Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Vai trò của lĩnh vực dịch vụ tài chính đối với quá trình hội nhập khu vực của Vương Quốc Campuchia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.54 KB, 32 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

LY ROTHA
VAI TRÒ CỦA LĨNH VỰC DỊCH VỤ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC CỦA
VƯƠNG QUỐC CAMPUCHIA
Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế
Mã số: 62310206
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
Hà Nội – 2015
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Ngoại giao
Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Duy Ngọ
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
họp tại
vào hồi giờ ngày tháng năm
Có thể tìm hiểu luận án tại:
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài, lĩnh vực nghiên cứu
Dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ tài chính đang ngày càng có một vị trí quan
trọng không chỉ trong cơ cấu nền kinh tế mà còn là yếu tố thúc đẩy quá
trình hội nhập nói chung của Campuchia vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Sự phát triển ngành dịch vụ tài chính đã và đang tiếp tục làm cho
Campuchia liên kết chặt chẽ hơn, phụ thuộc sâu hơn vào thị trường tài
chính khu vực và thế giới. Đó là một xu hướng không thể đảo ngược trong
một thế giới toàn cầu hóa cao độ như hiện nay.
Trước tình hình nói trên cần phải làm gì để củng cố vai trò, vị thế của


Campuchia trong khu vực? Nhân tố của dịch vụ tài chính như thế nào trong
việc thúc đẩy quá trình hội nhập của Campuchia trước tình hình hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng? Cần có những biện pháp gì để nâng cao vai trò
của dịch vụ tài chính nhằm thúc đẩy sâu quá trình hội nhập của
Campuchia?.
Trên cơ sở của những vấn đề nêu trên nên tác giả quyết định chọn đề tài:
“Vai trò của lĩnh vực dịch vụ tài chính đối với quá trình hội nhập khu
vực của Vương Quốc Campuchia” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục tiêu của đề tài:
Mục tiêu nghiên cứu chính của đề tài là làm rõ vai trò, vị trí của lĩnh vực
dịch vụ tài chính và tác động của nó đối với quá trình hội nhập khu vực của
Campuchia. Trên cơ sở phân tích, đánh giá các vấn đề trên, tác giả sẽ đưa ra
một số giải pháp thích hợp để nâng cao vai trò của dịch vụ tài chính trong
quá trình hội nhập quốc tế của Campuchia một cách hiệu quả hơn và hạn
chế những rủi ro có thể phát sinh trong quá trình hội nhập.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài là phân tích, đánh giá vai trò, tác động của
lĩnh vực dịch vụ tài chính đối với vị thế của Campuchia trong quá trình hội
nhập khu vực, các biện pháp nâng cao vai trò của dịch vụ tài chính trong
quá trình hội nhập của Campuchia ngày càng sâu hơn, qua đó chứng minh
1
rằng khi xác định được lĩnh vực kinh tế then chốt để đầu tư phát triển có thể
sẽ tạo ra được những sự chuyển biến cơ bản về hình ảnh của một quốc gia
trong quan hệ quốc tế.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Do tầm quan trọng của việc phát triển ngành dịch vụ tài chính đối với
quá trình phát triển kinh tế - xã hội và ổn định chính trị của đất nước, cũng
như việc nâng cao vai trò và vị thế của Campuchia trong việc thúc đẩy quá
trình hội nhập khu vực nên đã có một số bài viết, các công trình nghiên cứu
của các bộ, ngành và các tác giả khác liên quan đến vấn đề kinh tế, tài chính

và hội nhập của Campuchia như: i) “Chính phủ Campuchia (2001), Kế
hoạch phát triển lĩnh vực tài chính giai đoạn năm 2001-2010, Phnom
Penh”; ii) “Chính phủ Campuchia (2006), Chiến lược phát triển lĩnh vực
dịch vụ tài chính giai đoạn năm 2006-2015, Phnom Penh”; iii) “Chính phủ
Campuchia (2010), Chiến lược phát triển lĩnh vực tài chính giai đoạn năm
2010-2020, Phnom Penh”; iv) “Chhun Naret (2004), ASEAN và Quá trình
toàn cầu hóa, Nxb Đại học Hoàng gia luật và kinh tế Campuchia, Phnom
Penh”; v) “Cham Prasidh (2004), Campuchia và Tổ chức thương mại Thế
giới, Nxb Bộ thương mại Campuchia, Phnom Penh, tháng 8/2004”.
Ngoài các tài liệu, công trình nghiên cứu bằng tiếng Campuchia và tiếng
Anh ra còn có một số tài liệu, cuốn sách tiếng Việt nghiên cứu về vấn đề
chung của khu vực và thế giới cũng như lý luận về quan hệ quốc tế. Mặc dù
các tài liệu tiếng Việt không nghiên cứu trực tiếp liên quan đến vấn đề kinh
tế, chính trị và xã hội của Campuchia nhưng tác giả có thể tham khảo để
phục vụ cho đề tài nghiên cứu cũng như nâng cao kiến thức về lý luận và
thực tiễn đối với vấn đề quốc tế của khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có một công trình, bài báo, tác giả nào tập
trung phân tích vai trò của lĩnh vực dịch vụ tài chính đối với quá trình hội
nhập khu vực của Campuchia.
5. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi thời gian: Tác giả tập trung nghiên cứu vào giai đoạn từ năm
1993 đến năm 2015. Vì, đây là giai đoạn phát triển mới của Campuchia cả
2
kinh tế, chính trị và quan hệ quốc tế sau Tổng tuyển cử lần thứ nhất ở
Campuchia được dẫn ra từ ngày 23-25/05/1993 do Cơ quan quyền lực lâm
thời của Liên hợp quốc (UNTAC) tổ chức. Tính từ năm 1993 đến năm 2015
là thời gian để các nhà nghiên cứu có thể nhìn nhận về sự phát triển và tiến
bộ của Campuchia, đặc biệt trong giai đoạn năm 1993 đến năm 2015 là giai
đoạn của sự hội nhập của Campuchia từ cấp khu vực đến thế giới nhằm
mang lại lợi ích về kinh tế, chính trị và quan hệ quốc tế.

- Phạm vi không gian: Luận án đặt trọng tâm vào phân tích tác động của
lĩnh vực dịch vụ tài chính đối với quá trình hội nhập khu vực của
Campuchia.
- Phạm vi nội dung: Luận án đi sâu nghiên cứu phân tích vai trò của dịch
vụ tài chính nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập của Campuchia. Trong đó tập
trung vào vai trò của lĩnh vực dịch vụ tài chính đối với việc tăng cường vị
thế, vai trò của Campuchia trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng trong Luận án Tiến sĩ là
phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp tiếp cận hệ thống,
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp và
phương pháp dự báo, phương pháp thống kê.
7. Những đóng góp mới của luận án
Thông qua việc khảo sát các dữ liệu thực tế và vận dụng lý thuyết, luận án
có thể: i) góp phần vào việc nghiên cứu chính sách đối nội nhằm phát triển
chính sách ngoại của Campuchia trong quá trình hội nhập; ii) giúp các nhà
hoạch định chính sách thấy rõ hơn vai trò của lĩnh vực tài chính trong việc thúc
đẩy sâu hơn quá trình hội nhập của Campuchia; iii) làm tài liệu tham khảo.
8. Bố cục của luận án
Luận án gồm có 3 chương: i) “Cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình
hội nhập quốc tế của Campuchia”; ii) “Dịch vụ tài chính-nhân tố thúc đẩy
quá trình hội nhập của Campuchia”; iii) “Một số biện pháp để thu hút và tận
dụng hiệu quả dịch vụ tài chính đối với Campuchia”.
3
CHƯƠNG 1 :
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA CAMPUCHIA
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể là song phương - giữa hai nền kinh tế,

hoặc khu vực - giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương - có quy mô
khu vực hoặc toàn cầu, giống như những gì mà Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) đang hướng tới.
Ở mỗi quốc gia khác nhau, khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế có thể có
những biến thể nhất định. Ở Việt Nam, cũng như thuật ngữ hội nhập quốc
tế, hội nhập kinh tế quốc tế hay liên kết kinh tế quốc tế (International
Economic Integration) được sử dụng để chỉ cùng một nội dung có nghĩa là
quá trình gắn kết nền kinh tế và thị trường của một quốc gia với nền kinh tế
và thị trường thế giới và khu vực thông qua các biện pháp tự do hoá và mở
cửa thị trường trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương.
1.1.2. Các đặc điểm của hội nhập kinh tế quốc tế
i). Hội nhập kinh tế quốc tế là giai đoạn phát triển cao của hợp tác và
phân công lao động quốc tế.
ii). Hội nhập kinh tế quốc tế và chính trị quốc tế có mối quan hệ khăng
khít với nhau. Đằng sau hội nhập kinh tế quốc tế thường ẩn chứa những
mục đích chính trị. Thậm chí nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng mục đích
chính trị là cái đích đầu tiên còn mục tiêu kinh tế chỉ đứng ở vị trí thứ hai.
Do đó, có thể nói rằng chính trị là nguồn gốc của hội nhập kinh tế quốc tế
và ngược lại hội nhập kinh tế quốc tế lại có tác động tới lĩnh vực chính trị
quốc tế. Mặc dù vậy, không phải khi động cơ chính trị xuất hiện trước, thì
động cơ về kinh tế sẽ bị coi nhẹ. Ngược lại, trong một số trường hợp khác
người ta lại thấy những động cơ kinh tế phát sinh trước, rồi mới tới những
mục đích chính trị trong giai đoạn sau.
iii). Mặc dù hội nhập kinh tế quốc tế có vẻ tách biệt với vấn đề xung đột
kinh tế quốc tế, là hai loại hiện tuợng khác nhau. Nhưng trên thực tế, đây là
4
sự kết hợp rất phức tạp của cả hai hiện tượng này, đó là quá trinh vừa hợp
tác vừa đấu tranh, cụ thể hơn đó là đấu tranh để hợp tác (quan hệ Bắc-
Nam), hợp tác để đấu tranh (quan hệ Nam-Nam) và ngay cả trong từng cặp
quan hệ nói trên cũng bao hàm cả hai khía cạnh hợp tác và đấu tranh.

1.1.3. Các nhân tố tác động đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
i). Các nhân tố thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế
- Quyền lợi của các quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập.
- Do sự suy yếu tương đối của Mỹ và quá trình toàn cầu hóa sản xuất và
tài chính, nên nhiều định chế liên kết kinh tế khu vực và thế giới đã dần
được hình thành với quy mô ngày càng lớn và phạm vi hoạt động ngày càng
rộng.
- Quan hệ đan xen giữa các quốc gia tham gia hội nhập có vai trò nhất
định và là tác nhân chính thúc đẩy quá trình hội nhập, bởi vì dự định, toan
tính của một quốc gia chịu ảnh hưởng của những cơ chế, hoặc định chế liên
kết hiện hành.
- Mối quan hệ quyền lực giữa các quốc gia và nó có vai trò rất lớn đối
với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Sự phát triển không đồng đều trong nền kinh tế thế giới.
- Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin làm cho chi phí dịch vụ giảm xuống rất thấp.
- Tìm lợi nhuận siêu ngạch của các công ty xuyên quốc gia.
ii). Những nhân tố cản trở quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
- Do các nền kinh tế đều là các quốc gia có chủ quyền.
- Do các nhóm lợi ích trong một quốc gia ít khi thống nhất với nhau.
- Do cơ chế khuyến khích dành cho một quốc gia.
Như vậy, quy mô và mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia tùy
thuộc vào những vấn đề trước hết đó là các nước quan tâm nhiều hơn đến lợi
ích tuyệt đối, hay lợi ích tương đối mà họ có thể nhận được; sự thành công của
các định chế kinh tế, tài chính hiện hữu, ví dụ như EU; sự ủng hộ hay phản đối
của giới chính trị trong nước; và cuối cùng là những thiệt hại từ việc không hội
nhập đủ lớn để thuyết phục các quốc gia dũng cảm vượt qua sự phản đối.
5
1.2. TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Hội nhập kinh tế quốc tế là một công cụ chính sách đối ngoại của các

quốc gia. Xuất phát điểm của quan điểm này là thương mại không chỉ đơn
thuần là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ mà còn là công cụ để tác động tới
cán cân quyền lực giữa các quốc gia và thúc đẩy quá trình thay đổi về kinh
tế và chính trị trong nội bộ mỗi quốc gia. Trong thế kỷ XXI, các thỏa thuận
về hội nhập kinh tế quốc tế được coi là công cụ trong chính sách đối ngoại
nhằm củng cố quan hệ đối tác, giống như các thỏa thuận quân sự từ thế kỷ
trước. Tuy nhiên quá trình hội nhập không chỉ có những tác động tích cực
mà sẽ có những tác động tiêu cực đối với mỗi một quốc gia, khả năng tận
dụng khía cạnh tích cực hạn chế đến mức tối thiểu các tác động nghịch phụ
thuộc vào chính sách của từng quốc gia. Trong luận văn, tác giả khái hoá
một số tác động nhằm làm cơ sở cho sự phân tích đối với trường hợp hội
nhập của Campuchia dưới tác động của nhân tố dịch vụ tài chính.
1.3. HỘI NHẬP KINH TẾ TRONG KHUÔN KHỔ ASEAN
1.3.1. Liên kết kinh tế nội khối
Thúc đẩy hội nhập kinh tế nội khối sẽ giúp các thành viên ASEAN cạnh
tranh với các nền kinh tế khổng lồ láng giềng, như Trung Quốc và Ấn Độ.
Sự hội nhập sâu hơn của ASEAN rất cần thiết để tối đa hóa sức mạnh hợp
lực nội khối và giữ cho khu vực này gắn kết hơn với các nhà đầu tư và kinh
tế quốc tế.
1.3.2. Mở rộng thêm nhiều hình thức liên kết
Hợp tác kinh tế giữa ASEAN với nhiều đối tác lớn và quan trọng khác
như Mỹ, Nga, Ca-na-đa đang ngày càng được tăng cường, góp phần tích
cực vào sự phát triển thương mại giữa ASEAN với các đối tác. Nhiều hình
thức liên kết kinh tế với các đối tác bên ngoài, trong tương lai, sẽ tạo nên
mạng lưới đan kết có tâm là ASEAN.
1.3.3. Thành lập quỹ hợp tác khu vực và quốc tế
Thành lập các quỹ hợp tác thể hiện rõ mong muốn nỗ lực hội nhập kinh
tế khu vực của ASEAN để đối phó với cơn bão tài chính toàn cầu.
1.4. CAMPUCHIA VỚI VẤN ĐỀ HỘI NHẬP
6

1.4.1. Tình hình chính trị - xã hội
Rõ ràng chuyển sang chế độ đa đảng, mâu thuẫn về lợi ích khác nhau
trong nhiều trường hợp còn mang tính chất đối kháng, làm cho tình hình
chính trị của Campuchia rất phức tạp và có nhiều sự bế tắc trong việc thành
lập chính phủ mới sau mỗi lần bầu cử Quốc hội. Tuy nhiên, sự bế tắc này
vẫn giải quyết được một cách hòa bình và dần dần đất nước Campuchia trở
nên ổn định hơn, tiến bộ hơn và trở thành địa điểm đầu tư hấp dẫn của nhà
đầu tư trong và ngoài nước.
1.4.2. Tình hình kinh tế
Trong hơn 20 năm đã qua Campuchia thu hút được nhiều nhà đầu tư
nước ngoài, tạo việc làm cho nhân dân. Các lĩnh vực được nhà đầu tư quan
tâm chú yếu là đầu tư vào lĩnh vực dệt may, giày dép, xi măng, ngân hàng,
khách sạn, du lịch…v.v và Campuchia cũng hợp tác với các nước làng
giếng để mở vùng tám giác phát triển kinh tế. Năm 2006 Campuchia có kế
hoạch thành lập 8 khu vực đặc quyền kinh tế ở biên giới để thu hút nhà đầu
tư. Hơn nữa, với sự hòa bình và chính trị ổn định hơn Campuchia trở thành
địa điểm du lịch rất thú vị của khách du lịch đến từ trong và ngoài nước.
1.5. QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP VÀ VỊ THẾ CỦA CAMPUCHIA
TRONG KHU VỰC
1.5.1. Campuchia với quá trình hội nhập khu vực
Ngày 23 tháng 10 năm 1991, bốn đảng phái Campuchia cùng với những
nước ủng hộ trong đó có các nước thành viên ASEAN đã ký Hiệp định hòa
bình Paris để chấm dứt sự bế tắc trong cuộc chiến tranh nội bộ Campuchia.
Hiệp định này là cơ sở pháp lý kết nối quan hệ giữa Vương quốc
Campuchia với ASEAN tới góp phân củng cố nền hòa bình và ổn định
chính trị trong nước và khu vực, đồng thời tạo điều kiện hết sức quan trọng
cho đất nước Chùa Tháp gia nhập ASEAN.
Tuy nhiên, để trở thành thành viên chính thức của ASEAN Campuchia
đã phải tiến hành nhiều hoạt động song phương cũng như đa phương nhằm
tranh thủ sự ủng hộ của các nước thành viên tổ chức này.

Sau khi trở thành thành viên chính thức ASEAN, đến tháng 10/2004,
7
Campuchia gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tổ chức thương
mại lớn nhất tính đến thời điểm nay; gia nhập ASEM tại Hội nghị cấp cao
ASEM 5 (tháng 10/2004) tại Hà Nội. Campuchia cũng là thành viên tích
cực trong hợp tác khu vực như: Uỷ hội Mê Công quốc tế (MRC); Khu vực
Tam giác phát triển Việt Nam-Lào-Campuchia (CLV); Tiểu vùng sông Mê
Công mở rộng (GMS); Chiến lược hợp tác kinh tế ba dòng sông
Ayeyawadi-Chao Praya-Mekong (ACMECS); Hành lang kinh tế Đông Tây
(WEC)
Tham gia tích cực các tổ chức khu vực và thế giới cho thấy, Campuchia
ngày càng ý thức được tầm quan trọng của các tổ chức này đối với sự phát
triển kinh tế, ổn định xã hội và đặc biệt là từng bước tạo dựng hình ảnh, tìm
kiếm một vị trí nhất định trong cộng đồng quốc tế.
1.5.2. Campuchia trong các diễn đàn khu vực
Sau khi gia nhập ASEAN, việc hoạch định chính sách đối nội, và đối
ngoại đều gắn với tình hình và sự phát triển của khu vực và thế giới. Trong
chính sách đối ngoại của mình, Campuchia rất coi trọng quan hệ với các
nước thành viên ASEAN và coi ASEAN là một tổ chức khu vực quan trọng
trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ tốt với các nước
trong khu vực để lấy lại vai trò khu vực cũng như thúc đẩy phát triển lợi ích
quốc gia. Trong cương lĩnh chính trị của chính phủ Campuchia nhiệm kỳ II,
Thủ tướng Hun Sen nói rằng Campuchia tham gia khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) là một bước đi chiến lược và lịch sử trong việc phục hồi
và phát triển đất nước. Ông nói “Chính phủ hoàng gia Campuchia sẽ tiếp
tục thúc đẩy sự hội nhập của mình vào khu vực và thế giới, đặc biệt là thúc
đẩy quan hệ hợp tác giữa các nước thành viên ASEAN”. Campuchia đã
chính thức tham gia vào ASEAN + 3 (Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn
Quốc). Tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ VII diễn ra tại Bandar Seri
Begawan năm 2001, các nhà lãnh đạo hoan nghênh đề nghị Thủ tướng Hun

Sen thu xếp cuộc họp các quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mê Kông (GMS)
cùng với Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ VIII tại Phnom Penh vào
tháng 10 năm 2002. Campuchia đã thành công trong việc tổ chức hội nghị
8
này. Tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN này các nhà lãnh đạo ASEAN và
Trung Quốc đã ký một hiệp định khung để thành lập Khu vực tự do hóa
thương mại Trung Quốc-ASEAN (CAFTA) và trở thành một khối thương
mại lớn trên thế giới với tổng dân số là 1,70 tỷ USD.
Ngoài việc tổ chức thành công các sự kiện trên, Campuchia đã tổ chức
thành công các Hội nghị Cấp cao khác, việc này cho thấy vai trò của
Campuchia trở nên tích cực hơn trong khu vực. Chẳng hạn như ngày
16/11/2010, Campuchia đã mở cửa tiếp đón các đoàn đại biểu tham dự Hội
nghị cấp cao CLV (Campuchia – Lào – Việt Nam) lần thứ 6; Hội nghị cấp
cao CLMV (Campuchia – Lào – Mianma – Việt Nam) lần thứ 5 và Hội
nghị cấp cao ACMECS lần thứ 4 được tổ chức tại Cung Hòa bình, Thủ đô
Phnom Penh biến khu vực Tam giác Phát triển CLV thành một khu vực ổn
định về an ninh, chính trị và phát triển kinh tế.
Ngày 17/11/2010, nhà lãnh đạo của năm quốc gia (Campuchia – Việt
Nam – Lào – Mianma – Thái Lan) gặp nhau tại Hội nghị cấp cao ACMECS
diễn ra tại Thủ đô Phnom Penh. Không khác mấy với CLMV, Hội nghị cấp
cao ACMECS có mục đích thúc đẩy phát triển kinh tế, đặc biệt là làm thế
nào để các nước có nền kinh tế kém trong ASEAN như Campuchia, Lào,
Mianma, Việt Nam, được phát triển kinh tế kịp hoặc tương đương với 6
nước thành viên khác của ASEAN.
Công việc của ACMECS là vì lợi ích kinh tế và không nói đến vấn đề
chính trị. Tuy nhiên, để phát triển đất nước của 4 quốc gia được coi là kém
phát triển so với 6 quốc gia thành viên còn lại của ASEAN, kinh tế và chính
trị được coi là “hai mặt của một đồng xu” để phát triển các quốc gia này.
Tức là rất khó để phát triển kinh tế chung của 5 quốc gia thành viên
ACMECS nếu không có sự ổn định về chính trị của 5 quốc gia này. Có một

thí dụ điển hình là sự bất ổn định về chính trị của Thái Lan trong thời gian
qua không chỉ tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng kinh tế của Thái Lan,
mà còn tác động gián tiếp đến kinh tế Campuchia. Khủng hoảng chính trị
của Thái Lan làm cho khách du lịch nước ngoài e ngại đến tham quan cũng
như đầu tư vào quốc gia này, trong khi đa số khách du lịch nước ngoài khi
9
đến Campuchia họ thường phải đi qua sân bay Bangkok rồi mới chuyển tiếp
vào Campuchia. Điều này làm ảnh hưởng gián tiếp đến khách du lịch nước
ngoài muốn đến tham quan khu du lịch tốt đẹp của Campuchia. Mặt khác,
khủng hoảng chính trị tại Thái Lan có ảnh hưởng đến quan hệ thương mại
giữa hai quốc gia láng giềng này. Đây chỉ là phân tích về sự tác động của
cuộc khủng hoảng chính trị nội bộ của một quốc gia thành viên ACMECS
mà thôi.
Vậy, có thể nói với sự ổn định chính trị của Campuchia cũng góp phần
xây dựng sự ổn định và phát triển kinh tế, chính trị trong khu vực.
CHƯƠNG 2 :
DỊCH VỤ TÀI CHÍNH - NHÂN TỐ THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP CỦA CAMPUCHIA
2.1. VAI TRÒ CỦA DỊCH VỤ TÀI CHÍNH TRONG NỀN KINH TẾ
THẾ GIỚI
2.1.1. Dịch vụ tài chính trong quan hệ quốc tế
 Mâu thuẫn lợi ích giữa các quốc gia về dịch vụ tài chính
Với xu thế toàn cầu hóa hiện nay, thương mại dịch vụ là một lĩnh vực
hoạt động có tốc độ phát triển rất nhanh chóng, đóng góp tích cực vào sự
tăng trưởng kinh tế của các quốc gia và kinh tế thế giới. Dịch vụ ngày càng
chiếm thị phần quan trọng trong thương mại quốc tế. Theo ước tính, hiện
nay thương mại dịch vụ (tài chính, vận tải, viễn thông, y tế, giáo dục…)
chiếm khoảng 20% tổng giá trị thương mại toàn cầu.
Theo phân loại của WTO hiện nay có 150 loại hình dịch vụ, trong đó
dịch vụ tài chính đang phát triển với tốc độ cao trong quá trình liên kết kinh

tế toàn cầu và liên kết kinh tế khu vực, nó chính là động lực thúc đẩy
thương mại hàng hóa, dịch vụ, vốn, lao động, là nhằm từng bước lọai bỏ các
rào cản và trở ngại trong việc lưu thông hàng hóa dịch vụ giữa các nước và
khu vực, điều này có thể hiểu là sẽ không có khái niệm người nước ngoài
10
trong khu vực liên kết.
Vòng đàm phán Uruguay về thương mại dịch vụ tài chính là vòng đàm
phán dành được sự quan tâm lớn từ các quốc gia phát triển và đang phát
triển trên thế giới, là một vòng đàm phán giữa một bên vì bảo vệ lợi ích của
các nhóm nước đang phát triển và một bên nữa là bảo vệ lợi ích của nhóm
nước phát triển. Các quốc gia đang phát triển thường thực hiện những biện
pháp hạn chế trong lĩnh vực dịch vụ nói chung và lĩnh vực dịch vụ tài chính
nói riêng, do các nước đang phát triển, trên thục tế không có đủ khả năng
cạnh tranh với các nước phát triển trên thị trường thương mại dịch vụ.
Quá trình đàm phán về tự do hóa thương mại dịch vụ rất phức tạp chủ
yếu xuất phát từ lợi ích quốc gia, do vậy ngay cả những nuớc được coi là
đồng minh cũng không phải lúc nào cũng chấp nhận hy sinh lợi ích của
chính họ. Trong vòng đàm phán về dịch vụ các nước đang phát triển nhận
thấy vai trò của lĩnh vực dịch vụ tài chính có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với sự phát triển của mỗi quốc gia. Ý nghĩa quan trọng này trước hết thể
hiện ở chỗ nó thúc đẩy sự kết nối của quốc gia đối với bên ngoài, nhưng
đồng thời nó cũng sẽ làm cho mỗi quốc gia dễ bị tổn thương trước những
biến động của tình hình tài chính thế giới.
 Dịch vụ tài chính thúc đẩy sự hợp tác và phát triển giữa các quốc
gia
Trong thời đại ngày nay, với xu thế hội nhập khu vực và thế giới các
quốc gia trên thế giới buộc phải có quan hệ hợp tác với nhau để đạt được
mục tiêu phát triển của mình. Nếu quốc gia nào không có quan hệ hợp tác
mà cứ đứng riêng lẻ, đứng ngoài thì quốc gia đó rất khó để phát triển được.
Một quốc gia không thể làm được hết tất cả, một quốc gia mạnh hay yếu,

phát triển hay không phát triển vẫn phải có quan hệ hợp tác theo nguyên tắc
các bên cũng có lợi. Vậy, hợp tác là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong
thời kỳ toàn cầu hóa như hiện nay.
Tài chính là một trong những lĩnh vực dịch vụ mà các nước phát triển và
đang phát triển đặc biệt quan tâm, vì nó liên quan đến vốn đầu tư. Nếu
không có vốn thì không đầu tư phát triển sản xuất, và dịch vụ tài chính là
11
một hệ thống thu hút vốn và cung cấp vốn cho nhà đầu tư. Với tầm quan
trọng của lĩnh vực dịch vụ tài chính như vậy nên các quốc gia trên thế giới
rất quan tâm và chủ động hợp tác với nhau trong việc củng cố và phát triển
lĩnh vực dịch vụ tài chính của mình.
2.1.2. Dịch vụ tài chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Đối với việc phát triển kinh tế xã hội vốn giữ vai trò quan trọng nhất,
đặc biệt đối với nền kinh tế toàn cầu như hiện nay, vốn càng ngày càng trở
thành yếu tố quan trọng sống còn, đóng góp vào tăng trưởng sản xuất và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Việc tăng lên về quy mô và chất lượng sản
xuất phần lớn là do nhà đầu tư tăng thêm nguồn vốn để thuê thêm lao động,
đầu tư vào công nghệ, máy móc, nguyên vật liệu,…Tuy nhiên, để có nguồn
vốn lưu thông và luân chuyển nhanh chóng kịp thời nhằm phục vụ sản xuất
thì phải nhờ đến tài chính. Có thể nói tài chính là trung gian giữa cung – cầu
về vốn. Đó là con đường chính, nhanh chóng và hiệu quả nhất để các doanh
nghiệp tìm được thêm nguồn vốn cho đầu tư. Nói cách khác tài chính là hệ
thống mạch máu của nền kinh tế. Do đó, có thể nói, thông qua hoạt động
cung cấp và luân chuyển vốn, tài chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2.2. SỰ TƯƠNG TÁC GIỮA DỊCH VỤ TÀI CHÍNH VỚI CÁC YẾU
TỐ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
2.2.1. Dịch vụ tài chính và vấn đề mở rộng thị trường xuất nhập khẩu
Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều
sâu, trao đổi hàng hóa có ý nghĩa rất lớn đối nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Có thể khẳng định độ mở của nền kinh tế quốc gia được đo bằng tỷ lệ giá trị

xuất nhập khẩu trên GDP. Tỷ lệ trên càng lớn, sự gắn kết, phụ thuộc của
nền kinh tế đó vào kinh tế thế giới ngày càng lớn. Thực tế cho thấy không
một quốc gia nào có thể sản xuất tất cả những hàng hóa dịch vụ cần thiết
hang ngày, bởi vì một mặt điều đó không mang lại hiệu quả kinh tế, mặt
khác không phải quốc gia nào cũng có đủ nguồn lực cần thiết để sản xuất tất
cả hàng hóa dịch vụ mà xã hội có nhu cầu. Campuchia không thể sản xuất
thiết bị, ví dụ như tuốc - bin cho nhà máy thủy điện, nhưng có thể sản xuất
lúa gạo, dệt may để trao đổi thông qua hoạt động xuất nhập khẩu lấy các sản
12
phẩm khác. Như vậy mở rộng quan hệ thương mại với phần còn lại của thế
giới là hết sức quan trọng, có thể nói là nhu cầu sống còn đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia. Tuy nhiên để mở rộng mối quan hệ này, trước hết phải có
nguồn tài chính cần thiết để đầu tư, khai thác nhưng lợi thế so sánh, biến
chúng thành hàng hóa tiêu dung với giá trị gia tăng ngày càng lớn, đồng thời
phải chắc chắn là giá trị hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu sẽ được thanh toán
thông qua các hệ thống dịch vụ tài chính ngân hàng quốc gia và quốc tế.
Nếu trước đây, khi mức độ liên kết rất hạn chế, do khả năng khai thác
những lợi thế sẵn có rất nhỏ, giá trị xuất khẩu không lớn, bởi chủ yếu dựa
trên hình thức sản xuất mang tính tự nhiên khép kín, tự cung tự cấp, thì
ngày nay xu thế toàn cầu hóa tạo cơ hội cho tất cả các quốc gia không phân
biệt giàu nghèo, phát triển chậm phát triển, lớn hay nhỏ về quy mô dân số
khai thác những lợi thế của xu thế này. Công cụ khai thác có hiệu quả nhất
là thương mại. Thúc đẩy thương mại trước hết tạo ra nguồn thu ngoại tệ để
đáp ứng nhu cầu nhập khẩu hàng hóa trang thiết bị cho phát triển kinh tế xã
hội, mặt khác thương mại tạo thêm việc làm, tạo ra giá trị gia tăng thông
qua sản xuất.
2.2.2. Dịch vụ tài chính với tiếp cận vốn đầu tư trực tiếp (FDI)
Campuchia là một nước đang phát triển việc đầu tư để phát triển đất
nước rất cần thiết. Để làm được điều đó vai trò của FDI là rất cần thiết vì
Campuchia là một quốc gia đang trong tình trạng thiếu vốn đầu tư. Chính

phủ Campuchia rất coi trọng FDI và cố gắng làm thế nào để thu hút được
nhiều vốn FDI vào nền kinh tế.
Vốn FDI là động lực thúc đẩy chính sách đối ngoại của Campuchia
thông qua việc cắt giảm chí phí, liên kết sâu hơn. FDI mang đến cho nền
kinh tế không chỉ nguồn vốn (chia sẻ rủi ro, không tạo ra các gánh nặng về
nợ nần) mà còn mang lại ngoại tệ, dễ ràng trong việc tiếp cận thị truờng tiêu
thụ sản phẩm và chuyển giao công nghệ. Mặt khác, FDI còn thúc đẩy về cải
cách thể chế ở trong nước, kể cả hệ thống ngân hàng lĩnh vực tài chính, tạo
môi trường ổn định và cạnh tranh về chính sách bên trong nước.
Nhận thức được vấn đề này, Campuchia đã thực hiện đường lối đổi mới
13
theo hướng mở cửa với bên ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà
đầu tư. Cho đến nay Campuchia đã ký với 26 quốc gia về Hiệp định Đầu tư
song phương nhằm đảm bảo cho các nhà đầu tư nước ngoài một khuôn khổ
pháp lý chắc chắn. Những nội dung cơ bảo liên quan đến khuôn khổ pháp lý
của các Hiệp định đầu tư đó là các hình thức đầu tư, ví dụ như nhà đầu tư có
thể thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; Nhà đầu tư được tự do
chuyển lợi nhuận; Chính phủ không kiểm soát giá và tỷ giá, bảo đảm bình
đẳng, không có sự phân biệt đối xử giữa công ty trong nước và nước ngoài;
Không quốc hữu hóa….
2.2.3. Dịch vụ tài chính với Viện trợ Phát triển chính thức (ODA)
Ngoài vốn FDI ra, ODA là một hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Gọi là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay
không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Gọi là Phát triển vì
mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng
cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là do nhà
nước và các tổ chức tín dụng, tài chính quốc tế cho Nhà nước vay với
những ưu đãi đặc biệt.
Các khoản viện trợ phát triển chính thức (ODA), thứ nhất nguồn vốn này
tập trung chủ yếu vào phát triển hạ tầng cơ sở, ví dụ như đường giao thông,

trường học, bệnh viện, các cơ sở sản xuất năng lượng, cải cách hành chính,
nâng cao năng lực quản lý của các công chức…. như vậy sẽ giúp
Campuchia sớm có thể theo kịp sự phát triển với các nước trong khu vực.
Một khi cơ sở hạ tầng tốt sẽ phục vụ trước hết cho các doanh nghiệp đầu tư
kinh doanh của chính các nước cũng cấp ODA. Những tác động cụ thể của
nguồn vốn này tới quá trình hội nhập của Campuchia được phân tích cụ thể
dưới đây.
Bản chất của ODA hoàn toàn mang tính tài chính, tranh thủ tiếp cận
được nguồn vốn ODA từ nhiều nguồn khác nhau đã là một thành công của
quá trình hội nhập khu vực và thế giới của Campuchia, nói một cách khác,
ODA cũng tương tự như FDI vừa là nhân tố, động lực thúc đẩy quá trình
hội nhập của một quốc gia, vừa là hệ quả của quá trình đó.
14
2.2.4. Hoạt động của hệ thống ngân hàng Campuchia
Để có thể bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động nhịp nhàng liên tục, đặc
biệt là các hoạt động thanh toán quốc tế như thanh toán xuất nhập khẩu, đầu
tư trực tiếp, cững như gián tiếp với giá trị lên hàng chục tỷ USD cho các
khách hàng ở khắp các châu lục, hệ thống dich vụ tài chính, trước hết là hệ
thống ngân hàng phải có khả năng đáp ứng những đòi hỏi nêu trên. Có thể
nói dịch vụ tài chính là cầu nối không thể thiếu trong quá trình hội nhập
kinh tế của mỗi quốc gia, trong đó có Campuchia.
Dịch vụ ngân hàng phát triển vừa để đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị
trường vừa thúc đẩy sự liên kết với thị trường ngân hàng nước ngoài, thông
qua việc giao dịch thanh toán hoán đổi ngoại tệ. Thực tế cho thấy sự phát
triển của các mối quan hệ kinh tế thương mại, đầu tư đã buộc ngân hàng của
Campuchia phải hội nhập với hệ thống các dịch vụ ngân hàng các nước
trong khu vực, trên thế giới. Mặt khác, nhìn từ góc độ ngược lại, hệ thống
dịch vụ tài chính ngân hang không đi trước một bước thì các quan hệ kinh
tế nói chung không thể được thực hiện, bởi vì không thể đầu tư nếu không
có hệ thống ngân hàng tin cậy bảo đảm.

Hiện nay, ngành ngân hàng tại Campuchia có dấu hiệu năng động hơn
trước nhờ sự có mặt của các ngân hàng nước ngoài và nhu cầu về vốn của
các nhà đầu tư ngày càng cao vì họ phải vay vốn từ ngân hàng để đầu tư
vào lĩnh vực khác theo mục đích của họ.
Đối với Campuchia hiện nay các nhà đầu tư rất cần vốn nên ngân hàng
và các dịch vụ tài chính ngoài ngân hàng khác có vai trò rất quan trọng
trong việc đáp ứng nhu cầu này.
2.2.5. Hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô
Tổ chức tài chính vi mô (microfinance) thâm nhập vào thị trường
Campuchia khoảng hơn một thập kỷ trước, nhưng đã có tác động hết sức
lớn đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính, vì nó phù hợp với điều kiện của
người dân vốn không có nhiều tài sản thế chấp để vay vốn tại các ngân hàng
lớn. Sự có mắt của các tổ chức tài chính vi mô khuyến khích hình thức tổ
chức này phát triển tại Campuchia. Nguồn vốn không lớn, nhưng thủ tục
15
cho vay đơn giản, hoạt động tại các vùng sâu vùng xa, tiếp cận dễ ràng với
các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hiện tại Campuchia có tới 500,000 doanh
nghiệp nhỏ, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ, nhưng lại đóng
vai trò hết sức quan trọng trong việc sản xuất hàng hóa, kể cả hàng xuất
khẩu. Có thể khẳng định riêng trong lĩnh vực tài chính vi mô, Campuchia đã
hội nhập rất hiệu quả, hội nhập tại chỗ, thể hiện qua số lượng các tổ chức tài
chính vi mô, lượng tiền gửi và số lượng các doanh nghiêp vay vốn từ các tổ
chức này.
2.2.6. Hoạt động của các Công ty bảo hiểm ở Campuchia
Dịch vụ bảo hiểm là dịch vụ quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã
hội, thu hút và bảo đảm cho các nhà đầu tư, kinh doanh tại Campuchia vì
vậy, chính phủ cùng với các công ty bảo hiểm cần phải xây dựng lòng tin
cho người tiêu dùng và hướng dẫn cho họ hiểu biết rõ hơn về lợi ích của
bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm giao thông. Người dân
cũng tự mình nên nhận ra tâm quan trọng của dịch vụ bảo hiểm đối với đời

sống hàng ngày của mình. Hiện nay, người ở thủ đô Phnom Penh và các
vùng tỉnh thành phố khác có mức thu nhập cao rất quan tâm đến dịch vụ
bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm sức khỏe. Sau này, khi kinh tế Campuchia
phát triển hơn, mức thu nhập của nhân dân cao hơn, pháp luật chặt chẽ hơn,
đặc biệt là trong quá trình hội nhập như hiện nay, dịch vụ bảo hiểm của
Campuchia sẽ từng bước phát triển hơn. Tuy nhiên, một mình nhà nước thì
rất khó giải quyết vấn đề đang tồn tại nêu trên, Campuchia cần sự giúp đỡ
về tài chính và kỹ thuật từ các nước bạn bè và tổ chức quốc tế giàu kinh
nghiệm trong lĩnh vực này. Vì, nếu chỉ có chính sách mà không có nguồn
tài chính để triển khai thì rất khó thành công. Vậy, chính sách mở rộng quan
hệ trong quá trình hội nhập vẫn được coi là rất cần thiết đối với Campuchia.
2.2.7. Hoạt động của thị trường chứng khoán Campuchia
Thị trường chứng khoán là kênh kết nối hiệu quả nhất giữa nền kinh tế
trong nước với các nền kinh tế bên ngoài. Để có được nguồn vốn đầu tư vào
thị trường chứng khóan, đòi hỏi hệ thống luật pháp của Campuchia phải
đồng bộ, hài hòa với những quy định chung của thế giới, chính sách kinh tế
16
phải ổn định, dễ dự đoán; Hệ thống ngân hàng hoạt động phải hiệu quả,
minh bạch, không có hạn chế về tỷ giá, can thiệp hoặc áp đặt giá cả nhằm
thực hiện thanh toán nhanh gọn; Hệ thống hải quan phải tương tích với hệ
thống hải quan của WTO và ASEAN nhằm bảo đảm cho hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hóa dịch vụ không bị tắc nghẽn.
2.3. TÁC ĐỘNG CỦA LĨNH VỰC TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI
CAMPUCHIA
2.3.1. Tác động tích cực
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt sau khi trở thành thành
viên của WTO, lĩnh vực thương mại hàng hóa và dịch vụ của Campuchia
chịu tác động rất lớn do khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp
và công nghiệp như hàng dệt may, hàng điện tử, hàng chế biến còn rất thấp.
Đối với Campuchia lĩnh vực dịch vụ tài chính như ngân hàng, bảo hiểm,

chứng khoán là một lĩnh vực non trẻ so với các quốc gia khác trong khu vực
và trên thế giới. Vì vậy, trong quá trình hội nhập để tăng tổng sản phẩm
quốc nội lên cao thì Campuchia cần phải xem xét đầu tư vào các lĩnh vực
mà Campuchia có lợi thế để có khả năng cạnh tranh và tìm được một vị trí
thích hợp trong chuỗi giá trị toàn cầu và hướng tới xuất khẩu ra thị trường
bên ngoài và chỉ có như vậy giúp nâng cao vị thế của Campuchia trong khu
vực và trên trường quốc tế.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, trao đổi hàng hóa và dịch vụ
đóng vai trò rất quan trọng trước hết là tạo điều kiện cho Campuchia tận
dụng lợi thế so sánh cung cấp nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ,
máy móc và nguyên nhiên liệu cần thiết phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa
– hiện đại hóa. Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sẽ có tác động rất lớn đối với
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất sản phẩm và dịch vụ, giải
quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, là cơ sở mở rộng và
thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại, củng cố địa vị kinh tế của mỗi quốc gia
trên thị trường thế giới. Campuchia đã và đang tham gia mạnh mẽ vào quá
trình này, vì thế việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ là vấn đề
được ưu tiên hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế cũng như nâng cao
17
sức mạnh kinh tế và vị thế của Campuchia trong khu vực.
2.3.2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực như nêu ở trên, lĩnh vực tài chính
cũng mang lại một số tác động tiêu cực đối với Campuchia, cụ thể như sau:
Thứ nhất, thông qua vốn ODA của các nước lớn vào Campuchia ngày
càng nhiều làm cho Campuchia dần dần phụ thuộc nhiều hơn vào nước
ngoài. Như phân tịch ở “Mục 2.2.3” nguồn viện trợ ODA thường kèm theo
các điều kiện ưu đãi cho các nước cung cấp ODA. Tình trạng của
Campuchia hiện nay là nhận viện trợ rất nhiều từ Trung Quốc, bên cạnh đó
Chính phủ Campuchia nhượng đất hàng nghìn ếch-ta cho Trung Quốc khai
thác. Trong quá trình khai thác Trung Quốc thu được không ít lợi ích về mặt

kinh tế. Ngoài lợi ích kinh tế ra Trung Quốc còn được hưởng lợi ích chính
trị từ Campuchia trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế trong khu vực.
Với nguyên tắc đồng thuận của ASEAN trong việc giải quyết các vấn đề
khu vực, Trung Quốc đang sử dụng thế mạnh kinh tế của mình thông qua
lĩnh vực tài chính để kéo Campuchia ủng hộ họ trong vấn đề Biển Đông,
vấn đề Đài Loan,…
Thứ hai, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một nguồn tài chính
cực kỳ quan trọng đối với Campuhcia. Hiện nay vốn FDI đang vào
Campuchia ngày càng lớn thông qua các doanh nghiệp và ngân hàng nước
ngoài đầu tư vào. Sự có mặt của các doanh nghiệp và ngân hàng nước ngoài
tại Campuchia làm cho doanh nghiệp trong nước khó cạnh tranh với họ, vì
vốn tự có của các doanh nghiệp Campuchia còn hạn chế so với các doanh
nghiệp nước ngoài. Vì vậy, nó ảnh hưởng rất lớn đến tình hình hoạt động và
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Hơn nữa, trong khi
Campuchia phu thuộc quá nhiều vào vốn FDI, nếu các nhà đầu tư nước
ngoài lần lượt rút vốn FID của họ về sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tình hình
kinh tế, chính trị và xã hội của Campuchia. Vì, vốn FDI rút về đồng nghĩa
với việc các doanh nghiệp nước ngoài ở Campuchia đóng cửa sẽ dẫn đến
tính trạng thất nghiệp của người lao động, khi số lượng người thất nghiệp
lớn sẽ dẫn đến cuộc biểu tình để chính phủ giải quyết việc làm cho người
18
lao động, lúc đó sự bất ổn về chính trị và xã hội sẽ xảy ra.
Thứ ba, do tính đặc thù của lĩnh vực tài chính là dễ bị chuyển dịch từ
quốc gia này sang quốc gia khác thì Campuchia cũng bị ảnh hưởng mỗi khi
có cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trước đây khi lĩnh vực tài chính
Campuchia chưa phát triển thì mức độ tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính hoặc cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đối với Campuchia chỉ ở múc
thấp, nhưng hiện nay sẽ có tác động lớn hơn.
CHƯƠNG 3:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ THU HÚT VÀ TẬN DỤNG HIỆU QUẢ

DỊCH VỤ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CAMPUCHIA
3.1. MỘT SỐ HẠN CHẾ CỦA LĨNH VỰC TÀI CHÍNH CAMPUCHIA
3.1.1. Hạn chế của ngành ngân hàng
Thứ nhất, hiện nay đa số các ngân hàng đang hoạt động tại Campuchia
là ngân hàng nước ngoài với số lượng vốn rất lớn so với ngân hàng trong
nước, trong khi đó ngân hàng trong nước rất hạn chế về vốn.
Thứ hai, các ngân hàng đang hoạt động tại Campuchia chưa làm tốt việc
tuyên truyền, marketing, giải thích cho người dân hiểu hơn về lợi ích từ
việc gửi tiền tại ngân hàng và đơn giản hóa các thủ tục vay.
3.1.2. Hạn chế của ngành bảo hiểm
Thứ nhất, do điều kiện kinh tế của hộ gia đình còn hạn chế. Nhân dân
quan tâm đến việc sinh hoạt hàng ngày của họ nhiều hơn vì thu nhập của họ
rất thấp nên họ lo về việc ăn ở nhiều hơn việc di tìm dịch vụ bảo hiểm.
Thứ hai, người dân Campuchia ít quan tâm đến bảo hiểm là do họ chưa
hiểu biết rõ về dịch vụ bảo hiểm và lợi ích của bảo hiểm mang lại cho họ.
Thứ ba, người tiêu dùng trong nước họ không tin tưởng vào khả năng
thanh toán của các công ty bảo hiểm khi họ gặp rủi ro.
3.1.3. Hạn chế của ngành chứng khoản
Thứ nhất, thị trường chứng khoản là lĩnh vực hoàn toàn mới đối với
Campuchia cho nên các nhà đầu tư trong nước chưa hiểu rõ về bản chất của
19
thị trường chứng khoản.
Thứ hai, thị trường chứng khoản của Campuchia rất nhỏ. Hiện nay mới
chỉ có một mã chứng khoản nên nhà đầu tư không có nhiều công ty để so
sánh và lựa chọn đầu tư.
Thứ ba, do thị trường mới và trình độ hiểu biết của các nhà đầu tư trong
nước còn hạn chế nên không có nhiều giao dịch tại sản giao dịch chứng
khoản của Campuchia.
3.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ THU HÚT VÀ TẬN DỤNG HIỆU QUẢ
DỊCH VỤ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CAMPUCHIA

3.2.1. Thiết lập hành lang pháp lý trong lĩnh vực dịch vụ tài chính
Để tranh thủ và hội nhập với nền kinh tế khu vực, lĩnh vực tài chính
ngân hàng của Campuchia trước hết cần phải hội nhập trước tiên, điều đó
có nghĩa là bắt buộc Campuchia phải thông qua các quy định liên quan đến
hệ thống pháp lý, quy định về hoạt động của lĩnh vực này. Nói một cách
khác đó là phải thực hiện hài hòa hóa cả hệ thống luật pháp với các nước
trong khu vực với các nội dung: Khả năng tiếp cận thị trường; Thủ tục cấp
phép kinh doanh; Cơ chế giám sát; Quyền hạn của cơ quan giám sát thực
thi; Giới hạn quản lý rủi ro trong lĩnh vực tài chính; tính minh bạch của hoạt
động tài chính ngân hàng.
3.2.2. Hoàn thiện và củng cố chính sách vĩ mô
i). Tiếp tục thúc đẩy cải cách hành chính:
Cải cách hành chính là tiền đề và động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển. Hệ thống thể chế về tổ chức, hoạt động của nền hành chính Nhà nước
Campuchia đã từng bước hình thành và hoàn thiện theo hướng đồng bộ, phù
hợp với sự vận hành của nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế.
Hệ thống thủ tục hành chính của Campuchia đã từng bước được cải cách
theo hướng đơn giản hoá, công khai hoá, nâng cao hiệu quả giải quyết công
việc của các cơ quan công quyền nhà nước trong quan hệ với nhân dân và
doanh nghiệp.
ii). Tăng cường cải cách pháp luật và tư pháp:
20
Hệ thống pháp luật là vấn đề trọng tâm trong nền kinh tế thị trường, đặc
biệt là pháp luật trong lĩnh vực thương mại, đầu tư và dịch vụ tài chính.
Trước khi quyết định đầu tư tại một quốc gia nào đó, các nhà đầu tư thường
quan tâm đến hệ thống pháp luật tại đó và đặt câu hỏi: hệ thống pháp luật có
minh bạch, rõ ràng, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của họ hay
không? Điều này cho thấy hoàn thiện pháp luật là vấn đề hết sức quan trọng
trong hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển tài chính
nói riêng.

iii). Xây dựng cơ sở hạ tầng
Có thể khẳng định đối với tình hình kinh tế Campuchia hiện nay, cơ sở hạ
tầng đóng vai trò rất quan trọng, là đầu tàu của sự tăng trưởng kinh tế - xã
hội, là một trong những biện pháp hiệu quả nhất để xóa đói giảm nghèo, đồng
thời tạo cơ sở cho Campuchia hội nhập sâu rộng hơn vào đời sống chính trị
khu vực và thế giới.
iv). Chống tham nhũng:
Tham nhũng là vấn đề rất đáng lo ngại đối với mỗi quốc gia cũng như
các nhà đầu tư nước ngoài. Ở Campuchia, tham nhũng là một vấn đề rất khó
giải quyết, là một căn bệnh khó chữa và đang làm suy yếu dần nền kinh tế -
xã hội của đất nước, làm giảm lòng tin của nhà đầu tư nước ngoài và các
nhà tài trợ quốc tế.
Chống tham nhũng chắc chắn là công việc rất nặng nề, phức tạp, rất khó
khăn lâu dài, liên tục, đòi hỏi phải kết hợp đồng bộ nhiều biện pháp. Tuy
nhiên, không còn sự lựa chọn nào khác, ngoài việc phải đấu tranh nhằm
giảm thiểu tình trạng tham nhũng đang ngày càng phổ biến tại Campuchia.
v). Giữ ổn định chính trị và trật tự xã hội:
Thực tế cho thấy, khi một quốc gia mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế
giới, muốn thành công trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, phải có sự ổn
định chính trị. Nhà đầu tư thường để ý xem thủ tục hành chính có đơn giản,
thông thoáng; pháp luật có rõ ràng, minh bạch; cơ sở hạ tầng có tốt và có sự
ổn định về chính trị hay không. Việc đầu tư vào lĩnh vực tài chính tại
Campuchia cũng vậy. Có mối liên hệ chặt chẽ, không thể tách rời giữa ổn
21
định chính trị với phát triển.
3.2.3. Phát triển hệ thống ngân hàng
Thực tế trên thế giới cho thấy, để ổn định và tạo mọi điều kiện cho lĩnh
vực dịch vụ tài chính vận hành, hoạt động hiệu quả như một đòn bẩy thúc
đẩy sự phát triển kinh tế, thông qua việc thu hút vốn từ bên trong cũng như
từ các nước, các tổ chức quốc tế, Campuchia cần thiết phải thực hiện một số

nhiệm vụ dưới đây:
i). Hạn chế rủi ro trong hệ thống ngân hàng
Để giải quyết vấn đề rủi ro, phải từng bước nâng cao trình độ quản lý, tái
cơ cấu vốn, giảm nợ xấu. Đồng thời, phải đảm bảo sự ổn định về tài chính.
Hệ thống ngân hàng không đảm bảo được sự ổn định về tài chính, sẽ mang
theo rủi ro rất cao, tạo tâm lý e ngại đối với khách hàng và tính cạnh tranh
thấp, dẫn đến khả năng phá sản.
ii). Bảo vệ lợi ích của người gửi tiền
Đây là một biện pháp tăng cường thu hút tiền gửi tiết kiệm vào ngân
hàng, vì đa số nhân dân Campuchia chưa hiểu rõ, thậm chí không tin tưởng
vào ngân hàng. Do vậy, các ngân hàng cần áp dụng một chính sách hợp lý,
để tạo dựng lòng tin của nhân dân, làm cho họ hiểu rõ về lợi ích do ngân
hàng mang lại với dịch vụ tốt, nhanh chóng, đơn giản và hiệu quả.
iii). Tuân thủ các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế
Đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế và khu vực cũng là một việc phải làm của
ngành ngân hàng Campuchia. Là thành viên của ASEAN, IMF, ADB, WB
và đặc biệt là WTO, do vậy, việc áp dụng các tiêu chuẩn và thông lệ của
GATS vừa là mục tiêu, vừa là nghĩa vụ phải làm. Tiêu chuẩn quốc tế sẽ
củng cố, nâng cao chất lượng và khả năng hoạt động tốt của hệ thống ngân
hàng. Người sử dụng dịch vụ ngân hàng tại Campuchia sẽ yên tâm hơn khi
chọn dịch vụ của một ngân hàng có tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, nhiệm
vụ trước mắt là cố gắng để đạt được tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.
iv). Mở rộng phạm vi hoạt động của hệ thống ngân hàng, đẩy mạnh
hợp tác với các nước trong khu vực
Bên cạnh việc cần thiết phải duy trì một tỷ lệ hợp lý giữa vốn trong nước
22
và vốn nước ngoài, Campuchia cần tiếp tục mở rộng hoạt động nhiều hơn
nữa của lĩnh vực tài chính nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Sự có
mặt của các tổ chức tài chính nước ngoài sẽ góp phần tăng cường tính hiệu
quả của hệ thống tài chính, nhờ áp dụng các tiêu chuẩn và thông lệ của GATS.

Tuy nhiên, chính phủ cần có biện pháp kiên quyết trong việc củng cố các cơ
chế và giám sát đối với hệ thống tài chính, các tổ chức tín dụng, ngân hàng để
nhanh chóng giải quyết sự thua lỗ hay phá sản của các tổ chức này.
Từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực, để đảm bảo an toàn tài
chính trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, cần nghiên cứu, sử dụng
các công cụ tài chính và có các định chế pháp lý chặt chẽ trong việc sử
dụng các công cụ này, nhằm nghiêm cấm các hoạt động đầu cơ trên thị
trường tiền tệ, hàng hoá và thị trường chứng khoán. Sự mở rộng hoạt động,
liên kết với hệ thống ngân hàng tài chính khu vực sẽ tạo ra sức ép đối với
các tổ chức tài chính trong nước thay đổi về cách quản lý, từng bước áp
dụng công nghệ hiện đại trong lĩnh vực này qua đó nâng cao chất lượng
phục vụ và hiệu quả kinh doanh một mặt góp phần thúc đẩy kinh tế phát
triển, mặt khác dẩy nhanh quá trình hội nhập của Campuchia.
3.2.4. Phát triển ngành tài chính vi mô
Từ năm 2001, ngành tài chính vi mô Campuchia đã thể hiện tính năng
động, với những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, để ngành tài chính vi mô
phát triển rộng hơn nữa và đảm bảo hiệu quả trong quá trình hoạt động của
mình, tác giả xin đưa ra một số khuyến nghị dưới đây:
i). Mở rộng thị trường tài chính vi mô
Mở rộng hoạt động thị trường tài chính vi mô không chỉ giới hạn trong
việc tăng số lượng các tổ chức tài chính mà cần đưa chúng vào trong một
khuôn khổ có tính pháp lý nhất định, ví dụ như khuyến khích các tổ chức tài
chính vi mô tham gia vào Hiệp hội Tài chính Vi mô Campuchia (CMA) tạo
cơ hội tốt cho các tổ chức tài chính trao đổi kinh nghiệm và thông tin liên
quan.
ii). Tăng cường quy chế pháp luật và giám sát
Hệ thống quản lý cần được phát triển phù hợp với các tiêu chuẩn dành
23

×