Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Vai trò của đạo tin lành đối với quá trình hiện đại hóa xã hội Hàn Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.42 KB, 113 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



LÊ VĂN TUYÊN


VAI TRÒ CỦA ĐẠO TIN LÀNH ĐỐI VỚI
QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA XÃ HỘI HÀN QUỐC


Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số : 60 22 03 09


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Quang Hƣng




Hà Nội - 2014





LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng cá
nhân, luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS
Nguyễn Quang Hưng. Những tư liệu và số liệu sử dụng trong luận văn được
trích dẫn cụ thể, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Tác giả Luận văn

LÊ VĂN TUYÊN




LỜI CẢM ƠN

Luận văn cao học được hoàn thành tại Khoa Triết học, Trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn. Để hoàn thành được luận văn này, tác giả xin
bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến Trường Đại học Khoa học xã
hội và nhân văn cũng như các thầy cô giáo trong Khoa Triết học đã trực tiếp
giảng dạy và truyền đạt những kiến thức khoa học chuyên ngành tôn giáo cho
bản thân tác giả trong suốt những năm tháng qua.
Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn đến giáo viên hướng dẫn khoa học
PGS.TS Nguyễn Quang Hưng, người thầy đã đi cùng tác giả trong suốt những
năm tháng ở Đại học, qua khoá luận tốt nghiệp và trực tiếp hướng dẫn, giúp
đỡ, dìu dắt tác giả trong quá trình triển khai, nghiên cứu và hoàn thành luận
văn với đề tài “Vai trò của đạo Tin Lành đối với quá trình hiện đại hoá xã hội
Hàn Quốc”.
Đồng thời, tác giả cũng xin nghi nhận những đóng góp quí báu và nhiệt
tình của các bạn trong lớp Cao học Triết học, Chuyên ngành Tôn giáo học
K20 (Niên khoá 2012 – 2014) đã có những góp ý và giúp đỡ cùng tác giả triển

khai nghiên cứu, tìm kiếm tài liệu.
Cuối cùng tác giả xin cảm ơn gia đình và người thân đã luôn ở bên, chu
cấp tài chính, cổ vũ và động viên tác giả vượt qua khó khăn để hoàn thành tốt
luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!






DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Cấu trúc dân số tôn giáo của Hàn Quốc theo giới năm 2005
Bảng 1.2: Phân bố tôn giáo theo độ tuổi năm 2005
Bảng 1.3: Cấu trúc phân bố tôn giáo Hàn Quốc theo khu vực năm
2005
Bảng 2.1: Các trường học đầu tiên ở Hàn Quốc do các nhà truyền giáo
thành lập những năm 1886 – 1890
Bảng 2.2: Số lượng các trường học do các nhà truyền giáo mở ra từ
năm 1894 đến 1904
Bảng 2.3: Số lượng các trường học của đạo Tin Lành năm 2008
Bảng 2.4: Tình hình thành lập bệnh viện truyền giáo (bao gồm cả
phòng khám) của các giáo phái Tin Lành tính đến năm 1913
Bảng 2.5: Số lượng các bệnh nhân được chữa trị bởi các bệnh viện
truyền giáo Tin Lành, năm 1892
Bảng 3.1: Tỉ lệ đồng nhất tôn giáo của các cặp vợ chồng




1
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 10
Chƣơng 1: LỊCH SỬ TRUYỀN BÁ VÀ THỰC TRẠNG ĐẠO TIN LÀNH Ở
HÀN QUỐC HIỆN NAY 10
1.1. Qúa trình du nhập và phát triển đạo Tin Lành ở Hàn Quốc 11
1.2. Thực trạng đạo Tin Lành ở Hàn Quốc hiện nay 26
1.3. Một số chi phái chính trong Cộng đồng Tin Lành Hàn Quốc 31
Chƣơng 2: TÁC ĐỘNG CỦA ĐẠO TIN LÀNH TỚI CÁC LĨNH VỰC KINH
TẾ, GIÁO DỤC, Y HỌC VÀ VĂN HOÁ – XÃ HỘI 37
2.1. Tác động của đạo Tin Lành tới các lĩnh vực kinh tế và giáo dục 39
2.2. Tác động của đạo Tin Lành tới các lĩnh vực y học và văn hoá – xã hội 60
Chƣơng 3: ĐẠO TIN LÀNH VỚI HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ KINH NGHIỆM CHO
VIỆT NAM 73
3.1. Đạo Tin Lành với vấn đề hiện đại hoá 73
3.2. Sự chuyển biến từ xã hội truyền thống sang xã hội Hàn Quốc hiện đại 76
3.3. Một số hạn chế của đạo Tin Lành Hàn Quốc 84
3.4. Một số kinh nghiệm cho Việt Nam 91
KẾT LUẬN 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102


2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong thế kỉ 21 – kỷ nguyên mà toàn cầu hoá len lỏi
vào trong mọi ngóc ngách của đời sống. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc muốn tồn
tại không thể tự tách mình ra khỏi bối cảnh thế giới và khu vực; ngược lại, cần

phải đẩy mạnh giao lưu hợp tác với các quốc gia, dân tộc khác. Thực tế lịch sử
cho thấy giao lưu văn hoá luôn là một trong những yếu tố để mỗi dân tộc tự
hoàn thiện mình. Việt Nam và Hàn Quốc đã từng có mối bang giao trong lịch
sử, hai nước được xem là những nước “đồng văn” (tương đồng về văn hoá),
đều nằm ở phía Đông của châu Á, đều có phần đầu của đất nước tiếp giáp với
Trung Quốc, còn một phần thông ra biển. Cả hai dân tộc đều trải qua hàng
ngàn năm dựng nước và giữ nước, đều anh hùng và bất khuất trong đấu tranh
giữ nền độc lập, nhưng mỗi nước có một con đường phát triển khác nhau. Và
quan hệ Việt – Hàn đương đại đang mở ra cơ hội to lớn cho cả hai dân tộc.
Những kiến thức, những hiểu biết về dân tộc, lịch sử, văn hoá, và tôn giáo,
sẽ giúp cho mối quan hệ giữa hai bên được thuận lợi và bền chặt hơn.
Mặt khác, trong những thập niên vừa qua tại Việt Nam, đạo Tin Lành
có những bước phát triển rất đáng lưu ý, đặc biệt tại các vùng cao, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số như Tây Nguyên và các tỉnh miền núi phía Bắc. Phải làm
gì để ứng phó với thực trạng trên hiện nay rõ ràng là những vấn đề thực tiễn
đang đặt ra và cần có lời giải đáp. Để đáp ứng đòi hỏi thực tiễn đó, cần có
những nghiên cứu không chỉ từ thực tiễn đời sống của đạo Tin Lành trong
nước mà phải kết hợp với việc nghiên cứu nước ngoài, nhất là vai trò của đạo
Tin Lành ở các quốc gia trong khu vực cận kề để có cái nhìn toàn diện. Do đó,
nghiên cứu vai trò của đạo Tin Lành đối với hiện đại hoá xã hội Hàn Quốc


3
mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc góp phần tăng cường hiểu biết thực trạng đạo
Tin Lành ở Hàn Quốc đồng thời rút ra những kết luận và bài học nhằm phát
huy tính tích cực của tôn giáo này vào quá trình phát triển xã hội và hạn chế
những tác động tiêu cực của nó trong điều kiện hội nhập quốc tế và khu vực
hiện nay.
Hơn nữa, cộng đồng Tin Lành Hàn Quốc cũng như vai trò của nó đối
với sự biến đổi chính trị, xã hội, kinh tế của quốc gia này đã và đang nhận

được sự quan tâm, nghiên cứu của giới chính trị và học giả nhiều nước trên
thế giới. Do đó, cần phải nghiên cứu nó để thấy được bài học kinh nghiệm về
tôn giáo và xã hội trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước
hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên đây, chúng tôi quyết định chọn “Vai trò
của đạo Tin Lành đối với quá trình hiện đại hoá xã hội Hàn Quốc” làm đề
tài nghiên cứu cho luận văn.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đạo Tin Lành là một trong ba tôn giáo lớn ở Hàn Quốc và có ảnh
hưởng không nhỏ đến đời sống văn hoá, xã hội của quốc gia này. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu về lịch sử Tin Lành Hàn Quốc và vai trò của nó đối với
việc hiện đại hoá xã hội Hàn Quốc ở Hàn Quốc nhưng phần lớn các công trình
này được viết bằng tiếng Hàn hoặc tiếng Anh nên bị hạn chế trong việc phổ
cập tại Việt Nam. Có thể kể ra một số công trình bằng tiếng Anh như sau:
Chung-shin Park, Protestantism and politics in Korea, University of
Washington Press, Seattle and London, 2003.


4
Tác phẩm đã khái lược khá đầy đủ về lịch sử của đạo Tin Lành Hàn
Quốc và mối quan hệ của nó đối với vấn đề chính trị của quốc gia này.
Lee, Soon Nim, Christian Communications and its impact on Korean
society: past, present and future, Doctor of Philosophy thesis, School of
Journalism and Creative Writing – Faculty of Creative Arts, University of
Wollongong, 2009.
Luận án đã chứng minh truyền thông Tin Lành như phát thanh, xuất bản
sách báo, tạp chí, dịch Kinh thánh đã và đang có ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển xã hội và quốc gia Hàn Quốc hiện đại.
Ở Việt Nam, những năm gần đây đã có một số bài viết nghiên cứu về
đạo Tin Lành Hàn Quốc, có thể kể tên như sau:

Tác giả Lý Xuân Chung trong bài viết “Vai trò của đạo Tin Lành ở Hàn
Quốc và nguyên nhân suy giảm tốc độ phát triển những năm gần đây” (Tạp
chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 9, 2009) đã chỉ ra đạo Tin Lành có bốn vai trò
đối với xã hội Hàn Quốc như sau: Thứ nhất, đạo Tin Lành hoà chung với
dòng chảy của tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc cao của dân tộc Hàn, cổ
xuý tinh thần dân tộc, đặc biệt là trong thời kỳ đấu tranh chống phát xít Nhật
trước năm 1945; thứ hai, đạo Tin Lành đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp
giáo dục ở Hàn Quốc; thứ ba, đạo Tin Lành có ảnh hưởng mạnh và sâu sắc tới
sự biến đổi của xã hội Hàn Quốc; thứ tư, Đạo Tin Lành có vai trò lớn trong
vấn đề tiếp biến văn hoá ở Hàn Quốc – tạo nên những nét tươi mới. Đồng thời
tác giả đã nêu ra một số nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm tốc độ phát triển
của đạo Tin Lành những năm gần đây.
Sang Gyoo Lee nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Tin Lành đối với xã hội
Hàn Quốc trong bài viết “Đạo Tin Lành có ảnh hưởng đến Hàn Quốc như thế


5
nào?” (Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 1, 2012). Theo tác giả, ảnh hưởng của
đạo Tin Lành đối với xã hội Hàn Quốc được thể hiện trên nhiều phương diện
như: thúc đẩy hiện đại hoá xã hội Hàn Quốc thông qua giáo dục hiện đại và y
tế; đả phá mê tín dị đoan, giáo dục cho phụ nữ và đề cao nữ quyền; có nhiều
đóng góp cho phong trào giải phóng dân tộc ở Triều Tiên,… Tóm lại, đạo Tin
Lành chính là con đường hiện đại của Hàn Quốc. Đây thực sự là những gợi ý
hết sức quí báu cho luận văn.
Luận văn thạc sĩ “Tin Lành Việt Nam với hiện đại hoá (trong cái nhìn
so sánh với Tin Lành Hàn Quốc)” (Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam
học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011), dưới góc độ tôn giáo học so sánh, tác
giả Trần Thị Tuyết đã tiến hành so sánh đạo Tin Lành với quá trình hiện đại
hoá ở cả hai nước Việt Nam và Hàn Quốc trên các khía cạnh kinh tế và giáo
dục. Tuy nhiên, luận văn mới chỉ dừng lại ở mức độ so sánh chứ chưa thực sự

đi sâu phân tích vai trò của đạo Tin Lành đối với việc hiện đại hoá xã hội Hàn
Quốc, đặc biệt trên các khía cạnh y tế và biến đổi văn hoá.
Tác giả Đỗ Quang Hưng trong bài viết “Đạo Tin Lành ở Việt Nam và
Hàn Quốc: Hai số phận văn hoá” (Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9,
2013) đã trả lời cho câu hỏi tại sao đạo Tin Lành ở Việt Nam và Hàn Quốc lại
có hai số phận văn hoá khác biệt. Theo đó,ở cả hai quốc gia, đạo Tin Lành đã
trở thành thực tại tôn giáo ổn định, có những điểm tương đồng nhất định và
không ít những điểm khác biệt. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định đạo Tin
Lành Hàn Quốc có vị trí lớn, có tính cách chủ đạo bộ mặt văn hoá của Hàn
Quốc bởi tôn giáo này đã có những nỗ lực “bản địa hoá” đến “tự túc thần
học”. Từ phương diện thần học, tín lý đến những xung đột văn hoá bản địa
quen thuộc,… đều được họ giải quyết khá tốt đẹp. Đây thực sự là nền tảng
hữu ích cho luận văn.


6
Tóm lại, những công trình trên dưới những góc độ khác nhau đã khái
lược được lịch sử đạo Tin Lành Hàn Quốc và đưa ra những nhận định ban đầu
về vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội Hàn Quốc. Tuy nhiên chưa có
công trình chuyên biệt nào đi sâu nghiên cứu vai trò của đạo Tin Lành đối với
quá trình hiện đại hoá ở Hàn Quốc. Luận văn này sẽ đi sâu phân tích vai trò
của đạo Tin Lành đối với việc hiện đại hoá xã hội Hàn Quốc, để từ đó rút ra
những kinh nghiệm bổ ích cho Việt Nam trong công cuộc phát triển đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu sự hình thành và phát triển đạo Tin Lành ở Hàn
Quốc, luận văn chỉ ra đạo Tin Lành đóng vai trò to lớn trong việc kiến thiết xã
hội Hàn Quốc hiện đại.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên luận văn đặt ra những nhiệm vụ sau đây:

- Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của đạo Tin Lành Hàn
Quốc nói chung và một số giáo phái trong cộng đồng Tin Lành Hàn Quốc nói
riêng.
- Phân tích tác động của đạo Tin Lành Hàn Quốc trên một số lĩnh vực
kinh tế, giáo dục, y tế và văn hoá xã hội.
- Rút ra một số hạn chế và kinh nghiệm lịch sử về vai trò của đạo Tin
Lành đối với hiện đại hoá Hàn Quốc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đạo Tin Lành và vai trò của nó
đối với quá trình hiện đại hoá của Hàn Quốc. Hiện đại hoá, hay chính xác hơn,


7
được hiểu như quá trình của tính hiện đại (Modernity). Hiện đại hoá ở đây
được xác định trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh kinh tế - văn
hoá, giáo dục.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung trên các lĩnh vực kinh tế -
văn hoá chứ không bàn đến những vấn đề liên quan đến chính trị.
5. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý thuyết
Tôn giáo học là một ngành nghiên cứu sử dụng rất nhiều lý thuyết,
trong luận văn này tác giả sử dụng những lý thuyết sau:
- Lý thuyết cấu trúc chức năng: Thuyết cấu trúc chức năng nhấn mạnh
tính liên kết chặt chẽ của các bộ phận cấu thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ
phận đều có chức năng nhất định góp phần đảm bảo sự tồn tại của chỉnh thể
đó với tư cách là một cấu trúc tương đối ổn định, bền vững. Tác giả sử dụng
lý thuyết này để thấy được đạo Tin Lành với tư cách là một bộ phận trong
chỉnh thể xã hội Hàn Quốc nên nó cũng có chức năng nhất định đối với việc
duy trì trật tự ổn định của xã hội Hàn Quốc.
- Lý thuyết hiện đại hoá: Lý thuyết này được sử dụng để giải thích quá

trình hiện đại hoá trong xã hội. Hiện đại hoá được đề cập đến như một mô
hình chuyển đổi từ trạng thái tiền hiện đại hay truyền thống sang trạng thái
hiện đại. Lý thuyết hiện đại hoá cố gắng xác định các biến số xã hội góp phần
vào tiến bộ, phát triển xã hội và tìm cách giải thích quá trình tiến hoá xã hội.
Tác giả sử dụng lý thuyết này để tìm hiểu đạo Tin Lành như một biến số xã
hội có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội Hàn Quốc.



8
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng những phương
pháp nghiên cứu sau đây
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử tôn giáo: Từ góc độ phát triển lịch sử
mà tôn giáo đã trải qua để tiến hành nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích tài liệu: Dựa vào những tư liệu, công trình,
sách, báo tạp chí, và đọc các trang tài liệu có liên quan để tổng hợp, phân tích,
đánh giá.
- Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp liên ngành, phương pháp thống kê
so sánh, hỏi ý kiến chuyên gia.
6. Đóng góp của luận văn
Thông qua kết quả nghiên cứu, luận văn giúp mọi người hiểu hơn về
đạo Tin Lành Hàn Quốc và thấy được những mặt tích cực của tôn giáo này
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Luận văn hy vọng sẽ trở thành tài
liệu hữu ích cho những ai quan tâm, nghiên cứu về đạo Tin Lành Hàn Quốc.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạt động
thực tiễn trong quá trình hoạch định chính sách tôn giáo và quản lý nhà nước
về hoạt động tôn giáo nói chung và đối với hoạt động của đạo Tin Lành nói
riêng.

8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương, 9
tiết:


9
Chương 1: Lịch sử truyền bá và thực trạng đạo Tin Lành ở Hàn Quốc
hiện nay.
Chương 2: Tác động của đạo Tin Lành tới các lĩnh vực kinh tế, giáo
dục, y học và văn hoá – xã hội Hàn Quốc.
Chương 3: Đạo Tin Lành với hiện đại hoá và kinh nghiệm cho Việt
Nam.
















10
NỘI DUNG

Chƣơng 1: LỊCH SỬ TRUYỀN BÁ VÀ THỰC TRẠNG ĐẠO TIN
LÀNH Ở HÀN QUỐC HIỆN NAY
Đạo Tin Lành là một trong ba nhóm hệ phái lớn của Kitô giáo, đó là
Công giáo (Catholism), Tin Lành (Protestantism), và Chính thống giáo
phương Đông (Eastern Orthodox). Các hệ phái Tin Lành ra đời trong phong
trào cải cách tôn giáo ở châu Âu thế kỉ 16 gắn liền với các tên tuổi Martin
Luther, Jean Calvin và Ulrich Zwingli. Luther, với tư cách là tu sĩ dòng
Augustine, đã tiến hành cuộc cải cách với mục tiêu kêu gọi cải cách từ bên
trong Giáo hội Công giáo Lamã và thành lập Giáo hội Luther. Sau đó, ở châu
Âu nhiều người có quan điểm tương tự như Luther cũng bắt đầu tách khỏi
Công giáo và thành lập các hệ phái khác nhau. Họ được gọi dưới tên chung
theo tiếng Anh là Protestantism. Khi chuyển ngữ sang tiếng Việt, thuật ngữ
này được gọi là Kháng cách hay Tân giáo (để phân biệt với cựu giáo là Công
giáo). Do đó, trong luận văn này thuật ngữ Tin Lành được sử dụng mang ý
nghĩa Cộng đồng Kháng cách.
Đạo Tin Lành hay Cộng đồng Kháng cách bao gồm các giáo hội thuộc
Kitô giáo chấp nhận nền thần học của cuộc Cải cách Kháng cách. Nền thần
học này từ chối công nhận thẩm quyền giáo hoàng, với niềm tin xác tín rằng
chỉ có Kinh Thánh (không phải truyền thống hoặc quyền giải thích Kinh
Thánh dành cho các chức sắc cao cấp của giáo hội là nguồn chân lý duy nhất)
và tin rằng chỉ nhờ ân điển của Thiên Chúa thì con người mới được cứu rỗi.
Những luận điểm chính của thần học Tin Lành được tóm tắt trong Năm Tín lí
Duy nhất. Đó là Duy Chúa Cơ đốc, duy Kinh Thánh, duy đức tin, duy ân điển
và duy Chúa được tôn cao.


11
Nhìn chung, hầu hết các hệ phái Tin Lành đều đồng thuận với nhau về
các giáo lý quan trọng cùng các giá trị căn cốt trong đức tin Kitô và tôn trọng
sự khác biệt trong quan điểm không liên quan đến các vấn đề không quan

trọng trong thần học, nghi lễ và tổ chức. Hiện nay, rất khó để có một con số
chính xác nhưng ước tính có khoảng 33.000 hệ phái hiện diện trên 238 quốc
gia và mỗi năm lại có thêm hàng trăm giáo phái khác mới ra đời. Có khoảng
800 triệu tín đồ đạo Tin Lành trong số 2,2 tỉ tín đồ Ki tô giáo trên toàn thế
giới, bao gồm 170 triệu tại Bắc Mỹ, 160 triệu tại châu Phi, 120 triệu tại châu
Âu, 70 triệu tại châu Mỹ La tinh, 60 triệu tại châu Á, và 10 triệu tại châu Đại
Dương [64]. Riêng tại châu Á, trong những thập niên cuối thế kỉ 20 trờ lại
đây, đạo Tin Lành tại nhiều quốc gia có sự phát triển rất nhanh, đặc biệt là ở
Hàn Quốc và Trung Quốc.
1.1. Qúa trình du nhập và phát triển đạo Tin Lành ở Hàn Quốc
Thuật ngữ đạo Tin Lành ở Hàn Quốc được gọi Ke – Sin – Kyo (Cách
tân giáo) hoặc Ky – doc – Kyo (Tin Lành giáo), là những từ ngữ gốc Hán và
được sử dụng một cách thống nhất từ khi du nhập tới tận ngày nay. Thời điểm
đạo Tin Lành du nhập và Hàn Quốc được xác định vào khoảng năm 1884, do
một nhà truyền giáo đồng thời là bác sĩ người Mỹ tên là Horace N.Allen
truyền vào. Trong khoảng thời gian 130 năm tính đến nay, quá trình truyền bá
có nhiều thăng trầm và mỗi giai đoạn có đặc trưng riêng do hoàn cảnh kinh tế
- xã hội qui định. Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu hoàn cảnh xã hội trước khi
Tin Lành truyền vào.
1.1.1. Giai đoạn trước năm 1884
Nhà nước phong kiến Choson (1392 – 1910) thời mạt kỳ đã bộc lộ sự
khủng hoảng về mọi mặt, xã hội rối ren, lòng dân bất ổn. Do bị áp bức nặng


12
nề về kinh tế, khủng hoảng về tinh thần nên người nông dân Choson đã tin
theo giáo lý của một tôn giáo xuất hiện trên bán đảo, là Thiên đạo giáo và họ
tập hợp thành một lực lượng, khởi nghĩa chống lại triều đình. Đứng trước tình
hình đó, chính quyền Choson coi Thiên đạo là tôn giáo làm đảo lộn trật tự xã
hội và lừa phỉnh nhân dân nên đã bắt người đứng đầu là Chuê Che U, xử tử

hình ông vào năm 1864.
Tư tưởng Đông học của Chuê Che U – tư tưởng cốt lõi của Thiên đạo
giáo tuy chưa thành hiện thực nhưng đã gây ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội
và để rồi 30 năm sau đó, nó bùng lên thành một phong trào nông dân rộng
khắp trong lịch sử Hàn Quốc. Phong trào Đông học dấy lên đã cho thấy sự suy
vi của tư tưởng cai trị Nho giáo. Trong khi đó, Phật giáo, Đạo giáo, Saman
giáo vào cuối thời Choson lại suy yếu hơn bao giờ hết. Tinh thần, tư tưởng
của đông đảo quần chúng nhân dân bị khủng hoảng như vậy chính là điều kiện
để Kitô giáo (chủ yếu là Công giáo và Tin Lành) du nhập vào bán đảo này.
Có thể nói rằng, người Choson đã biết đến châu Âu và tư tưởng phương
Tây vào khoảng cuối thế kỉ 16, đầu thế kỷ 17. Các sứ thần định kỳ sang sứ
nhà Thanh đã từng gặp các sứ giả phương Tây. Sử sách Choson về những
chuyến đi sứ sang Trung Quốc đã ghi chép có một nhà thực học, một đại quan
của Choson là Yi Xu Kwang (Lý Tuý Quang) đi sứ sang Trung Quốc vào năm
1597 đã mang về nước bản đồ châu Âu và mấy quyển Kinh Thánh.
Từ thế kỷ 17 trở đi, Công giáo đã bắt đầu được truyền vào bán đảo và
chủ yếu thu hút sự chú ý của một số người thuộc tầng lớp trên. Nhưng do tư
tưởng của Công giáo nêu ra không thể dung hợp cùng tư tưởng Tống Nho
(Tân Khổng giáo) nên đã bị tầng lớp “Yangban”
1
Choson bài xích. Các giáo sĩ

1
. Yangban là tầng lớp quí tộc. Cơ cấu xã hội Choson được phân chia thành 4 giai cấp: Yangban (quí tộc),
Chung min (trung nhân), Yang min (thường dân) và Ch’o min (nô tỳ). Giới trí thức là tầng lớp chiếm ưu thế


13
phương Tây tiếp tục theo các thuyền buôn xâm nhập vào Bán đảo và truyền
giáo. Đối tượng mà họ tiếp cận chủ yếu là dân nghèo và phụ nữ. Thời kỳ này,

việc phân định rạch ròi giáo sĩ Công giáo hay Tin Lành chưa được rõ ràng,
triều đình Choson thường gọi chung là giáo sĩ phương Tây, về tư tưởng gọi
chung là tư tưởng phương Tây. Việc đạo Kitô xâm nhập vào dân chúng đã bị
tầng lớp Yangban bảo thủ phản đối quyết liệt và triều đình Choson ra lệnh
thẳng tay đàn áp, một số giáo sĩ bị bắt, trong đó, giáo sĩ người Pháp bị xử tử
hình cùng nhiều tín đồ khác.
Sau sự kiện trên, Pháp mượn cớ đem các chiến thuyền chiếm đảo Kang
Hoa và tàu chiến Mỹ tiến thẳng vào sông TeTông, đến sát Bình Nhưỡng.
Triều đình Choson đã chống trả quyết liệt và cuối cùng tàu chiến phương Tây
phải rút lui. Trước nguy cơ xâm lược của các nước phương Tây như vậy,
chính quyền Choson đã thi hành chính sách bế quan toả cảng, cấm thông
thương với phương Tây, cấm truyền bá đạo Kitô. Ngoài lệnh cấm được ban ra
“xích hoà bi”
2
còn được dựng ở khắp nơi để khuyến cáo dân chúng.
Sở dĩ chính quyền Choson phản kháng quyết liệt trước sự xâm nhập của
tư tưởng phương Tây, mà cốt lõi là đạo Kitô là bởi các nguyên nhân sau: thứ
nhất, tư tưởng bình đẳng và tự do cá nhân của phương Tây đã đi ngược lại với
tư tưởng đẳng cấp, tôn ti trật tự của Nho giáo Hàn; thứ hai, đạo Kitô loại bỏ
nghi lễ truyền thống thờ cúng tổ tiên ông bà vốn đã sâu rễ bền gốc trong xã

trong đời sống chính trị xã hội Choson, họ là những người lập nên tầng lớp Yangban bao gồm những thành
viên ở cả hai giới quân sự và dân sự. Ở triều đình, tầng lớp Yangban bao gồm các quan văn và quan võ, họ là
giai cấp nắm quyền thống trị trong bộ máy chính quyền nhà nước. Do chiếm ưu thế cao trong xã hội nên
Yangban chỉ thực hiện các nghĩa vụ hành chính và dành cả cuộc đời cho việc giáo dục, học tập, tu dưỡng đạo
đức Khổng giáo bởi đó là một học thuyết và là điều cần thiết với vương triều Choson.

2
. Bia bài xích chủ trương hoà nghị với các nước phương Tây. Để thể hiện quyết tâm thực hiện chính sách bế
quan toả cảng, triều đình Choson đã cho dựng nhiều tấm bia đá ở các đường phố chính kinh đô Seoul và ở cả

nông thôn. Nội dung những tấm bia có nghi “bọn mọi rợ phương Tây đang xâm lược nước ta. Nếu chúng ta
không chống lại, chúng ta sẽ phải nhân nhượng chúng… kêu gọi nhân nhượng là phản bội đất nước…”.


14
hội Hàn Quốc hàng nghìn năm; thứ ba, Nho giáo Hàn thời mạt kỳ Choson đã
suy yếu, xã hội rối ren nên triều đình phong kiến Choson sợ tư tưởng phương
Tây nêu cao tự do, bình đẳng tràn vào thì sẽ làm cho xã hội ngày càng thêm
rối loạn và gây bất lợi cho triều đình.
Sự phản kháng của triều đình phong kiến Choson đối với sự du nhập
của tư tưởng phương Tây, đạo Kitô có thể nói rằng mạnh mẽ nhất quyết liệt
nhất so với các nước trong khu vực đương thời. Nhà Thanh Trung Quốc và
nhà Nguyễn Việt Nam cũng thi hành chính sách bế quan toả cảng, chống lại
sự xâm nhập của phương Tây, nhưng sự chống trả yếu ớt và thậm chí còn
nhanh chóng bị phương Tây xâm lược, thống trị. Dù sao, nhìn nhận một cách
khách quan thì xu thế giao lưu, hội nhập quốc tế cả về kinh tế và văn hoá là xu
thế thế giới đã hình thành và lan rộng. Việc “đóng cửa” không hoà nhập với
xu thế chung chỉ kìm hãm sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội của quốc gia
đó, thậm chí bị thôn tính. Thực tế lịch sử đã chứng minh, nhà Nguyễn Việt
Nam đầu hàng đế quốc Pháp, còn triều Lý Hàn Quốc cũng không thể ngăn cản
các đoàn truyền giáo phương Tây và xã hội Choson lâm vào cảnh hỗn loạn khi
tư tưởng Đông học lợi dụng chính sách chống phương Tây của triều đình để
chống lại nhà nước Choson. Ở khu vực Đông Á, duy chỉ có Nhật Bản là ngoại
lệ.
1.1.2. Giai đoạn 1884 – 1920
Đạo Tin Lành du nhập vào Choson được đánh dấu chính thức vào năm
1884 – năm mà giáo hội Trưởng Lão (Presbyterian) bổ nhiệm bác sĩ Horace
Allen là nhà truyền giáo, trong cùng năm đó, giáo hội Giám Lý (Methodist) cử
bác sĩ WB Scranton và mẹ của ông là bà Marry Scranton cùng mục sư Henrry
Appenzeller đến truyền giáo tại Hàn Quốc. Có phần khác với Công giáo, đạo



15
Tin Lành chủ yếu xâm nhập vào tầng lớp dưới của xã hội Choson, đặc biệt là
phụ nữ. Tuy cũng bị coi là tư tưởng của Phương Tây, cũng bị bài xích, phản
kháng của những nhà Nho bảo thủ nhưng đạo Tin Lành đã khôn khéo len lỏi
được trong dân chúng, thu hút được sự tin theo của tầng lớp bình dân bị áp
bức nặng nề về vật chất, bị khủng hoảng về tinh thần. Lý do đạo Tin Lành
xâm nhập vào xã hội Choson một cách yên bình hơn Công giáo có thể được lý
giải như sau:
Thứ nhất, đạo Tin Lành chấp nhận nhiều yếu tố thần thiêng của tín
ngưỡng Saman bản địa. Sự truyền bá và lý giải về đấng tối cao do Trời cử
xuống để cứu rỗi chúng sinh, giáo hoá dân chúng cũng gần như câu chuyện
thần thoại TanGun của dân tộc Hàn. TanGun là thuỷ tổ của dân tộc Hàn, là
con của Huan Ung được Ngọc Hoàng Thượng đế phái xuống bán đảo Hàn dạy
dân làm ăn sinh sống. Câu chuyện thần thoại dựng nước này bị triều đình
Choson bác bỏ, các nhà nho không công nhận, nhưng với người dân Hàn
TanGun luôn là Saman vĩ đại nhất. Sự mập mờ, lẫn lộn trong sự lý giải về
đấng tối cao xuống trần gian cứu rỗi chúng sinh nhiều khi đã có hiệu quả với
tầng lớp dưới vốn không nhiều tri thức.
Thứ hai, Tin Lành khéo khai thác tính thiện của Phật giáo. Thiện tâm là
tôn chỉ của Phật giáo. Tin Lành Hàn Quốc khuyến khích mọi người làm điều
thiện, các giáo sĩ, tín đồ Tin Lành không những tuyên truyền mà còn trực tiếp
đi làm điều thiện. Họ tự nguyện giúp đỡ những người nghèo khó, cô độc, tàn
tật, già cả ốm đau… và chút ít vật chất, kinh tế giúp người cơ nhỡ, khó khăn
với tấm lòng chân thành nên đã dần lay động “bản tính thiện” của người
phương Đông nói chung và dân tộc Hàn nói riêng. Các bệnh viện, trường học
mà họ lập nên cứu giúp người ốm đau, dạy chữ cho người nghèo càng có ấn
tượng đối với tầng lớp khốn cùng của xã hội Choson.



16
Thứ ba, tư tưởng bình đẳng như liều thuốc hữu hiệu chữa căn bệnh tự ti,
yếu hèn, không làm chủ được bản thân mình của những người thuộc tầng lớp
dưới chịu sự áp bức nặng nề của tư tưởng Nho giáo, đặc biệt là đối với phụ nữ
Choson. Những tư tưởng như bình đẳng giới tính, tự do hôn nhân… được phụ
nữ Choson đồng tình và tiếp nhận.
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, xã hội Choson liên tiếp xảy ra nhiều biến
cố quan trọng. Thế lực của Dae Won Gun chống trả quyết liệt của tư tưởng
phương Tây, kéo dài được 10 năm thì suy yếu, từ đó, chính quyền Choson tập
trung vào tay thế lực họ Min do vương phi cầm đầu. Thế lực chính trị thay đổi
đã khiến cho chính sách đối nội và đối ngoại cũng thay đổi theo. Về đối nội,
dòng họ Min thực hiện chính sách khai hoá, muốn phát triển đất nước theo
kiểu Duy Tân Minh Trị của Nhật Bản. Tuy chính sách là thế nhưng dòng họ
Min thực hiện rất dè dặt, việc khai hoá hầu như không có tiến triển. Điều này
đã khiến cho phái khai hoá bất bình và làm cuộc chính biến vào năm 1884.
Phái này lập nên chính phủ mới và tiến hành cải cách chính trị, có dự định cải
cách một số lĩnh vực kinh tế, xã hội để xây dựng một quốc gia cận đại. Nhưng
cuộc đảo chính đã bị nhà Thanh can thiệp và thất bại sau ba ngày. Một số
người đứng đầu như Kim Ôk Gym, Bak Yeong Hyo… phải chạy sang Nhật tỵ
nạn. Về đối ngoại, chính quyền họ Min tuy ban đầu từ chối việc mở cửa thông
thương với người nước ngoài nhưng bị phái cải cách phản đối. Hơn nữa, Nhật
Bản và phương Tây dùng sức mạnh quân sự để bắt ép Choson ký điều ước
thông thương. Đặc biệt, Nhật Bản sau cuộc cải cách Duy Tân Minh Trị đã
thiết lập thể chế mới, kinh tế, quân sự lớn mạnh nên đã gây áp lực với
Choson, cho tàu chiến tiến vào Kang Hoa. Trong bối cảnh đó, Choson đã ký
điều ước với Nhật vào năm 1876. Đây là điều ước đầu tiên của Choson ký với
nước ngoài trong thời cận đại và có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Theo điều



17
ước này, Choson sẽ mở cửa ba hải cảng và cho phép Nhật cư trú ở những nơi
nhất định trong bán đảo.
Tiếp sau đó, Choson lần lượt ký các điều ước thông thương với Mỹ,
Anh và một số nước phương Tây khác. Sau khi mở cửa thông thương, quyền
tự chủ của Choson ngày càng bị đe doạ nghiêm trọng. Trước tình hình đó,
chính quyền Choson cho rằng, giáo dục là quan trọng nhất đối với việc giành
lại quyền tự chủ và phát động phong trào khai sáng. Chính quyền đã cho mở
một số trường giảng dạy tiếng Anh, giảng dạy tri thức mới, khuyến khích
người dân dạy chữ Hàn để nhanh chóng tiếp thu thông tin mới, tri thức mới và
chế độ khoa cử theo chữ Hán theo lối xưa cũ bị bãi bỏ. Như vậy, chính những
điều kiện chính trị đối nội và đối ngoại đương thời đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tư tưởng mới, tôn giáo mới, trong đó có Tin Lành xâm nhập và bén rễ trên
Bán đảo Hàn.
Năm 1910, Nhật Bản chính thức đặt ách thống trị ở Bán đảo Hàn. Có
thể nói, đặc trưng nổi bật nhất trong chính sách cai trị của Nhật Bản ở Bán đảo
Triều Tiên là ý đồ biến Choson mãi mãi trở thành một phần của Nhật Bản. Để
thực hiện điều này, Nhật Bản đã tiến hành thay đổi một cách toàn diện cấu
trúc xã hội Choson và thúc đẩy mạnh việc đồng hoá người Hàn thành người
Nhật. Chế độ cai trị của Nhật Bản hà khắc theo lối quân phiệt đã khiến cho
đời sống dân chúng vốn đã khốn khổ càng thêm cùng cực. Đây là thời điểm
tạo điều kiện rất thuận lợi cho một tôn giáo mới ở Hàn Quốc, tức Thiên đạo
giáo đã nêu trên bùng phát trở lại. Người dân bị khủng hoảng tinh thần trầm
trọng đã tin theo tôn giáo này mong muốn được giải thoát. Hơn nữa, tôn giáo
này đã cổ xuý tinh thần dân tộc, thức tỉnh và tập hợp tín đồ chống lại ách đô
hộ của Nhật Bản. Cùng với Thiên đạo giáo, Công giáo và đạo Tin Lành bị
Nhật Bản áp chế cũng đã truyền bá tinh thần độc lập tự chủ, kết hợp với các


18

tôn giáo truyền thống tuyên truyền mạnh tinh thần yêu nước không chỉ trong
giới tín đồ mà mở rộng sang giới sinh viên tri thức.
Đầu năm 1919, các nhà lãnh đạo phong trào yêu nước mà trung tâm
là các chức sắc tôn giáo trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong
nước đã chuẩn bị cho một phong trào độc lập trên quy mô lớn. Họ đã thảo
luận phương hướng của phong trào dân tộc, ý chí độc lập tự chủ, soạn thảo
Bản Tuyên ngôn độc lập, kêu gọi tín đồ các giáo phái cùng học sinh, sinh
viên dự định tiến hành một cuộc biểu tình đòi độc lập dân tộc, tuyên bố Bản
Tuyên ngôn độc lập trước đoàn thể quốc dân. Đúng ngày 1 - 3 - 1919, hàng
vạn thị dân, học sinh, sinh viên và tín đồ các tôn giáo đổ về công viên
Tapgol, JongNo ở trung tâm Seoul, tiến hành một cuộc biểu tình đòi độc
lập lớn chưa từng thấy. Ba mươi ba người ưu tú của các tôn giáo và dân tộc
đã ký tên vào bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân và thế giới
rằng dân tộc Hàn xác lập quyền độc lập tự chủ trên toàn lãnh thổ Hàn Quốc.
Đặc biệt, mặc dù số tín đồ đạo Tin Lành thời kỳ này chỉ chiếm không quá
1% dân số (200.000 người so với dân số ước tính khoảng hơn 20 triệu
người) nhưng Hội thánh Tin Lành Hàn Quốc lại đảm đương vai trò lãnh
đạo phong trào này. Theo kết quả thống kê cho thấy, thành phần tôn giáo
tham gia phong trào độc lập 1/3 gồm đạo Tin Lành chiếm 22%, Công giáo
15%, tôn giáo khác 2% và không tôn giáo 61%. Như vậy, tuy số lượng tín
đồ Tin Lành thời kì này chiếm không quá 1% dân số nhưng với việc 22%
số người tham gia phong trào xuất thân từ đạo Tin Lành cho thấy, chính tín
đồ đạo Tin Lành là những người đã lãnh đạo phong trào 1/3.
Quân đội Nhật bị bất ngờ trước sự kiện này nên đã điều động cảnh
sát và quân đội đến đàn áp và dìm cuộc biểu tình trong bể máu. Kết quả,
hơn 7.000 người bị sát hại, 15.000 người bị thương, 40.000 người bị bắt


19
giữ, 415 ngôi nhà bị phá huỷ, 47 nhà thờ và 2 trường học bị đốt phá, trong

đó, có một nhà thờ bị thiêu đốt khi các con chiên vẫn tụ tập bên trong. [27,
tr.289]. Do có vai trò ảnh hưởng lớn trong phong trào 1/3 nên Hội thánh
Tin Lành Hàn Quốc cũng phải hứng chịu sự đàn áp nặng nề của chính
quyền Nhật. Theo tài liệu phát hành tháng 5 năm1919 của Tổng đốc bộ
Triều Tiên, tính đến tháng 4 năm 1919, số tín đồ Tin Lành bị bắt giam là
2.120 người, còn tín đồ Nho giáo, Phật giáo, Công giáo tổng cộng là 1.556
người. Tài liệu báo cáo lên Tổng hội Trưởng Lão tháng 9 năm 1919, trong
số những người bị giam giữ có 3.804 tín đồ, 134 mục sư – trưởng lão và 22
người có liên quan đến đạo Tin Lành. Ngoài ra, báo cáo về “Tình hình Hàn
Quốc” của Hội nghiên cứu vấn đề Phương Đông thuộc Hội Liên hiệp Tin
Lành Mỹ chỉ ra rằng từ ngày 1/3/1919 đến ngày 20/7 cùng năm có 631 tín
đồ Tin Lành bị giết và 28.934 người bị bắt giam [Dẫn theo: 30, tr 60].
Trong số 33 đại biểu của phong trào dân tộc, Công giáo có 15 người,
Phật giáo có 2 người, còn lại là 16 người là tín đồ đạo Tin Lành. Số liệu
này cũng phản ánh vị trí lãnh đạo của phong trào dân tộc của Hội thánh Tin
Lành Hàn Quốc. Nói tóm lại, tuy chỉ chiếm chưa đến 1% dân số song các
tín đồ đạo Tin Lành đã đảm nhiệm đến 25 – 30 % vai trò trong phong trào
1/3.
Tuy phong trào Mùng 1 tháng 3 không giành ngay được độc lập
nhưng đã mang lại cho dân tộc Hàn niềm hy vọng và ý chí giành độc lập,
đã thúc đẩy các phong trào yêu nước, giành độc lập ở trong và ngoài nước
sau đó. Qua đây, cho thấy phong trào độc lập Mùng 1 tháng 3 đã có sự
tham gia tích cực của các tôn giáo ở Hàn Quốc, trong đó, có sự đóng góp
lớn của Công giáo và đạo Tin Lành. Đạo Tin Lành cũng như Công giáo tuy
là tôn giáo ngoại lai nhưng sau khi du nhập vào Hàn Quốc đã mang tính


20
nhập thế cao. Sự truyền bá của đạo này không chỉ là truyền giảng giáo lý
theo tôn chỉ mục đích của đạo mà còn đi vào thực tế đời sống chính trị xã

hội có tính dân tộc. Đây là dấu ấn đặc biệt của đạo Tin Lành Hàn Quốc ở
đầu thế kỷ 20, khi mà lịch sử Hàn Quốc ở trong giai đoạn lâm nạn, bị giặc
ngoại xâm cai trị với chính sách đồng hoá triệt để. Đồng thời, dấu ấn này đã
phản ánh được sự truyền bá có hiệu quả của một tôn giáo ngoại lai. Mặt
khác, cũng cho thấy, tuy mới ở giai đoạn sơ khai, bén rễ nhưng đạo Tin
Lành ở Hàn Quốc đã có những điều kiện thuận lợi để phát triển do bối cảnh
lịch sử cũng như ngôn ngữ, tín ngưỡng dân gian Hàn Quốc tạo nên, hơn
nữa, về mặt chủ quan, Tin Lành ở Hàn Quốc đã khéo kết hợp và hoà nhập
với các tôn giáo khác để cùng tồn tại và phát triển.
1.1.3. Giai đoạn 1920 – 1945
Sau sự kiện ngày Mùng 1 tháng 3 năm 1919, Nhật Bản càng ráo riết
với chính sách đồng hoá dân tộc Hàn. Các biện pháp cụ thể của Nhật Bản
nêu ra như bắt buộc sử dụng tiếng Nhật, cấm sử dụng tiếng Hàn trong các
trường học, công sở, cấm giảng dạy lịch sử Hàn, đình chỉ hoạt động của các
tờ báo viết bằng tiếng Hàn, nghiêm cấm các hoạt động nghiên cứu về ngôn
ngữ và lịch sử dân tộc Hàn, bắt buộc người Hàn đổi tên theo cách gọi của
người Nhật, xây dựng các đền thờ Thiên Hoàng càng lộ rõ âm mưu biến
bán đảo này trở thành một phần của Nhật Bản. Người Hàn gọi chính sách
đồng hoá này của Nhật Bản là “chính sách triệt tiêu dân tộc Hàn”. Những
biện pháp đồng hoá này của Nhật Bản cho thấy việc truyền bá và phát triển
đạo Tin Lành ở Hàn Quốc trong giai đoạn này gặp trở ngại rất lớn. Vũ khí
lợi hại nhất của sự truyền bá đạo Tin Lành là thông qua phát triển các hoạt
động phát triển ngôn ngữ Hàn, thông qua giáo dục, trong đó có giáo dục
lịch sử, văn hoá Hàn Quốc và phương Tây để gián tiếp hoặc trực tiếp truyền

×