Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

DÂY CHUYỀN sản XUẤT BIA tại CÔNG TY BIA HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 58 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
CHƯƠNG 1: LỜI MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG 2: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ MÁY BIA HUẾ 4
2.1 – LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG TY 4
2.1.1 – Công suất hiện tại và dự kiến 5
2.1.2 – Diện tích qui mô 5
2.1.3 – Tiềm năng phát triển 5
2.1.4 – Sản phẩm công ty 5
2.2 – SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA CÔNG TY 7
2.3 – AN TOÀN LAO ĐỘNG 9
2.4 – VỆ SINH THỰC PHẨM 9
CHƯƠNG 3: NGUYÊN LIỆU TRONG SẢN XUẤT BIA 11
3.1 – MALT ĐẠI MẠCH 11
3.2 – HOA HOUBLON 11
Vai trò của hoa huclon trong công nghệ sản xuất bia: 11
3.3 – NƯỚC 13
3.4 – NGUYÊN LIỆU THAY THẾ 13
CHƯƠNG 4: DÂY CHUYỀN CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT BIA 14
4.1 – DÂY CHUYỀN CÔNG NGHỆ 14
4.2 – PHÂN XƯỞNG NẤU 17
4.2.1 - Quy trình phân xưởng nấu: 17
4.2.2 – Thuyết minh quy trình công nghệ: 17
4.3 – PHÂN XƯỞNG LÊN MEN 23
4.3.1 – Quy trình công nghệ quá trình lên men: 23
4.3.2 – Thuyết minh quy trình công nghệ: 23
4.4 – PHÂN XƯỞNG CHIẾT 25
4.4.1 – Quy trình chiết chai: 25
4.4.2 – Quy trình chiết lon: 27
CHƯƠNG 5: THIẾT BỊ VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG 29
5.1 – CÁC THIẾT BỊ TẠI PHÂN XƯỞNG NẤU 29


5.1.1 – Máy nghiền: 29
5.1.2 – Nồi nấu gạo: 30
5.1.3 – Nồi nấu malt: 31
5.1.4 – Thùng lọc: 33
5.1.5 – Thiết bị houblon hóa: 34
5.1.6 – Thiết bị lắng Whirlpool: 36
5.1.7 – Thiết bị làm lạnh: 37
5.2.1 – Thiết bị lên men: 40
5.2.2 – Thiết bị lọc khung bản: 41
5.2.3. Nhân giống nấm men bia 42
5.3 – THIẾT BỊ TRONG PHÂN XƯỞNG CHIẾT 45
5.3.1 – Máy rửa chai: 45
5.3.2 – Máy chiết: 46
5.3.3 – Thiết bị thanh trùng: 48
5.3.4 – Máy dán nhãn, in date sản xuất: 50
CHƯƠNG 6: XỬ LÝ NƯỚC THẢI 51
6.1 – QUY TRÌNH XỬ LÝ NƯỚC THẢI 51
6.2 – THUYẾT MINH QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ 51
6.2.1. Bể tiền xử lý 51
6.2.2. Bể lắng 52
6.2.3. Bể điều hòa (Bể cân bằng) 52
CHƯƠNG 7: HỆ THỐNG HƠI-ĐIỆN-NƯỚC TẠI NHÀ MÁY 56
KẾT LUẬN 57
Chương 1: LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây nhu cầu tiêu thụ bia trong nước và thế giới tăng
cao. Bia được sử dụng ở khắp mọ nơi, không chỉ là thức uống giải khát bia còn cung
cấp nhiều chất dinh dưỡng cho con người. Bia được nghiên cứu, sản xuất ở khắp mọi
nơi trên Thế giới. Công nghiệp sản xuất bia đã trở thành một ngành công nghiệp quan
trọng góp phần giải quyết việc làm và phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia.
Nguyên liệu chính để sản xuất bia là malt, hoa houblon, nước. Ngoài ra

còn có nguyên liệu thay thế là gạo và một số chất hỗ trợ kỹ thuật khác như Enzim,
chủng nấm men, các chất hóa học. Quá trình sản xuất bia trải qua nhiều công đoạn từ
thủ công ban đầu và bây giờ đã cơ giới hóa và tự động hóa hoàn toàn.
Bia là loại đồ uống lên men độ cồn thấp, rất giàu dinh dưỡng, được sản xuất
từ những nguyên liệu chính: malt, hoa houblon, và nước với công nghệ sản xuất khá
đặc biệt. Ngoài việc cung cấp một lượng calori khá lớn, trong bia còn có hệ enzym
khá phong phú, đặc biệt là nhóm enzym Amylaza giúp kích thích hệ tiêu hóa. Với
hương thơm đặc trưng, vị đắng dịu của hoa houblon cùng với lượng đường sót (chủ
yếu là dextrin thấp phân tử), protein, ax.amin, axit hữu cơ, các chất khoáng, các chất
tạo hương,… ở tỷ lệ cân đối, đã tạo cho bia có hương vị đậm đà mà không thể có ở
bất kỳ loại sản phẩm thực phẩm nào khác. Do vậy, bia là một trong những sản phẩm
được ưa chuộng và đươc sử dụng nhiều trong các cuộc liên hoan, giao lưu, họp mặt,
đám tiệc, Bia có tính chất cảm quan rất hấp dẫn: hương thơm đặc trưng, vị đắng
dịu, lớp bọt mịn, hàm lượng CO
2
tương đối cao đã tạo cho người uống có cảm giác
thích thú, đáp ứng nhu cầu giải khát cho con người.
Được tìm hiểu thực tế về dây chuyền sản xuất bia là một cơ hội tốt để cho em
cũng cố và hoàn thiện những kiến thức đã học. Trong đợt thực tập tốt nghiệp này,
được sự phân công của Khoa em được đi thực tập tại Công Ty TNHH Bia Huế. Trong
quá trình thực tập tại nhà máy, em đã được thăm quan, tìm hiểu về dây chuyền công
nghệ sản xuất bia và những thiết bị tại nhà máy.
Em xin chân thành cảm ơn Quý công ty và tập thể cán bộ tại nhà máy đã giúp
em hoàn thành đợt thực tập này !
Chương 2: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA NHÀ MÁY BIA HUẾ
Công ty Bia Huế không chỉ được biết đến như một doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh hiệu quả hàng đầu Việt Nam mà còn là đơn vị đầy năng nổ, nhịêt tình
trong các hoạt động từ thiện, giúp đỡ cộng đồng. Bằng vào những nỗ lực của
mình, công ty Bia Huế hiện là một trong những đơn vị đóng góp nhiều nhất cho

ngân sách của tỉnh Thừa Thiên - Huế, góp phần xây dựng tỉnh nhà ngày càng
phồn vinh, phát triển.
2.1 – Lịch sử hình thành và phát triển công ty.
Ngày 20 tháng 10 năm 1990, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế ký quyết định
số 402 QĐ/UB thành lập Nhà máy Bia Huế. Với mục tiêu ban đầu nhằm đáp ứng
nhu cầu giải khát cho địa phương và khu vực, Nhà máy Bia Huế ra đời với số
vốn đầu tư 2,4 triệu USD, công suất 3 triệu lít/năm, theo hình thức xí nghiệp liên
doanh có vốn góp từ các đơn vị quốc doanh , ngoài quốc doanh trong tỉnh và vay
vốn ngân hàng.
Ngay sau khi được thành lập, sản phẩm đầu tiên của Nhà máy là Bia Huda
được sản xuất theo công nghệ tiên tiến nhất của hãng DANBREW CONSULT,
Đan Mạch đã nhanh chóng có mặt trên thị trường, đáp ứng được nhu cầu của
người tiêu dùng trong cả nước.
Năm 1994, Nhà máy tiến hành liên doanh với hãng bia Tuborg International
(TIAS) và quỹ công nghiệp Đan Mạch dành cho các nước phát triển (IFU) tại
giấy phép số 835/GP ngày 6/4/1994 với tỷ lệ góp vốn Việt Nam 50%, Đan Mạch
50%. Đây thực sự là một bước ngoặt trọng đại trong quá trình phát triển của đơn
vị. Từ đây, Nhà máy Bia Huế chính thức mang tên Công ty Bia Huế.
Chất lượng cao và giá cả hợp lý, sản phẩm của công ty nhanh chóng được
đón nhận trên thị trường trong tỉnh và miền Trung, trở thành thức uống giải khát
được ưa chuộng nhất so với các sản phẩm cùng loại. Bằng những thế mạnh là sự
phong phú về chủng loại sản phẩm , sự ưu việt trong chất lượng và sự tận tâm
trong phục vụ, công ty Bia Huế tiếp tục mở rộng thị trường ra phía Bắc và vào
miền Nam. Năm 1994, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong sự phát triển của công
ty khi công ty quyết định đưa sản phẩm của mình thâm nhập vào thị trường Mỹ
ngay khi Mỹ sỡ bỏ lệnh cấm vận đối với nước ta. Đến nay, sản phẩm của công ty
Bia Huế đã có mặt trên nhiều châu lục: từ châu Á (chủ yếu ở các thị trường như
Malaysia, Indonesia, Camphuchia, Lào, Nhật Bản), sang châu Âu (Pháp, Bồ Đào
Nha, Anh), cập bến châu Úc (Australia) và vượt Đại Tây Dương sang châu Mỹ
(Mỹ, Canada),

Năm 2007, Công ty Bia Huế đã có những thành tích xuất sắc với sản lượng
đạt 108 triệu lít, tăng 25,13% so với năm trước; doanh thu đạt 1.059 tỷ đồng,
tăng 31%; nộp ngân sách 529 tỷ đồng, tăng 14,75%, chiếm hơn 1/3 tổng thu ngân
sách của tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.1.1 – Công suất hiện tại và dự kiến
Do chất lượng sản phẩm luôn đảm bảo, giá thành hợp lý, được khách hàng
ưa chuộng nên mặc dù sản lượng cung ứng của Công ty Bia Huế luôn tăng mạnh
nhưng vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường. Từ công suất ban đầu là 3
triệu lít/năm, đến năm 2003 công suất đưa lên 50 triệu lít/năm, năm 2007 công
suất đã lên đến gần 110 triệu lít/năm
Vì vậy, ngay từ năm 2005, dự báo được nhu cầu ngày càng gia tăng của
khách hàng, nhất là trong những thời điểm "nóng" như: lễ hội Festival, mùa hè,
mùa tết, ngày lễ, mùa bóng đá , Công ty đã tiến hành xây dựng thêm một nhà
máy bia tại Khu công nghiệp Phú Bài với công suất 100 triệu lít/năm. Năm 2006,
công suất của công ty đã đạt 85 triệu lít, nhưng vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu
của người tiêu dùng trong cả nước. Năm 2007, sản xuất 108 triệu lít. Cũng trong
năm này, Công ty đã đầu tư xây mới nhà máy mới tại Phú Bài (Huế), nhằm đáp
ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước và thị trường quốc tế.
Ngày 29/4/2008, Nhà máy chính thức được khánh thành và những mẻ bia
đầu tiên đậm đà phong vị Huế đã ra đời trong sự đón chào của tất cả người tiêu
dùng. Năm 2008, dự kiến công ty sẽ sản xuất 135 triệu lít. Sản lượng hàng năm
tăng 25%.
2.1.2 – Diện tích qui mô
Nhằm tăng công suất, đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của thị trường
trong nước và quốc tế, hiện tại công ty có 2 nhà máy với diện tích và quy mô
lớn ở đường Nguyễn Sinh Cung và Khu công nghiệp Phú Bài (huyện Hương
Thủy ,Thừa Thiên - Huế, xây dựng năm 2006).
2.1.3 – Tiềm năng phát triển
Đón đầu cơ hội cũng như những thách thức trong việc mở rộng thị trường
khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới

WTO vào ngày 7/11/2006, công ty Bia Huế liên tục mở rộng sản xuất, từ một
nhà máy công suất 3 triệu lít/năm, đến năm 2007 công suất của nhà máy đã đạt
100 triệu lít/năm. Và vào ngày 28/4/2008, một Nhà máy bia mới với công suất
100 triệu lít/năm đã được khánh thành tại khu công nghiệp Phú Bài sẵn sàng cho
chiến lược phát triển lâu dài và tiềm năng to lớn của công ty trong việc tiếp tục
chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước.
2.1.4 – Sản phẩm công ty
Sản phẩm của công ty bia Huế được sản xuất từ những nguyên vật liệu
chính như Malt, hoa Hoplon có chất lượng cao của các hãng cung cấp hàng đầu
thế giới. Việc sản xuất dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến và tuân thủ nghiêm
ngặt theo đúng các qui trình công nghệ cũng như các tiêu chuẩn của Việt Nam
-Thế giới. Điều đặc biệt là nguồn nước sử dụng của bia Huế được lấy từ Nhà
máy nước Vạn Niên (thượng nguồn sông Hương) rất đảm bảo các chỉ số kỹ thuật
phù hợp cho việc sản xuất bia.
Chất lượng cao, giá cả hợp lý, những sản phẩm của Công ty, không những
đã có chỗ đứng trên thị trường trong nước mà đã có mặt trên thị trường thế giới-
những thị trường luôn đề cao về các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn
thực phẩm- trên thế giới như: Mỹ, Canada, Pháp, Bồ Đào Nha, Anh, Nhật Bản,
Malaysia, Indonesia các nước nhập khẩu luôn hài lòng về chất lượng sản phẩm.
Sản phẩm bia của công ty đã, đang và sắp có mặt trên thị trường với các
nhãn hiệu sau :

a. HUE BEER
Là sản phẩm được sản xuất dùng cho xuất khẩu, được biết nhiều qua thị trường
xuất khẩu tại Hoa Kỳ. Ngay sau khi Mỹ bỏ cấm vận 2 tháng (4/1994) lô hàng
đầu tiên xuất khẩu sang Mỹ đã đánh dấu sự ra đời của một nhãn hiệu mới. Bia
được đóng chai 355ml kèm theo xách 6 chai rất tiện lợi cho khách hàng. Hue
BEER đã được đăng ký nhãn hiệu tại Mỹ.
b. HUDA BEER
Là loại bia dòng chính, bia HUDA luôn luôn được khách hàng trong và ngoài

nước yêu mến và ủng hộ, chiếm vị trí hàng đầu tại các tỉnh miền Trung. Bia
HUDA được sản xuất ngay những ngày đầu tiên thành lập nhà máy bia Huế.
Hiện nay Bia HUDA đã có những chủng loại khác nhau nhằm phục vụ ngày càng
tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng: Bia HUDA chai 45cl, Bia HUDA lon 33cl,
Bia HUDA chai 35,5cl, Bia tươi HUDA, Bia hơi HUDA.
c. HUDA BEER LON
Bia HUDA lon được sản xuất trên hai loại bao bì : Thùng 12 lon và thùng 24 lon
nhằm tăng sự phong phú trong lựa chọn của khách hàng đáp ứng tối đa nhu cầu
sử dụng của người tiêu dùng. Với dung tích là: 330ml / lon, độ cồn: 4,5 độ sẽ rất
thuận tiện cho khách hàng hơn khi mua sản phẩm này vì không phải quan tâm
đến việc trả vỏ và két.
d. Bia FESTIVAL
Là loại bia ra đời để phục vụ cho dịp Festival quốc tế tại Huế vào năm 2000,
2002, 2004, 2006 được thị trường rất hoan nghênh, và hiện nay nhãn hiệu đang
được khuyếch trương rộng rãi. Bia FESTIVAL được đóng chai trong chai 330ml
màu ô liu, trang nhã có chất lượng cao và là nhãn hiệu cao cấp của Công ty. Khi
Huế trở thành thành phố Festival của Việt Nam, nhãn hiệu bia Festival cũng sẽ
trở thành loại bia lễ hội độc đáo, cao cấp nhất.
e. Bia CARLSBERG
Bia Carlsberg - loại bia đặc biệt thành công và nổi tiếng ở Châu Âu, đã có
mặt tại Việt Nam từ nhiều năm nay.
Trước đây, quyền phân phối, và tiêu thụ bia Carlsberg trên toàn thị trường
Việt Nam thuộc về Công ty liên doanh IBD – Hà Nội. Tuy nhiên mới đây, tập
đoàn bia Carlsberg đã chính thức giao thị trường Miền trung cho Công ty bia
Huế đảm trách.
Với mong muốn muốn giới thiệu đến những người sành bia một “thế hệ
mới” của bia Carlsberg với logo dập nổi rất độc đáo và sành điệu, tạo cho người
sử dụng cảm giác thoải mái khi cầm chai bia trên tay và sự tự tin khi thưởng
thức. Carlsberg mới không chỉ tuyệt hảo về chất lượng, sáng tạo về hình thức mà
còn vượt trội về đẳng cấp.

Diện mạo mới của Carlsberg không chỉ là sự thay đổi về hình thức mà hơn
hết, đó là một sản phẩm có sức thu hút mạnh mẽ, thể hiện cá tính và đẳng cấp
của những người thành đạt, đồng thời đánh dấu bước phát triển mang tính đột
phá của một nhãn hiệu bia được ưa chuộng trên khắp thế giới.
2.2 – Sơ đồ tổ chức bộ máy của công ty.
Hội Đồng Quản Trị
`Tổng Giám Đốc
GĐ Kỹ
Thuật

Maketing

Nhấn sự
GĐ Tài
chính
Kế toán
Tài vụ
MaketingGĐ Kỹ
Thuật
GĐ Kỹ
Thuật
Khu nấu Khu lên
men
Khu chiết Phân xưởng
cơ điện
Phòng thí
nghiệm
2.3 – An toàn lao động.
Trước khi giao ca hay nhận ca, tất cả cán bộ, công nhân trong phân xưởng

phải thực hiện các quy định sau nhằm đảm bảo an toàn lao động và nâng cao hiệu quả
trong quá trình sán xuất:
+ Phải kiểm tra hệ thống máy móc xem có vật cản hay hư hỏng gì không, kiểm tra các
dây tiếp đất đề phòng rò rỉ, điện giật.
+ Sử dụng khẩu trang, găng tay, áo blue, giày, mũ bảo hiểm đề phòng hoá chất chạm
phải, bia nổ, bỏng
+ Làm đúng theo hướng dẩn sơ đồ quy trình công nghệ, tuyệt đối không tự ý làm khác.
Khi cần thay đổi bất cứ điều gì phải thông báo, đề nghị trước với trưởng ca hoặc người
có trách nhiệm.
+ Người lao động , tuỳ theo từng phân xưởng mà phải biết và tuân thủ theo các quy
định, thường xuyên được tập huấn về nội quy an toàn lao động, vệ sinh lao động,
phòng cháy chửa cháy và được cấp bảo hộ lao động.
+ Trong quá trình lao động người lao động phải xem, theo dõi kịp thời phát hiện
những hư hỏng, trục trặc, những yếu tố nguy hiểm nhanh chóng xử lý hay báo cáo
ngay cho trưởng ca hoặc người có trách nhiệm biết.
+ Những vấn đề liên quan đến tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nhà máy sẽ giải
quyết theo đúng quy định hiện hành của pháp luật.
Trong nhà máy thì tất cả các cán bộ cũng như công nhân đều nghiêm túc chấp
hành theo những qui định mà công ty đưa ra. Tuy nhiên trong quá trình sản xuất thì
những sai sót có thể mắc phải là điều không thể tránh khỏi và tuỳ theo mức độ vi phạm
mà nhà máy có hình thức xử lý khác nhau.
2.4 – Vệ sinh thực phẩm.
Vệ sinh thực phẩm là điều kiện an toàn đầu tiên cho người tiêu dùng nên phải
quan tâm hàng đầu trong suốt quá trình sản xuất.
Yêu cầu:
- Người bị bệnh truyền nhiễm không được vào phân xưởng sản xuất.
- Không được đổ rác trong phân xưởng hay gần phân xưởng sản xuất vì đó là
nguồn gây ô nhiễm cho môi trường sản xuất và ảnh hưởng đến vệ sinh an toàn
của thực phẩm.
- Công nhân phải có đủ sức khoẻ để đảm bảo được công tác được giao.

- Phải mặt áo bảo hộ lao động theo quy định ở các phân xưởng.
- Các máy và thiết bị tiếp xúc với sản phẩm phải được rửa và sát trùng sạch sẽ
thường xuyên.
- Trước khi nhận ca hay bàn giao ca sản xuất, nhân viên sắp xếp, phân công lau
chùi xưởng, vận hành theo quy định đề ra.
- Trong quá trình sản xuất bia để chất lượng của bia được đảm bảo và an toàn vệ
sinh thực phẩm thì yêu cầu tất cả các nhân viên trong quá trình vận hành sản
xuất phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt những nội quy về an toàn vệ sinh thực
phẩm mà công ty đề ra.
- Nước sau khi xử lý đổ ra môi trường phải đúng quy định của nhà nước.
Nhà máy khi sản xuất thì sẽ thải ra một lượng nước thải rất lớn, điều này được
nhà máy rất quan tâm vì nó sẽ gây ảnh hưởng không tốt tới môi trường. Nước thải
chảy theo hệ thống thoát nước thải và được nhà máy xử lý theo phương pháp bể sinh
học, đây là phương pháp rất phổ biến và được sử dụng rộng rãi tại các nhà máy công
nghiệp.
Chương 3: NGUYÊN LIỆU TRONG SẢN XUẤT BIA
3.1 – Malt đại mạch.
Malt được nhập khẩu từ các nước Đan Mạch, Úc, Pháp, Bỉ Malt nhập về
chứa vào các silô nhờ các gàu tải giúp chuyển malt từ các thiết bị vận chuyển. Malt
trước khi đi nghiền cần phải qua máy hút bụi trung tâm để loại bỏ bụi bẩn, sau đó qua
bộ phận đĩa quay làm cho malt va đập vào thành để loại bỏ phần rể mầm của malt còn
sót lại và qua bộ phận nam châm để loại bỏ kim loại có trong malt.
Malt được sử dụng ở nhà máy là sản phẩm được chế biến từ đại mạch, sau khi
cho nảy mầm ở điều kiện nhân tạo thì sấy đến độ ẩm nhất định. Mục đích của quá trình
cho nảy mầm đại mạch: thứ nhất là để chuyển đổi trạng thái của hệ enzym có trong đại
mạch từ trạng thái nghỉ sang trạng thái hoạt động, tích luỹ chúng về khối lượng và
tăng cường khả năng xúc tác của chúng; thứ hai là tạo và duy trì điều kiện thuận lợi để
hệ enzym thuỷ phân sau khi giải phóng khỏi trạng thái liên kết, đồng thời với việc tăng
trưởng về khối lượng và cường lực xúc tác, chúng sẽ phân cắt một lượng đáng kể các
chất dinh dưỡng cao phân tử thành các sản phẩm thấp phân tử, đồng thời chúng phá vỡ

tế bào làm cho hạt mềm ra, tạo ra nhiều sự biến đổi cơ lý và thành phần hoá học của
hạt đại mạch nhằm đến mục đích cuối cùng là giúp cho quá trình đường hoá xảy ra
thuận lợi .
Malt dùng trong sản xuất bia với 2 mục đích, vừa là nguyên liệu vừa là tác nhân
đường hóa.
3.2 – Hoa houblon
Hoa houblon là nguyên liệu cơ bản thứ hai trong công nghệ sản xuất bia. . Ở
nhà máy bia HuDa người ta sử dụng hoa houblon ở cả dạng viên hoặc cao hoa. Thành
phần hoá học của hoa houblon phụ thuộc vào chủng giống, điều kiện khí hậu, đất đai
gieo trồng và kỹ thuật canh tác, nó bao gồm nhiều chất khác nhau nhưng những chất
có giá trị đối với công nghệ sản xuất bia là: nước, chất đắng, polyphenol, tinh dầu
khoáng, chất khoáng. Ngoài ra, hoa houblon còn chứa các chất khác như: protein, mỡ,
sáp, các hợp chất phi protein, cellulose Các chất này có thể tham gia ít hoặc hoàn
toàn không tham gia vào quá trình sản xuất bia.
Vai trò của hoa huclon trong công nghệ sản xuất bia:
Hoa houblon được sử dụng trong công nghệ
sản xuất bia nhằm mục đích:
+ Truyền mùi thơm và vị đắng cho bia
+ Tăng khả năng tạo bọt và giữ bọt cho bia
+ Tăng khả năng sát trùng cho bia
+ Ổn định thành phần hóa học và tránh hiện tượng dư thừa protein cho bia
3.3 – Nước
Trong bia thành phẩm hàm lượng nước chiếm một tỷ lệ rất lớn, nó chiếm từ 77
- 90%. Chính vì thế, nước là một trong những nguyên liệu chính trong công nghệ sản
xuất bia. Trong nhà máy bia, nước dùng với nhiều mục đích khác nhau từ giai đoạn sử
lý nguyên liệu cho đến giai đoạn thành phẩm.
Lượng nước dùng trực tiếp cho nấu bia không nhiều nhưng nó ảnh hưởng
nhiều đến chất lượng sản phẩm. Chính vì thế nước nấu bia không những đòi hỏi có đầy
đủ các tiêu chuẩn của nước uống mà cần phải có những tiêu chuẩn riêng đáp ứng yêu

công nghệ sản xuất bia.
Những yêu cầu cơ bản của nước dùng để nấu bia:
Nước nấu bia trước hết phải trong suốt, không màu, có vị dễ chịu, không có
mùi vị lạ và không chứa vi sinh vật gây bệnh. Chuẩn độ Coli là 300 ml và chỉ số Coli
là 3.
Nước nấu bia cần có độ cứng trung bình 5 – 6 mg đương lượng/l, pH = 6.8 –
7.3, độ oxy hóa không vượt quá 1 – 2 mg/l, hàm lượng cặn khô không vượt quá
600mg/l.
3.4 – Nguyên liệu thay thế
Trong công nghệ sản xuất bia, với mục đích giảm giá thành và đa dạng hóa
sản phẩm, người ta sử dụng một số nguyên liệu thay thế để đa dạng hóa sản phẩm.
Gạo là nguyên liệu thay thế malt để hạ giá thành sản phẩm. Gạo cũng xử lý
như malt trước khi nghiền. Gạo mua ở địa phương hoặc các vùng lân cận và được xử
lý trước khi đem đến nhà máy.
Chương 4: DÂY CHUYỀN CÔNG NGHỆ SẢN
XUẤT BIA
4.1 – Dây chuyền công nghệ
4.2 – Phân xưởng nấu
4.2.1 - Quy trình phân xưởng nấu:
4.2.2 – Thuyết minh quy trình công nghệ:
Nguyên liệu cần phải được làm sạch trước khi chứa trong Xylo. Quá
trình này được thực hiện nhờ các mặt sàng lưới có đường kính lỗ khác nhau nhằm để
loại bỏ tạp chất và bụi bẩn. Sau đó nhờ vít tải nguyên liệu được chuyển qua thiết bị
nam châm để tách kim loại rồi qua cân và đưa vào máy nghiền.
1. Cân
Nguyên liệu sạch sẽ được cân trước khi đưa vào các mẻ lên men. Đảm bảo
đúng chính xác tỷ lệ nguyên liệu, ổn định chất lượng sản phẩm.
2. Nghiền

a. Mục đích:
Mục đích chính của việc nghiền malt và gạo là nhằm phá vỡ cấu trúc của tế
bào, để tăng diện tích tiếp xúc với nước, làm cho sự xâm nhập của nước vào các thành
phần chất của nội nhũ nhanh hơn, thúc đẩy quá trình đường hoá xảy ra trong nguyên
liệu khi nấu và trong quá trình houblon hoá, nhằm thu được dịch đường có nồng độ
các chất cao nhất từ nguyên liệu ban đầu.
b. Tiến hành:
Đối với gạo thì nghiền càng mịn càng tốt và được nghiền bằng máy nghiền 1
cặp trục. Malt (với 1 mẻ là 3200 kg tương ứng 64 bao) được đem đi nghiền bởi máy
nghiền 2 cặp trục. Malt chỉ nghiền ở một mức độ tạo thành hổn hợp theo yêu cầu kỹ


Nồi Malt
Houblon
hóa
Lên men
Làm lạnh
Lắng
Lọc
Bổ sung
E. Termamin,
CaSO
4
Nồi gạo
Nghiền
Cân
Gạo
Nghiền
Cân
Malt

Bổ sung
E. Ultra Flo, CaCl
2
thuật. Malt được nghiền dập, nếu nghiền càng nhỏ thì quá trình đường hoá xảy ra càng
nhanh và triệt để. Tuy nhiên, trong quá trình nghiền thì chú ý đến kích thước hạt
nghiền malt, nếu kích thước quá lớn thì hiệu suất đường hoá thấp, nếu kích thước quá
bé sẽ làm tắc các mao quản ở lớp lọc phụ làm ảnh hưởng đến tiến trình lọc sau này.
Lưu ý nghiền malt sao cho vỏ trấu càng nguyên vẹn càng tốt vì lớp vỏ càng lớn càng
nguyên vẹn sẽ là lớp lọc dày xốp thuận lợi cho quá trình lọc. Mặt khác nếu nghiền vỏ
trấu nhỏ thì các chất có trong vỏ malt như tanin, chất đắng và các chất khoáng sẽ hoà
tan vào nước và trong khi nấu chúng chuyển vào dung dịch làm thay đổi vị và màu
của bán thành phẩm kết quả làm giảm chất lượng của bia.
Nguyên liệu thay thế là gạo, người ta thường chọn gạo có độ trắng đục là tốt
nhất.Trong nguyên liệu thay thế không có hoặc có rất ít enzim thuỷ phân, do đó khi sử
dụng nguyên liệu thay thế phải bổ sung thêm các chế phẩm enzim để nâng hiệu suất
quá trình thuỷ phân trong quá trình nấu bia. Khi dùng gạo để nấu bia màu sắc bia sáng
hơn nhưng chất lượng của bia có giảm đi một ít, nên 1mẻ gạo là 1350kg-27 bao. Đối
với gạo thì yêu cầu nghiền nhỏ để trong quá trình nấu các chất tinh bột, prôtein được
chuyển sang dạng hoà tan nhanh hơn. Gạo nghiền xong được đưa vào nồi gạo.
3. Nấu:
a. Mục đích:
Là quá trình chuyển các chất của malt và gạo từ trạng thái không hoà tan sang
trạng thái hòa tan dưới tác động của enzim thuỷ phân.
Quá trình nấu được thể hiện theo sơ đồ sau:
Đường nấu gạo
Đường nấu malt
Đường nấu hổn hợp gạo và malt
(Trước khi gạo sôi 5 phút cho malt vào)
b. Tiến hành:
Gạo và malt sau khi nghiền đạt yêu cầu lần lược cho thùng chứa tương ứng.

Ở nồi gạo, người ta bơm nước có nhiệt độ khoảng 77
0
C vào trước, sau đó cho gạo vào
đã chuẩn bị với khối lượng xác định vào nồi cùng với 1 lượng malt lót nhất định (3 tạ)
vì trong malt có enzim giúp cho quá trình thuỷ phân gạo được tốt hơn ngoài ra còn làm
loãng dịch giảm độ nhớt của gạo, tránh hiện tượng cháy nồi.
Quá trình nấu người ta bổ sung thêm 8 kg CaSO
4
- 135 ml enzim Termamin có
thể chịu nhiệt độ cao vào nồi gạo và 8kg CaCl
2
- 620 ml enzim ultra flo vào nồi malt.
Mục đích của việc bổ sung hai muối trên là nhằm để tăng lượng Canxi trong nước,
giảm pH xúc tiến quá trình lắng cặn đồng thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình lên men về sau.
Quá trình xảy ra như sau: bột gạo đã được nghiền mịn cùng với malt lót được đem
vào phối trộn với nước ở 77
0
C trong nồi phối trộn có cánh khuấy, sau đó nâng lên
90
0
C trong thời gian 20 phút, nghỉ 20 phút, tiếp tục nâng đến nhiệt độ sôi (100
0
C)
trong 10 phút và giữ ở nhiệt độ sôi trong 20 phút.
Trước khi nâng nhiệt độ sôi của gạo 5 phút, ta tiến hành hòa malt (V
nước
=75 Hl).
Ở nồi malt, ta vừa cho malt vừa cho nước vào cùng 1lúc để tránh hiện tượng vón cục
và malt vừa hết thì ngừng cấp nước. Lúc đầu hòa malt ở nhiệt độ 42

0
C trong thời gian
25 phút (trước khi gạo sôi 5 phút và thời gian nghỉ là 20 phút)
Chuyển hoàn toàn lượng trong nồi gạo vào nồi malt gọi là hội cháo, thời gian
chuyển là 10 phút. Giai đoạn này nhiệt độ của nồi malt nâng dần lên 65
0
C - nhiệt độ
đường hoá, giữ nhiệt độ này trong 60 phút để tạo điều kiện cho enzym β- amylaza hoạt
động để quá trình đường hóa tiếp tục. Để theo dõi mức độ đường hóa ta kiểm tra tinh
bột bằng cách sử dụng I
2
, nếu còn tinh bột I
2
sẽ có màu xanh ta nghỉ tiếp để enzim thuỷ
phân hết tinh bột. Để kiểm tra tinh bột ta nên 10 phút khuấy nhẹ 1lần. Hết tinh bột ta
sử dụng hơi để nâng nhiệt độ của nồi malt lên 76
°
C (đây là nhiệt độ của enzim α-
amylaza hoạt động) trong 10 phút. Trong quá trình nấu gạo và nấu malt, người ta bổ
sung thêm muối Canxi

và một số chế phẩm enzym. Mục đích của việc bổ sung này là
để tăng độ bền hoạt động cho hệ enzym, hạ pH thích hợp cho dịch cháo đồng thời để
bổ sung thêm canxi.
Trong quá trình nấu thì tinh bột dưới tác dụng của enzym sẽ tạo thành các đường
và các dextrin với phân tử lượng khác nhau. Các dextrin không lên men được nhưng
nó đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện vị của bia. Protein có ở trong malt khi
đường hoá cũng chuyển vào khoảng 28-40% hơn một nửa số này đã có sẵn trong malt
ở dạng hoà tan, phần còn lại là do bị thuỷ phân dưới tác dụng của enzym protease.
Mặc dù hàm lượng protein có trong dịch lên men rất ít nhưng nó cũng có ảnh hưởng

đến chất lượng của bia, nó góp phần vào việc làm giảm độ đục của bia, các sản phẩm
thuỷ phân của protein không tách khỏi dung dịch khi đun sôi và có tính keo.
Albumose, pepton và polypeptide tham gia vào việc tạo bọt và tăng vị cho bia. Còn
peptid và acid amin tham gia tạo melanoid và cần thiết cho dinh dưỡng nấm men.
Do đó, sự tồn tại các chất lên men và không lên men cũng như tỷ lệ giữa chúng
trong dịch đường có một ý rất nghĩa quan trọng và phải được điều khiển trong quá
trình nấu. Muốn điều khiển quá trình này phải tác động lên các yếu tố có ảnh hưởng
trực tiếp lên quá trình thuỷ phân, đến hoạt tính của enzym như nhiệt độ, pH, nồng độ
của dịch. Cùng với sự thuỷ phân tinh bột và protein trong quá trình nấu dưới tác dụng
của hệ enzym xitase của malt, hemicellulose và một số chất khác của nguyên liệu cũng
bị thuỷ phân tạo thành glucose, xilose, arabinose và các dextrin. Sự thuỷ phân của các
polysaccharide làm giảm độ nhớt của dịch đường. Trong quá trình đường hoá, bên
cạnh sự thuỷ phân, một phần protein bị đông tụ dưới tác dụng của nhiệt độ cao đồng
thời một phần protein bị kết tủa do liên kết với tanin của vỏ malt. Quá trình đông tụ và
kết tủa này rất quan trọng đối với các công đoạn công nghệ sau. Khi đường hoá còn
xảy ra sự phân huỷ các hợp chất phospho dưới tác dụng của enzym fitase giải phóng
acid phosphoric. Các muối phosphate vô cơ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo pH
môi trường đệm và đặt biệt cần thiết cho sự hoạt động bình thường của enzym.
4. Lọc dịch và rửa bã:
a. Mục đích:
Mục đích của quá trình lọc nhằm tách triệt để dịch đưòng ra khỏi bã (các chất
không hoà tan).
b. Tiến hành:
Trước khi bơm dịch từ nồi malt sang thùng lọc người ta bơm một ít nước nóng
ngập đáy giá thiết bị lọc trong thời gian 10 phút nhằm tránh hiện tượng bị tắc các ống
mao quản của thiết bị gây khó khăn cho quá trình lọc.
Dịch sau khi đường hóa xong được bơm đến thùng lọc, tại đây quá trình xảy ra
hai giai đoạn: lọc dịch dầu và rửa bã. Ở thiết bị lọc thì tấm lưới lọc kim loại cách đáy
thùng khoảng 5cm, tấm lọc có lổ hổng khá lớn do đó mà giai đoạn đầu của quá trình
lọc bã dịch đường chảy ra rất đục nên phải hồi lưu lại thùng lọc. Sau một thời gian trên

tấm lọc đã được phủ một lớp lọc phụ, do lớp vỏ malt tạo nên sẽ làm tăng khả năng
lọc, dịch đường chảy ra khỏi thiết bị lọc trong hơn đến lúc nào đạt được độ trong theo
yêu cầu thì không hồi lưu dịch đường lại thùng lọc nữa mà chuyển sang nồi houblon
hoá. Kết thúc quá trình lọc người ta tiến hành rửa bã, rửa bã có tác dụng thu hồi lại các
chất còn sót lại trong bã, để tăng quá trình khuếch tán các chất vào dung dịch, bã phải
được khuấy trộn cho xốp và rửa bã bằng nước nóng 76
0
C (vì nếu rửa nhiệt độ cao hơn
78
0
C sẽ vô hoạt enzim amylaza) cho đến khi nào độ đường còn sót lại trong nước rửa
nhỏ hơn 0,1% và pH<6 thì dừng lại, nếu tiếp tục rửa thì pH của dịch đường sẽ tăng
làm hòa tan những hợp chất không mong muốn(chất đắng trong vỏ) vào dịch đường
làm bia có vị khó chịu
Trong thùng lọc cánh khuấy hoạt động ở 2 chế độ: chế độ quay khi lọc và sau khi
lọc xong cánh khuấy quay ngược lại cào toàn bộ bã qua thùng chứa.
5. Houblon hóa:
a. Mục đích:
Mục đích của việc houblon hóa nhằm trích ly các chất đắng, chất thơm có
trong hoa vào trong bia, ổn định thành phần dịch đường, truyền cho bia có mùi và vị
của hoa houblon,làm cho dịch đường có nồng độ thích hợp theo yêu cầu, keo tụ các
protid, vô hoạt enzim và thanh trùng dịch đường.
b. Tiến hành:
Ở thiết bị houblon có thiết bị gia nhiệt dạng ống chùm, người ta tiến hành cấp
nhiệt khi dịch đường lấp đầy bộ phận gia nhiệt. Và khi nước rửa bã chảy vào thùng
houblon hoá gần kết thúc thì bắt đầu nâng nhiệt, phải tính toán như thế nào đó để khi
giọt nước rửa cuối cùng vào thiết bị thì dịch trong nồi houblon cũng bắt đầu sôi.
Trong quá trình houblon hoá thường bổ sung axit acetic với mục đích giảm pH
tạo điều kiện cho các protein kết tủa. Các quá trình xảy ra khi houblon hoá đó là sự
hoà tan các chất đắng của hoa houblon đã làm thay đổi mùi và vị của dịch đường, nó

làm cho dịch đường chuyển từ vị ngọt sang vị đắng của hoa houblon. Độ hoà tan của
các axit đắng vào nước và dịch lên men không lớn nhưng khi đun sôi thì các chất này
bị đồng phân hoá và dễ dàng tan hơn vào dung dịch. Quá trình đồng phân hoá phụ
thuộc vào nhiệt độ, thời gian đun sôi và pH của dịch đường. Tinh dầu của hoa houblon
cũng ảnh hưởng đến mùi vị của dịch lên men và của bia. Keo tụ protein cũng là một
quá trình quan trọng khi đun sôi dịch đường với hoa houblon bởi vì sự có mặt của
protein hoà tan trong dịch lên men là nguyên nhân làm đục bia và làm giảm độ bền
sinh học của bia. Ngoài ra, trong quá trình houblon hoá còn tạo ra các liên kết protein-
tanin, các protein phức tạp và các sản phẩm thuỷ phân của chúng như albumose,
peptone mang điện tích dương nên liên kết với các tanin mang điện tích âm, trong dịch
đường bao gồm tanin của malt và hoa houblon. Màu sắc cơ bản của dịch đường trước
và sau khi houblon chủ yếu là do malt quyết định và do quá trình bổ sung màu
caramel. Tuy nhiên quá trình nấu và houblon hoá đã làm tăng thêm độ màu của dịch
đường. Độ màu là do sản phẩm của phản ứng caramen hoá, phản ứng melanoidin và
các chất màu của hoa houblon tạo nên. Hoa houblon có thể sử dụng ở dạng viên hoặc
cao hoa, thời gian tiến hành sôi hoa houblon 60 phút.
6. Lắng trong:
a. Mục đích:
Mục đích của việc lắng trong là tách hết bã hoa và làm trong dịch đường sau
khi đã houblon hóa.
b. Tiến hành:
Sử dụng thiết bị lắng trong Whirlpool. Dịch được bơm theo phương tiếp tuyến
nên tạo ra một lực hướng tâm làm bã tập trung ở tâm đáy thùng.
7. Làm lạnh:
a. Mục đích:
Làm lạnh dịch đường xuống 16
0
C để chuẩn bị cho quá trình lên men.
b. Tiến hành:
Dịch từ thiết bị lắng trong được bơm qua thiết bị làm lạnh bản mỏng, dịch và chất

tải lạnh đi ngược chiều nhau. Kết thúc quá trình làm lạnh, dịch đường được đưa đi lên
men.
4.3 – Phân xưởng lên men
4.3.1 – Quy trình công nghệ quá trình lên men:
4.3.2 – Thuyết minh quy trình công nghệ:
1. Mục đích:
Dưới tác dụng của nấm men sẽ chuyển đường thành rượu, CO
2
và các sản
phẩm phụ khác góp phần tạo hương vị cho bia.
2. Thuyết minh quy trình công nghệ:
Dịch đường sau khi làm lạnh xuống 16
0
C ở phân xưởng nấu được bơm sang
thùng lên men. Nấm men được sử dụng có thể là men tái sinh hay từ thùng nhân giống
men, chủng nấm men Shaccharomyces carlsbergenis. Sau khi lên men, men tái sinh
được trữ ở 4
0
C rồi tiến hành cho vào dịch đường trước khi cho vào thùng lên men, đối
với men từ thùng nhân giống tiến hành cho vào trước khi bơm dịch vào. Lượng nấm
men cho vào một lần ở mẻ đầu tiên và được tính cho toàn bộ thể tích dịch cuối cùng
nhận được. Lượng men giống chuyển vào là 18 triệu tế bào/ ml. Men tái sinh thường
tái sử dụng khoảng 11 thế hệ để tránh hiện tượng thoái hóa giống.
Trong quá trình bơm dịch đường vào thùng lên men tiến hành cung cấp O
2
để
nấm men sinh trưởng và phát triển.
Quá trình lên men tạo ra một lượng lớn CO
2
do đó phải đặt áp suất trong thùng

là 0,5 bar. Nếu CO
2
thoát ra lớn hơn 0,5 bar nhờ bộ áp kế CO
2
sẽ được thải ra ngoài
qua bộ phận thu hồi nhằm tránh hiện tượng nổ thùng.
Lọc bia
CO
2
Làm lạnh (-1
0
C)
Dịch đường
Bia trong
Đất lọc, Na
2
S
2
0
5
Chiết
Nấm men hoặc
sữa men
Bổ sung không khí
Sữa men
Làm lạnh (8
0
C)
Thùng lên men
CO

2
Sau khi nhận dịch 1÷2 ngày tiến hành xã cặn ở đáy. Thời gian cho một mẻ lên
men khoảng 13 - 14 ngày. Tiến hành sục CO
2
sau khi thu hồi men tái sinh hay thải
men nhằm mục đích:
+ Tăng hàm lượng CO
2
.
+ Tạo đối lưu cưỡng bức giúp nấm men tiếp xúc với cơ chất tốt hơn.
+ Huyền phù bã men lắng xuống tốt hơn.
Sau một thời gian lên men nếu ta xác định được 
0
P (độ đường còn sót lại) ≤
0,15 trong 3 ngày liên tiếp thì người ta tiến hành làm lạnh đến 8
0
C bằng các áo lạnh
đặt ở thân và đáy thùng với chất tải lạnh là alcohol 30%. Mục đích của việc làm lạnh
đến 8
0
C là để thực hiện quá trình lên men phụ. Sau đó kiểm tra chỉ số VDK (gồm các
chất diacetyl; 2,3 pentadion). Chỉ số VDK phụ thuộc vào hai yếu tố:
+ Nhiệt độ ( nhiệt độ càng cao thì VDK giảm càng nhanh).
+ Tỷ lệ men trong bia.
Nếu chỉ số này nhỏ hơn 0,15 ppm thì tiến hành hạ nhiệt độ xuống -1
0
C, nếu cao
hơn 0,15 ppm thì vẫn duy trì ở 8
0
C cho đến khi VDK nhỏ hơn 0,15 ppm mới hạ xuống

-1
0
C, sau 1 ngày thì tiến hành lọc.
Tại nhiệt độ -1
0
C này bia ổn định và nâng cao chất lượng về màu, mùi và hương
thơm cho sản phẩm.
Sau khi lên men tiến hành lọc bia. Trước khi lọc tiến hành sục CO
2
nhằm nâng
cao hàm lượng CO
2
trong bia đồng thời bổ sung Na
2
S
2
0
5
và đất lọc diatomic. Na
2
S
2
0
5
là chất chống oxy hóa nhằm tác dụng với oxy còn lẫn trong bia, chất lọc nhằm tạo lớp
trợ lọc cho bia.
Khi cho bia chứa đất lọc qua máy lọc khung bản ta bổ sung nước tiệt trùng đã
loại O
2
hòa tan để tránh hiện tượng oxy hóa gây ảnh hưởng xấu cho bia. Bia sau khi

lọc được chuyển vào thùng bia trong rồi bơm qua phân xưởng chiết
Sau mỗi lần lên men phải tiến hành vệ sinh thiết bị nhờ các tank chứa nước vệ
sinh. Cấu tạo của tank gồm 3 ngăn: ngăn đầu chứa NaOH, ngăn thứ hai chứa nước và
ngăn thứ ba chứa chất tiệt trùng. Để vệ sinh thiết bị lên men đầu cho nước nguồn vào
để rửa các cặn bã còn bám quanh thùng, sau đó rửa bằng xút, rửa lại nước lần thứ hai
và cuối cùng dùng chất tiệt trùng để rửa thiết bị.
4.4 – Phân xưởng chiết
Phân xưởng chiết gồm 3
dây chuyền : 2 dây chuyền chiết chai và 1 dây chuyền chiết lon. Dây chuyền chiết chai
với công suất 13000 chai/h đối với dây chuyền cũ, 16000 chai/h đối với dây chuyền
mới và dây chuyền chiết lon với công suất 11000 lon/h.
4.4.1 – Quy trình chiết chai:
1. Dây chuyền công nghệ:
2. Thuyết minh dây chuyền công nghệ:
Kết chai đi thẳng vào băng chuyền, công nhân bốc chai lên băng chuyền đưa
đến máy rửa chai
a. Rửa chai:
Mục đích của quá trình rửa chai nhằm rửa sạch hoàn
toàn bên trong và bên ngoài vỏ chai, bóc nhãn của vỏ chai để chuẩn bị cho quá trình
chiết.
Trước hết chai được ngâm trong nước ấm khoảng 35
o
C - rửa sơ bộ, sau khi
qua vùng ngâm nước ấm, chai được vận chuyển đến vòi phun nước ấm, tiếp đến là đến
vùng ngâm NaOH nồng đ ộ NaOH khoảng 1,5-2%, ở đây xút có 2 bể:
+Bể chính có nhiệt độ khoảng 78
0
đối với chai mới và 65
0
C đối với chai cũ

+Bể phụ có nhiệt độ khoảng 70
0
C

nồng độ NaOH khoảng 1,5-2%, áp suất bơm là 1,5
bar.
Trong quá trình ngâm xút chai được vận chuyển qua vùng phun tẩy nhãn, nhãn được
tách ra và cào ra ngoài thông qua hệ thống cào nhãn. Sau đó lần lượt chuyển đến các
Vỏ chai
Rửa chai
Chiết
Đóng nắp
Thanh trùng
Dán nhãn
Bia thành phẩm
Kiểm tra
Bia 4
0
C
Nắp ken
Máy rửa két
Nhập kho
Nhãn

×