic của các mệnh đề trong
các văn bản pháp luật.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu là phương pháp hình thức hoá trong
logic học hình thức và các văn bản pháp luật ở Việt Nam hiện nay (thể hiện qua một
số văn bản luật cụ thể như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật đất đai…)
6. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn mong muốn từ việc phân tích tác dụng của việc
ứng dụng phương pháp hình thức hoá trong thẩm định tính logic của các mệnh đề
trong các văn bản pháp luật để từ đó góp phần xây dựng các văn bản pháp luật
chặt chẽ, logic, đảm bảo tính hiệu quả trong thực tiễn.

11

- Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên
chuyên ngành logic học, sinh viên luật học và những người quan tâm đến lĩnh
vực này.
7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 5 tiết

12
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
PHƢƠNG PHÁP HÌNH THỨC HOÁ VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT

1.1. Một số vấn đề lý luận về phƣơng pháp hình thức hóa
1.1.1. Phương pháp hình thức hoá và những yêu cầu của phương pháp
hình thức hóa
1.1.1.1. Khái niệm phương pháp hình thức hóa
Mỗi một khoa học có một hệ thống phương pháp đặc thù riêng của mình. Tuy
vậy, các khoa học cũng không đóng kín mà chúng cũng thường sử dụng các
phương pháp của nhau phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu. Vì đối tượng nghiên
cứu đã đặc thù, nên một cách tất nhiên, phương pháp mà nó đem lại hiệu quả cao
nhất cũng đòi hỏi mang tính đặc thù. Chính vì lẽ đó, khi một khoa học đã phát
triển đến tầm khá hoàn bị, thì nó sẽ quay lại nghiên cứu chính mình nhằm xác định
đối tượng riêng, hệ thống khái niệm, phạm trù riêng, cũng như phương pháp đặc
trưng của chính khoa học đó.
Điều này có thể nhận thấy rõ ràng trong lịch sử triết học hơn hai nghìn năm
qua của nhân loại. Phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng xuất hiện
và mang lại những lợi ích to lớn cho sự tồn tại và phát triển của tư tưởng triết
học. Mỗi một trong số chúng được gắn với tên tuổi của một trường phái hay đại
biểu nhất định trong lịch sử triết học, nhưng chúng không phải là phương pháp
đặc thù của khoa học triết học. Vậy một câu hỏi được đặt ra là: Vậy phương pháp

đặc thù của khoa học triết học là gì? Nói một cách khác, phương pháp biện chứng
hay phương pháp siêu hình chưa cho phép khái quát thành phương pháp triết học
chung nhất cho mọi trường phái triết học. Theo nhận định của nhiều nhà nghiên
cứu, đối với khoa học triết học, phương pháp duy nhất mang tính đặc thù của nó
phải gắn liền với tính khái quát, trừu tượng của tri thức triết học, cũng như thao
tác tư duy truy cập tới nó. Đó là phương pháp được áp dụng với một quy mô
rộng lớn bao quát toàn bộ các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.

13
Là khoa học sinh ra từ triết học, đồng thời cũng là một bộ phận của triết học,
lôgíc học hình thức không thể không áp dụng phương pháp trừu tượng hoá và
khái quát hoá của triết học. Nhưng khi tồn tại với tư cách là khoa học độc lập
tương đối so với triết học, với những nội dung phản ánh và phương pháp phản
ánh đặc thù, nên có thể khẳng định rằng, phương pháp hình thức hoá chính là
phương pháp đặc trưng của lôgíc hình thức.
Trong sự tồn tại của mình, nội dung của đối tượng bất kỳ được hiểu là tổng
thể các bộ phận và quá trình liên hệ với nhau một cách xác định và tạo nên đối
tượng hoặc hiện tượng. Tương ứng thì nội dung của tư duy là những hiểu biết, tri
thức của con người về thế giới xung quanh được cấu thành từ những ý nghĩ, tư
tưởng. Còn hình thức của tư duy hay hình thức logic là kết cấu của tư tưởng, là
phương thức liên hệ các bộ phận của tư tưởng. Đó là cái mà các tư tưởng cho dù
khác nhau bao nhiêu về nội dung cụ thể, thì ở đó vẫn tương tự nhau. Trong logic
hình thức, rõ ràng việc nghiên cứu mặt hình thức được ưu tiên hơn mặt nội dung
của tư duy, song không có nghĩa là mặt nội dung của tư duy không có vai trò gì,
vì trong bất kỳ tư duy nào cũng có một nội dung nhất định.
Cũng vì lẽ đó, trong logic học, chúng ta luôn thấy có hai khái niệm song hành
nhau: tính đúng đắn (chính xác) hay không đúng đắn và tính chân thực hay giả
dối của tư duy. Khi nói đến tính đúng đắn hay không đúng đắn tức là nói đến
hình thức của tư duy, còn khi nói đến tính chân thực hay giả dối là nói đến nội
dung phản ánh của tư duy có phù hợp với hiện thực hay không. Trong logic hình

thức, tính đúng đắn hay không đúng đắn về mặt hình thức của tư duy giữ vai trò
quan trọng, có tính quyết định. Điều đó có nghĩa là tính đúng đắn của tư duy là
điều kiện cần nhưng chưa đủ nếu xem logic học như là công cụ của nhận thức
chân lý. Điều kiện đủ để cho tư duy nhận thức được chân lý khách quan chính là
tính chân thực của nội dung. Đôi khi chúng ta gặp quan điểm cho rằng, dường
như logic học hình thức được gọi là hình thức vì chỉ nghiên cứu các hình thức
thuần túy của tư duy gác lại hoàn toàn nội dung của chúng. Quan điểm đó không
chính xác. Sở dĩ logic học hình thức có thể trừu tượng hoá khía cạnh nội dung

14
của tư tưởng, để thao tác với các hình thức logic và phân tích chúng một cách
riêng rẽ là do tính độc lập tương đối của hình thức logic, sự không phụ thuộc của
nó vào nội dung cụ thể của tư tưởng.
Ngày nay, nói đến phương pháp hình thức hóa trong khoa học chủ yếu là nói
đến sự tham gia của toán học hay logic học vào trong việc mô tả chính xác một
nội dung nhận thức nào đó. Điều này đã được thể hiện rõ ràng, chẳng hạn như
Descartes đã dùng lượng giác học để mô tả nội dung quy luật về sự khúc xạ ánh
sáng, nhà bác học Galileo đã dùng đại số học để diễn tả nội dung quy luật về sự
rơi của sự vật. Như vậy, cả Descartes và Galileo đã hình thức hóa các nội dung
trên đây bằng ngôn ngữ toán học.
Việc hình thức hóa nội dung nào đó bằng toán học không những được áp
dụng trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, mà còn cả trong các lĩnh vực của khoa
học xã hội. Weber và Fechner mô hình hóa mối quan hệ giữa cảm giác và vật
kích thích (tâm vật lý học (psychophysique)), trong đó vật kích thích tăng theo
cấp số nhân thì cảm giác tăng theo câp số cộng. Rõ ràng nhất là trong các nghiên
cứu xã hội học, hầu như không thể không gặp các bảng thống kê và sử dụng phép
tính xác suất. Như vậy, toán học và logic học rõ ràng là một công cụ lớn lao đối
với khoa học, nó dùng thứ ngôn ngữ gọn gàng, chính xác để mô tả những mối
quan hệ về lượng của các sự kiện khoa học. Vì ngôn ngữ thông thường không thể
diễn ra những mối quan hệ thật chính xác, cho nên tất cả các quy luật cần có một

thứ ngôn ngữ riêng, đó là lý do cốt yếu để các nhà vật lý học không thể bỏ qua
toán học, logic học. Toán học và logic học cung cấp cho họ thứ ngôn ngữ duy
nhất để nói và viết. Tuy nhiên sự áp dụng toán học và logic học vào các khoa học
khác có những giới hạn nhất định của nó. Một mặt, mức độ và ý nghĩa của sử
dụng toán học, logic học không hoàn toàn giống nhau đối với các khoa học khác
nhau, mặt khác, đối tượng nghiên cứu càng phức tạp và đa dạng thì càng khó áp
dụng những ngôn ngữ toán học và logic học vào để hình thức hóa chúng. Chính
vì lẽ đó, cho đến ngày nay, việc áp dụng toán học và logic học vào các khoa học
xã hội còn hạn chế hơn so với các khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật khác.

15
Như vậy, hình thức hóa là phương pháp mô tả chính xác nội dung của nhận
thức bằng các công cụ như ngôn ngữ thông thường, ngôn ngữ toán học, ngôn ngữ
logic. Có thể gọi ngôn ngữ thông thường như: tiếng nói, chữ viết là loại hình thức
hóa đầu tiên. Sự vật hiện tượng khi được nói lên, viết ra thì những nội dung
phong phú, phức tạp, muôn hình muôn vẻ của nó đã được hình thức hóa, tức chỉ
còn giữ lại ở mức độ chung, trừu tượng, khái quát, đơn giản. Ở cấp độ thứ hai,
nội dung của tư tưởng có thể được mã hóa dưới dạng các cấu trúc mệnh đề tuân
theo các ngôn ngữ của toán học và logic học. Đó chính là lúc người ta sử dụng
phương pháp hình thức hóa. Vậy: “phương pháp hình thức hoá là phương pháp
áp dụng các ký hiệu nhân tạo để mã hoá cấu trúc của tư tưởng trong sự trừu
tượng nội dung cũng như giá trị chân thực hay giả dối của sự phản ánh, kết quả
ta thu được lược đồ logic về nó”. (Xem 43; Tr 224 )
Ví dụ: Mô hình hóa câu phức sau: Cố ý phạm tội là phạm tội trong trường
hợp nhận thức rõ hành vi của mình có tính chất nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
hậu quả của hành vi đó và mong muốn hoặc có ý thức để mặc hậu quả xảy ra.
Để có thể mã hóa cấu trúc của một câu phức, ta cần thực hiện những bước sau:
- Bước 1: Xác định các liên từ phân chia câu phức thành các câu thành phần
- Bước 2: Đặt ký hiệu cho các câu thành phần
- Bước 3 Chọn phép toán logic tương ứng với các liên từ logic

Cụ thể như sau:
Đặt S là cố ý phạm tội
a: phạm tội trong trường hợp nhận thức rõ hành vi của mình có tính chất nguy
hiểm cho xã hội
b: người phạm tội thấy trước hậu quả của hành vi đó
c: người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra
d: người phạm tội có ý thức để mặc hậu quả xảy ra
Ta có S là a, b và c hoặc d
Mô hình mã hóa: S = [a ˄ b ˄ (c v d)]
Từ công thức khái niệm cố ý phạm tội ta viết mô hình khái niệm vô ý phạm tội:

16
Vô ý phạm tội = 7S = 7[a ˄ b ˄ (c v d)]
= 7a v 7b v 7(c v d)
= 7a v 7b v (7c ˄ 7d)
7a: hành vi thực hiện trong trường hợp không nhận thức rõ hành vi của mình
có tính chất nguy hiểm cho xã hội. Nên không xem là hành vi phạm tội. Do đó,
không xét 7a
Vậy 7S = 7b v (7c ˄ 7d)
7b: không thấy trước hậu quả của hành vi đó
7c: không mong muốn hậu quả xảy ra
7d: không có ý thức để mặc hậu quả xảy ra
Theo cấu trúc logic trên, định nghĩa vô ý phạm tội được phát biểu như sau:
Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau:
Thứ nhất: Người phạm tội không thấy trước hậu quả của hành vi
Thứ hai: Người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra và không có ý
thức để mặc hậu quả xảy ra.
Phương pháp hình thức hoá là phương pháp đặc trưng mà logic hình thức sử
dụng để trừu tượng hoá các hình thức của tư duy khỏi nội dung của nó, gác hết
lại những điều kiện lịch sử cho sự xuất hiện và ứng dụng của nó. Nói cách khác,

nó là phương pháp gác lại nội dung của tư duy theo nghĩa sự phát triển của nhận
thức và tính chất lịch sử của nó. Nó chỉ lấy hình thức như là cái gí đó chung,
hoàn toàn không tính gì đến cái đơn nhất và cái đặc thù mà rất có thể bị bao gồm
trong hình thức đó. Phương pháp này khảo sát từng hình thức tư duy như là thứ đã
có, chứ không phải là thứ xuất hiện ở trình độ phát triển nhất định của tư duy con
người và chỉ được áp dụng ở trình độ nghiên cứu tương ứng về đối tượng nào đó.
Phương pháp hình thức hóa sử dụng những phép trừu tượng hoá khi nghiên
cứu tri thức thì nó coi tri thức là cái đã có sẵn và đi vào giải phẫu cấu trúc tri thức
đó, không quan tâm đến quá trình phát triển của tri thức từ không biết đến biết, từ
biết ít sâu sắc đến biết sâu sắc hơn… Khi xem xét tư duy, nó trừu tượng hoá khỏi
thực tiễn như là cơ sở căn bản của mọi quá trình tư duy đạt tới chân lý khách

17
quan và như là tiêu chuẩn tối cao của một chân lý. Nghĩa là nó coi chân lý như tri
thức có sẵn, coi tư duy như một hệ thống đóng kín tương đối độc lập với giai
đoạn nhận thức cảm tính và với thực tiễn như cơ sở của nó.
1.1.1.2. Một số yêu cầu của phương pháp hình thức hóa
Phương pháp hình thức hoá có vai trò to lớn trong nghiên cứu logic học. Giá
trị nổi bật của phương pháp này là nó cho phép sử dụng hệ thống ngôn ngữ nhân
tạo (ngôn ngữ ký hiệu) nhằm khách quan hoá quá trình tư tưởng, quá trình nghiên
cứu. Thực tế cho thấy con người luôn phải đối mặt trước sự lựa chọn. Mọi hoàn
cảnh, mọi tình huống bao giờ cũng bao hàm nhiều khả năng lựa chọn, nhiều
phương án đa dạng khác nhau. Cần phải tỉnh táo, chính xác lựa chọn, nhận định
và ra quyết định. Song tính khách quan của nhận định hay quyết định đó thường
bị tình cảm, nội dung chen vào phá hoại, gây ảnh hưởng đến kết quả hoạt động
thực tiễn. Điều đó có thể khắc phục nếu trong quá trình nhận thức và hoạt động
thực tiễn chúng ta có thói quen tư duy logic một cách hình thức. Nói khác đi là
biết tạm trừu tượng nội dung để đảm bảo tính khách quan của hình thức logic. Từ
đó lập luận, nhận định trở nên chính xác, chặt chẽ. Khi đã có một cấu trúc tư
tưởng chuẩn mực mới đưa nội dung vào, như thế sẽ tránh được những sai lầm

theo khuynh hướng chủ quan duy ý chí.
Để đạt được điều đó, khi sử dụng phương pháp hình thức hóa cần tuân thủ các
yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất: Khi hình thức hóa tư tưởng phải trừu tượng hoá nội dung cụ thể
của tư tưởng để làm bộc lộ khía cạnh kết cấu hình thức của nó. Trong mọi trường
hợp, người ta thường dùng ngôn ngữ để diễn đạt nội dung của tư tưởng. Nhưng
đó có thể là những nội dung trừu tượng mà trong nhiều trường hợp bản thân ngôn
ngữ không thể chuyển tải hết được ý nghĩa của nó và không phải lúc nào người
đọc cũng có thể hiểu được ý nghĩa ẩn sau những câu chữ đó. Nên để thuận lợi
cho việc tiếp cận tri thức cần trừu tượng hóa nội dung của tư tưởng để làm cho tư
tưởng bộc lộ khía cạnh kết cấu hình thức của nó. Vì vậy, nghiên cứu các quy luật
và hình thức của quá trình suy tư, logic hình thức nói chung, phương pháp hình
thức hóa nói riêng không chú ý đến nội dung cụ thể của chúng, trừu tượng hóa ,

18
gác chúng lại. Sự trừu tượng đó diễn ra ở hai khía cạnh: Thứ nhất, xét các hình
thức tư duy như thứ chung vốn có ở tất cả các tư tưởng mà hình thức tư duy đó
đụng đến, gác lại cái đơn nhất và cái đặc thù. Thứ hai, gác lại nội dung của tư
duy xét ở mặt phát triển, lịch sử của nhận thức. Nó xét từng hình thức tư duy như
là thứ đang tồn tại có đồng thời với mọi hình thức khác của tư duy, chứ không
phải như thứ xuất hiện ở trình độ phát triển tư tưởng con người nhất định và chỉ
được dùng ở trình độ nghiên cứu tương ứng về đối tượng.
Thứ hai: Phải hình dung toàn bộ nội dung của tư tưởng trong những giả định
xác định, mã hoá nó thành những hình thức xác định, kiểm tra lại nội dung chính
xác từ hình thức đã được mã hoá, sau đó mới đưa nội dung vào hình thức được
xác nhận là chính xác cuối cùng.
Thực chất của yêu cầu này thể hiện sự gắn kết giữa nội dung và hình thức của
tư tưởng. Chuyển nội dung của tư tưởng thành những mệnh đề logic dưới dạng
khẳng định hoặc phủ định. Sử dụng các ký hiệu logic, các phép toán logic để mã
hóa các mệnh đề đó thành những hình thức xác định. Sau đó kiểm tra lại trật tự

logic của chuỗi ký hiệu đã được mã hóa đã tuân thủ các yêu cầu và quy tắc của tư
duy logic hay chưa. Khi đã xác định được sự hợp lý của hình thức tư tưởng sau
khi gác lại nội dung của nó, chuyển nội dung vào để kiểm tra sự phù hợp giữa nội
dung và hình thức chuyển tải. Sự phù hợp này không chỉ giúp cho việc hình thức
hóa được tư tưởng mà còn tạo ra cách hiểu chính xác về nội dung tư tưởng.
Thứ ba: Phải chấp nhận khả năng lưỡng trị của tư tưởng, thừa nhận sự giả
định cứng nhắc là giá trị chân lý của tư tưởng chỉ có thể chân thực hoặc giả dối.
Logic hình thức hay phương pháp hình thức hóa trong phạm vi nghiên cứu của
mình, chúng chỉ nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong giai đoạn nhất định, trong sự
tĩnh tại. Nhưng sự vật, hiện tượng lại luôn vận động, phát triển nên tư duy của con
người cũng phải thay đổi theo. Nên trong giai đoạn này, tư tưởng có thể có giá trị
chân lý, nhưng ở thời điểm khác giá trị đó có thể là giả dối. Vì vậy, trong quá trình
vận động và phát triển của tư duy, con người phải chấp nhận khả năng lưỡng trị của
tư tưởng để vận dụng tư tưởng cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế xảy ra.

19
Để hiểu đúng những yêu cầu này của logic hình thức thì cũng đồng thời phải
xác định logic hình thức không tuyệt đối tách rời nội dung của chất liệu cụ thể
mà các hình thức logic chuyển tải, hoàn toàn không quan tâm đến các chất liệu
đó. Bởi vì, Thứ nhất, chính các quy luật, hình thức và quy tắc logic có nguồn gốc
từ hiện thực, từ thực tiễn xã hội, chúng là sự phản ánh đặc thù của hiện thực vật
chất, vì thế về cội nguồn và lịch sử đều gắn bó chặt chẽ với hiện thực đó. Thứ
hai, xây dựng lý thuyết các hình thức logic, logic hình thức không lãng quên hẳn
nội dung, mà ngược lại, thường xuyên hướng đến nó. Ngay cả logic toán trong
những trường hợp cần thiết cũng phải hướng đến nội dung cụ thể của các hình
thức của nó, để, chẳng hạn như chỉ ra sự vận hành của các hình thức logic đã bị
hình thức hóa của chúng và những mối liên hệ của chúng trong tư duy nội dung.
Như vậy, trong hiện thực khách quan, hình thức không tồn tại tách rời với nội
dung, mà gắn bó hữu cơ liên tục với nó. Ngay việc xây dựng các hình thức logic
không là tự mục đích của logic hình thức, mà là phương tiện hiệu quả của tư duy

chân thực. Và chính tất cả các thao tác logic được hình thức hóa của logic toán
hiện đại cũng nhằm phục vụ mục đích này. Tuy nhiên, chất liệu nội dung cụ thể
được logic hình thức đưa vào chủ yếu là chất liệu minh họa, là phương tiện để
chỉ ra một cách trực quan sự tác động của các hình thức trong tư duy nội dung
đang nhận thức. Còn nhiệm vụ chính của logic hình thức là vạch mở những hình
thức, quy tắc, quy luật logic, chúng không phụ thuộc vào nội dung cụ thể.
1.1.2. Phương pháp hình thức hóa trong sự phát triển của logic học
Với tư cách là một khoa học, logic học ra đời vào thế kỷ IV trước công
nguyên bởi nhà triết học Hy Lạp vĩ đại Aristoteles (384 - 322 tr. CN). Mặc dù
trước đấy, nhiều nhà triết học như Pythagor, Democrite, Socrate, Platon đã sử
dụng và nghiên cứu một số kiểu suy luận, một số kiểu phán đoán, nhưng chính
Aristoteles mới được xem là người khai sinh ra logic học với tư cách là khoa học
độc lập. Aristoteles được coi là người khai sinh ra logic học không phải vì ông là
người đầu tiên đã hệ thống hoá được các thao tác suy luận vốn trước ông nó đã
xuất hiện dù chỉ tồn tại riêng rẽ, chưa rõ ràng, mà ở chỗ, chính Aristotles là người

20
đầu tiên đã làm cho các thao tác đó trở thành đối tượng nghiên cứu, làm thành
đối tượng nghiên cứu chính các thao tác suy luận đó, với tư cách là các chỉnh thể,
chứ không chỉ là thành tố này hay thành tố khác của suy luận. Điều này có nghĩa
là Aristoteles đã xem các thao tác suy luận là các đối tượng nghiên cứu độc lập
của một ngành khoa học, chứ không chỉ được nghiên cứu trong mối quan hệ với các
suy luận. Aristoteles đã nghiên cứu một cách hệ thống về khái niệm, phán đoán,
phép chứng minh và bác bỏ, ông cũng là người đã nêu lên ba quy luật cơ bản của tư
duy. Đặc biệt, nhà bách khoa thư Hy Lạp cổ đại đã xây dựng hoàn chỉnh lý thuyết
tam đoạn luận, đồng thời cũng là người đầu tiên phân loại các sai lầm logic. Vấn đề
trung tâm trong logic học của Aristoteles là vấn đề suy luận diễn dịch. Các vấn đề
khác trong logic học của ông xoay quanh vấn đề này. Các công trình của Aristoteles
về logic học về sau được tập hợp lại trong bộ sách có tên gọi là Organon. Ngay từ
thời đó, với việc thiết lập và truy tìm các hình thức của tư tưởng để diễn đạt nhận

thức, những hình thức của tư duy mà lô gich học của Aristoteles nghiên cứu chính là
những dạng thức khởi đầu của phương pháp hình thức hoá.
Sau Aristoteles, logic học được các học trò của ông tiếp tục phát triển về sau.
Nhưng thời kỳ này, các hậu duệ chỉ nêu ra thêm một số quy tắc suy luận với tiền
đề là phán đoán điều kiện và phán đoán lựa chọn nghiêm ngặt mà thôi. Các nhà
triết học thuộc trường phái Megat và trường phái Khắc kỷ mà đại diện là
Chrysippus (279 - 206 tr. CN) đã phát triển logic học của Aristoteles để nghiên
cứu các quy tắc xác định tính đúng sai của mệnh đề phức dựa vào tính đúng sai
của các mệnh đề thành phần tạo nên nó. Rõ ràng Chrysippus đã đi xa hơn so với
các tông đồ của Aristoteles. Họ đã nghiên cứu quan hệ suy diễn, nghĩa là quan hệ
giữa các tiền đề và kết luận của suy luận. Để nghiên cứu vấn đề này, họ đưa ra
khái niệm bao hàm (implication). Họ đã đưa ra hình thức đầu tiên của định lý
diễn dịch - định lý làm cơ sở cho các phép chứng minh trong các hệ thống hình
thức hóa: một suy luận là hợp logic khi và chỉ khi công thức biểu thị nó là một
công thức hằng đúng. Công thức biểu thị một suy luận có được khi ta liên kết các
tiền đề của nó với nhau thành phần tiền đề bằng các dấu toán hội, rồi liên kết

21
phần tiền đề với kết luận bằng dấu toán kéo theo (dấu implication). Các thành tựu
quan trọng nhất của logic học ở thời La Mã cổ đại là: hệ thống các thuật ngữ
logic được sử dụng đến ngày nay; hình vuông logic (sau này được Boethius hoàn
thiện); lý thuyết về tam đoạn luận phức hợp và tam đoạn luận với tiền đề là phán
đoán quan hệ. Có thể nói, ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, phương pháp hình thức
hóa trong logic học đã có những bước định hình và phát triển đầu tiên của nó.
Ở thời trung cổ, logic học của Aristoteles được nghiên cứu phát triển bởi các
nhà triết học kinh viện. Các thành quả chủ yếu của thời kỳ này là các nghiên cứu
về khái niệm và ngữ nghĩa học. Các nhà logic học có đóng góp lớn nhất ở thời kỳ
này là P. Abelard (1079 - 1142) - người đã xây dựng lại logic Aristoteles, đã
phân biệt các suy luận đúng về hình thức và đúng về nội dung và cho rằng chỉ
các suy luận đúng về hình thức mới là loại suy luận có giá trị thật sự. Một đại

biểu thứ hai của thời kỳ này là W. Occam (1285-1349) - người dành một sự quan
tâm lớn đến logic tình thái, xây dựng học thuyết về siêu ngôn ngữ
(metalanguage), nghiên cứu toàn diện về tam đoạn luận đơn của Aristoteles, phân
định các kiểu đúng và không đúng.
Vào thời Phục hưng logic học truyền thống bị chỉ trích mạnh mẽ. Logic học
bị buộc tội là công cụ và chỗ dựa cho các tư tưởng kinh viện và lẽ đương nhiên,
nó bị nhiều nhà tư tưởng tiến bộ thời kỳ này phê phán.
Nhà triết học người Anh F. Bacon (1561 - 1626) cho rằng tam đoạn luận của
Aristoteles hoàn toàn vô ích vì nó không cho phép tìm ra các tri thức mới từ các
tiền đề đã có, vậy cho nên, khoa học sử dụng nó không thể phát hiện được các quy
luật mới thông qua việc nghiên cứu các sự kiện thực nghiệm đã biết. Từ phê phán
này, Bacon đã xây dựng nên logic quy nạp. Logic quy nạp này về sau đã được một
nhà triết học - logic học người Anh khác là S. Mill (1806 - 1873) phát triển.
Số phận của logic diễn dịch đã được thay đổi vào thế kỷ XVII, khi nó được
nhà toán học và triết học người Pháp R. Descartes (1596 - 1650) thanh minh và
bảo vệ. Descartes muốn xây dựng logic diễn dịch thành một phương pháp nhận
thức tổng hợp. Công lao lớp tiếp theo trong việc phát triển logic diễn dịch thuộc

×