Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao người Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (858.67 KB, 126 trang )



1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THANH TRANG




VĂN HÓA ỨNG XỬ VỀ TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN
TRONG CA DAO NGƢỜI VIỆT




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Dân gian







Hà Nội - 2014







2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THANH TRANG



VĂN HÓA ỨNG XỬ VỀ TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN
TRONG CA DAO NGƢỜI VIỆT



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Dân gian
Mã số: 60 22 01 25



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : GS.TS Vũ Anh Tuấn





Hà Nội, 11/ 2014




3
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và
chƣa đƣợc sử dụng để bảo vệ học hàm, học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực
hiện luận văn này đã đƣợc cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn này đã
đều đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Người thực hiện



Nguyễn Thanh Trang
















4
LỜI CẢM ƠN

Trƣớc hết, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS.TS.Vũ Anh Tuấn,
trƣởng bộ môn Văn học dân gian và Văn học trung đại Việt Nam – Khoa Ngữ
văn Đại học Sƣ phạm Hà Nội, ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo tôi
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu hoàn thành luận văn.
Đồng thời, tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong hội đồng bảo vệ
đề cƣơng tháng 3/2014 đã cho tôi những nhận xét quý báu để tôi hoàn thành luận
văn “Văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao người Việt”.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và những ngƣời thân luôn sát
cánh ủng hộ, động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện đề tài này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Người thực hiện



Nguyễn Thanh Trang











5
DANH MỤC VIẾT TẮT


KTCD : Kho tàng ca dao ngƣời Việt
VHDG : Văn học dân gian
THCS : Trung học cơ sở
H : Hà Nội
NXB : Nhà xuất bản
TS : Tiến sĩ
PGS : Phó giáo sƣ
GS : Giáo sƣ
Tr : Trang















6

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 8
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 17
1.1. Tổng quan về văn hóa và ứng xử 17
1.2. Ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong văn hóa Việt Nam 20
1.2.1. Ứng xử về tình yêu trong văn hóa Việt Nam 20
1.2.2. Ứng xử về hôn nhân trong văn hóa Việt Nam 21
1.3. Văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao từ góc nhìn thể
loại 24
Tiểu kết chương 1 30
CHƢƠNG 2: VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG TÌNH YÊU 32
2.1. Tình yêu hạnh phúc 33
2.1.1. Những lời tỏ tình 33
2.1.2. Nỗi niềm tương tư, nhớ nhung, sầu muộn 38
2.1.3. Lời thề nguyền, hẹn ước 41
2.2. Tình yêu đau khổ 44
2.2.1. Nguyên nhân 44
2.2.2. Thái độ trách móc, hờn giận 45
2.2.2.1. Khi trái duyên, bị ép duyên 45
2.2.2.2. Khi bị phụ tình 47
2.2.2.3. Khi ghen tuông 49
2.2.2.4. Khi bị lỡ duyên – nuối tiếc 50
2.2.3. Thái độ cao thượng – không cao thượng 55
2.3. Tình yêu đơn phƣơng 59
2.4. Những ƣớc mong trong tình yêu 60


7
Tiểu kết chƣơng 2 62
CHƢƠNG 3: VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG HÔN NHÂN 64

3.1. Ứng xử trong quan hệ vợ chồng 64
3.1.1. Đạo nghĩa chung trong quan hệ vợ chồng 64
3.1.2. Ứng xử của người vợ 67
3.1.2.1. Ứng xử tích cực ( sự gắn bó, hòa hợp) 67
3.1.2.2. Ứng xử tiêu cực 77
3.1.3. Ứng xử của người chồng 92
3.1.4. Ứng xử của người tình của chồng 94
3.2. Ứng xử trong mối quan hệ khác 97
3.2.1. Ứng xử trong quan hệ nàng dâu với mẹ chồng 97
3.2.2. Ứng xử trong quan hệ bố mẹ vợ - con rể 102
3.2.3. Ứng xử trong quan hệ mẹ ghẻ - con chồng, cha dượng - con của vợ 103
3.2.4. Ứng xử giữa anh chị em dâu rể 104
Tiểu kết chương 3 104
KẾT LUẬN 106
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO









8
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do thực tiễn
Văn hóa ứng xử của ngƣời Việt đƣợc hình thành trong quá trình giao tiếp

qua 4000 năm lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc. Cái đẹp của văn hóa ứng xử đƣợc
cha ông lƣu giữ và truyền lại từ đời này sang đời khác. Nghiên cứu văn hóa ứng
xử giúp ta hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn về giao tiếp, về văn hóa, lịch sử của một
quốc gia, dân tộc, xã hội, thời đại, đồng thời để điều chỉnh hành vi của chính
mình.
Văn hóa thể hiện qua nhiều cách thức, phƣơng tiện, trong đó ngôn ngữ là
phƣơng tiện quan trọng. Bản sắc riêng của mỗi dân tộc thể hiện qua tiếng mẹ đẻ.
Vì thế, ngôn ngữ là hiện thân của văn hóa, là phƣơng tiện để truyền đạt văn hóa.
Ngôn ngữ chính là chất liệu làm nên tác phẩm văn học, trong đó có văn học dân
gian. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, ca dao là một trong những
sáng tác phổ biến rộng rãi có sức sống bền lâu vào loại bậc nhất. Đó là tiếng nói
của cảm xúc tình cảm, bộc lộ tâm hồn dân tộc.
Tình yêu vốn là bản chất thiêng liêng và tự nhiên của con ngƣời. Vì thế,
dù ở thời đại nào, tình yêu cũng là đề tài bất tận cho văn chƣơng, và ca dao
không nằm ngoài số đó. Thế nhƣng trong cuộc sống hiện đại ngày nay, nhiều
ngƣời trẻ coi tình yêu nhƣ một cuộc chơi, một trò đùa, không hiểu thế nào là tình
yêu chân chính. Vậy nên mới nảy sinh những tình yêu chớp nhoáng, chia tay
chớp nhoáng, hay hôn nhân vội vàng, dẫn đến những kết cục đáng buồn cho
ngƣời trong cuộc. Đặc biệt, cách ứng xử của những ngƣời trong cuộc cũng để lại
cho chúng ta nhiều suy ngẫm. Mặc dù trong thời đại ngày nay đã có những quan
niệm mới, tƣ duy mới không còn giống với quan niệm của ngày xƣa, nhƣng cái


9
mới ấy vẫn không thể thoát ly khỏi bản sắc của dân tộc. Dẫu rằng trong thế giới
phẳng này chẳng có ai “ngây thơ” quan niệm về tình yêu và hôn nhân nhƣ văn
hóa truyền thống, nhƣng quan niệm mới ấy vẫn phải có sự chế định của bản sắc
dân tộc. Nói tới văn hóa là nói tới nhân dạng và tính cách; tính cách lại làm nên
phẩm giá con ngƣời. Mỗi dân tộc lại có quan niệm về phẩm giá khác nhau và
phẩm giá ấy làm nên chuẩn mực có tính lịch sử. Do có tính lịch sử nên ngoài cái

đổi mới, phẩm giá còn có sự tiếp nối. Thế nhƣng có đổi mới tới đâu cũng phải
phát triển dựa trên dân trí và đạo đức. Không thể phủ nhận ngày nay là thời đại
khoa học công nghệ, thời đại của công nghệ thông tin, thời đại dân trí phát triển
mạnh. nhƣng dân trí đƣợc nâng cao không có nghĩa phá vỡ những nền tảng đạo
đức. Hai khía cạnh ấy phải luôn có sự song hành, diễn tiến hài hòa.
Do đó, việc tìm hiểu văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân qua ca dao
giúp chúng ta hiểu hơn đời sống của cha ông và việc soi bóng vào quá khứ sẽ
giúp ta thấy đƣợc một tƣơng lai, soi bóng vào dân tộc để thấy đƣợc chính mình.
Có đƣợc gốc rễ ấy để ta có cái nhìn đúng đắn về tình yêu, hôn nhân trong cuộc
sống hiện đại và đây là điều thực sự cần thiết cho giới trẻ ngày nay.
1.2. Lý do học thuật
Ca dao cũng là một lĩnh vực cần nghiên cứu chuyên sâu, vì kho tàng ca
dao cũng là một kho tàng tri thức về lịch sử, xã hội, địa lý, đặc biệt là lĩnh vực
văn hóa. Nghiên cứu ca dao chính là việc làm mang tính chất học thuật nhằm
khám phá kho tàng tri thức của cha ông.
Tình yêu, hôn nhân đặc biệt là tình yêu, hôn nhân trong ca dao của ngƣời
Việt luôn là tâm điểm nghiên cứu từ xƣa đến nay. Bởi đó là vấn đề mang tính
chất hiện sinh, đặt ra nhiều mối quan tâm trong cuộc sống thực tại. Những bài ca
dao về tình yêu tự do, về quyền sống của con ngƣời, đặc biệt là ngƣời phụ nữ,


10
những bài ca dao đòi hỏi sự công bằng, chống áp bức bất công đều là những cách
ứng xử rất khéo léo của ngƣời xƣa để đòi quyền đƣợc cất lên tiếng nói của mình.
Việc khảo sát những bài ca dao về tình yêu, hôn nhân sẽ giúp con ngƣời hiện tại
khám phá đƣợc kho tàng ứng xử của ngƣời xƣa trƣớc những vấn đề của muôn
đời. Đó cũng là một cách làm mang tính chất học thuật và vì học thuật.
Quá trình khám phá những bài ca dao cũng là một quá trình đòi hỏi tính
học thuật rất cao. Giống nhƣ ngôn ngữ thông thƣờng, từ cái vỏ bề ngoài ( cái
phản ánh) cần phải khám phá ra cái đƣợc phản ánh bên trong. Ca dao rất hay

dùng cách nói ẩn dụ, so sánh, hoán dụ, chơi chữ…, đặc biệt là ca dao về tình
yêu. Đó là bởi thời xƣa dƣới ảnh hƣởng của nho giáo, tình yêu không đƣợc biểu
lộ một cách trực tiếp mà bao giờ cũng đƣợc nói một cách ý nhị, khéo léo. Vì thế,
đi sâu vào những bài ca dao về tình yêu con ngƣời đƣơng thời cũng học hỏi đƣợc
những cách dùng từ, những cách đặt câu và những cách biểu đạt rất học thuật mà
vẫn rất giản dị. Thêm nữa, ca dao tình yêu hôn nhân của ngƣời Việt ở miền Nam
và miền Bắc cũng không hoàn toàn giống nhau. Ở những lứa tuổi khác nhau,
ngƣời ta cũng bày tỏ tình cảm theo những cách khác nhau. Vì thế, đọc ca dao
chúng ta thêm hiểu những cách thức ứng xử và những nét đẹp văn hóa của từng
vùng miền trong cả nƣớc. Nhƣng tựu trung lại, ca dao tình yêu hôn nhân dù ở
vùng miền nào, lứa tuổi nào cũng là một kho tàng ứng xử của ngƣời thời xƣa cần
đƣợc nghiên cứu. Tất cả sẽ tái hiện lại đƣợc đời sống tinh thần của con ngƣời
thời xƣa.
1.3. Lý do nghiệp vụ
Học sinh phổ thông, đặc biệt là học sinh THCS đang là lứa tuổi hình thành
nhân cách. Việc nghiên cứu và tìm hiểu ứng xử trong ca dao, đặc biệt là ca dao
về tình yêu và hôn nhân sẽ giúp cho các em có đƣợc hiểu biết về cách ứng xử


11
của ngƣời xƣa. Từ đó, điều chỉnh đƣợc thái độ, hành vi cũng nhƣ cách ứng xử về
tình yêu trong cuộc sống hiện đại.
Công việc giảng dạy của giáo viên ở trƣờng phổ thông vì thế cũng đòi hỏi
phải nắm vững kiến thức về ca dao, đặc biệt là kiến thức về tình yêu hôn nhân,
để từ đó có cách cảm, cách nghĩ đúng đắn và định hƣớng đƣợc cho học sinh của
mình. Mảng kiến thức về ca dao trong trƣờng phổ thông cũng chiếm một khối
lƣợng khá lớn. Do đó, tìm hiểu về ca dao cũng sẽ giúp nâng cao nghiệp vụ và
tầm bao quát kiến thức cho giáo viên.
2. Lịch sử vấn đề
Đề tài tình yêu, hôn nhân trong ca dao, tục ngữ là đề tài muôn thuở đƣợc

nhiều ngƣời quan tâm và nghiên cứu. Các giáo trình văn học dân gian của Đinh
Gia Khánh, Hoàng Tiến Tựu, Vũ Anh Tuấn, Đỗ Bình Trị… cũng đề cập tới vấn
đề này, tuy không nhiều lắm, nhƣng cũng là nguồn tham khảo quý giá cho chúng
tôi. Bên cạnh đó, qua các cuốn chuyên luận, các luận án, các bài báo mà chúng
tôi khảo sát đƣợc, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu trƣớc đây mới chỉ tập
trung nghiên cứu những vấn đề sau:
Về vấn đề văn hóa ứng xử trong ca dao, các nhà nghiên cứu mới tập trung
nghiên cứu mảng ứng xử xã hội (Chuyên luận của Trần Thúy Anh: Ứng xử cổ
truyền với tự nhiên và xã hội của người Việt châu thổ Bắc Bộ qua ca dao, tục
ngữ; bài viết của Hà Đan: Từ chữ “nghĩa” trong ca dao, tìm về một nét ứng xử
trong truyền thống văn hóa người Việt; bài viết của Trần Thị Ngân Giang: Nghĩa
của từ “nhịn” trong tiếng Việt và chữ nhịn trong văn hóa ứng xử người Việt),
mảng ứng xử trong gia đình, đạo đức (Đỗ Thị Bảy: Sự phản ánh quan hệ gia
đình, xã hội trong tục ngữ, ca dao; Nguyễn Nghĩa Dân: Tục ngữ ca dao về giáo
dục đạo đức…); về thi pháp biểu hiện trong ca dao ( bài viết của Cao Huy Đỉnh:


12
Lối đối đáp trong ca dao trữ tình; Đỗ Thị Hòa - Luận văn Thạc sĩ Văn học dân
gian Trƣờng ĐHSP Hà Nội: Đặc điểm nghệ thuật so sánh trực tiếp trong ca dao
tình yêu người Việt; Nguyễn Xuân Kính: Thi pháp ca dao; Đặng Diệu Trang:
Thiên nhiên với thế giới nghệ thuật ẩn dụ và biểu tượng trong ca dao dân ca;
Hoàng Kim Ngọc: So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình: Dưới góc nhìn ngôn
ngữ văn hóa học…).
Về mảng ca dao tình yêu và hôn nhân, các luận văn, các chuyên luận, các
bài nghiên cứu mới đề cập tới các vấn đề chung của tình yêu đôi lứa, thân phận
ngƣời phụ nữ chứ chƣa đi sâu vào nghệ thuật ứng xử. Tiêu biểu có các bài viết:
bài viết của Lê Thị Thắm: Ý niệm về đôi - cặp trong ca dao người Việt về hôn
nhân và gia đình; Nguyễn Xuân Đức: Nghệ thuật biểu hiện trong bài ca dao
“Trèo lên cây bưởi hái hoa”; Phạm Danh Môn (st, chỉnh lý): Tình yêu đôi lứa

trong ca dao Việt Nam: Từ điển Bách Khoa; Phạm Thu Yến: Cảm hứng về thân
phận người phụ nữ trong văn hóa xưa – nay. Ngoài ra, các tác giả cũng nghiên
cứu ca dao tình yêu, hôn nhân của các vùng miền: Quán Vi Miên: “ Ca dao, dân
ca Thái về tình yêu và sự chia ly”; Trần Phỏng Diều: Phương ngữ Nam Bộ trong
ca dao về tình yêu; Luận văn Thạc sĩ Văn học dân gian của Dƣơng Thị Bích
Liên: Dân ca Xoan Ghẹo vùng văn hóa dân gian Phú Thọ; Luận văn Thạc sĩ Văn
học dân gian của Bùi Thị Lê Vân: Dân ca giao duyên trong truyền thống văn
hóa tinh thần của dân tộc Dao… Bên cạnh đó, cũng có một số tác giả đi sâu
phân tích một số bài ca dao cụ thể: Nguyễn Xuân Đức với bài “Trèo lên cây
bưởi hái hoa”, Đỗ Thị Kim Liên với bài ca dao “Tát nước đầu đình”, hay
Nguyễn Quốc Dũng với bài phân tích một câu ca dao “Một thương tóc bỏ đuôi
gà”…


13
Nhƣ vậy, vấn đề văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao
ngƣời Việt mới chỉ đƣợc đề cập một cách sơ lƣợc, chứ chƣa đƣợc nghiên cứu
thành hệ thống bài bản. Vì vậy, chọn tên đề tài “Văn hóa ứng xử về tình yêu và
hôn nhân trong ca dao người Việt” là việc làm cần thiết, khoa học, không bị
trùng lặp. Việc làm của chúng tôi sẽ làm nổi rõ văn hóa ứng xử về tình yêu và
hôn nhân trong ca dao Việt, qua việc hệ thống hóa một cách chi tiết và đầy đủ
mảng ca dao tình yêu, hôn nhân trong kho tàng ca dao ngƣời Việt.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài luận văn của chúng tôi có tên là : "Văn hóa ứng xử về tình
yêu và hôn nhân trong ca dao người Việt". Vì vậy đối tƣợng nghiên cứu của
chúng tôi là thái độ ứng xử của nam, nữ trong tình yêu và thái độ ứng xử trong
mối quan hệ hôn nhân. Chúng tôi tập trung làm rõ văn hóa ứng xử của các nhân
vật trữ tình trong ca dao đƣợc biểu đạt. Đó là cách ứng xử nhìn từ quan điểm
giới đẳng cấp xã hội, tầng lớp xã hội, áp lực của dƣ luận, lề thói…, đặc biệt là

cách nhìn của ca dao đối với ngƣời phụ nữ. Trên cơ sở đó, chúng tôi có sự so
sánh cách dân gian đối xử với ngƣời phụ nữ trong chèo cổ, truyện nôm bình dân
cũng nhƣ cách những ngƣời phụ nữ đó ứng xử trong tình yêu, hôn nhân. Từ đó
có thể thấy hôn nhân và tình yêu thể hiện chuẩn mực của xã hội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tƣ liệu về ca dao rất dồi dào, phong phú, đa dạng biểu hiện ở nhiều công
trình. Nhƣng với đề tài “Văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao
người Việt”, đối tƣợng khảo sát chính của chúng tôi là “Kho tàng ca dao người
Việt” (1995),


14
4 tập, do Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên, Nxb Văn hóa thông tin,
H. Ngoài ra chúng tôi có tham khảo thêm“Tổng tập Văn học dân gian người
Việt” (2002), Nxb khoa học xã hội, H. Đây là một công trình tập thể đƣợc biên
soạn công phu gồm 19 tập về tất cả các thể loại của văn học dân gian ngƣời Việt.
Chúng tôi sử dụng tập 15,16 (quyển thƣợng, quyển hạ) là tập nói về ca dao
ngƣời Việt. Trong quá trình tiến hành thống kê và phân tích, đối chiếu, so sánh,
chúng tôi cũng có thể sử dụng thêm một số tƣ liệu có sẵn, đƣợc trích dẫn lại
trong các công trình có liên quan. Các tƣ liệu này đều đƣợc chú thích rõ nguồn
gốc, xuất xứ.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm góp phần vào việc tìm hiểu văn hóa ứng xử của ngƣời Việt
về tình yêu và hôn nhân đƣợc phản ánh trong ca dao. Đề tài cũng khẳng định
những giá trị đã tạo nên vẻ đẹp trong văn hóa ứng xử của ngƣời Việt nói riêng
và con ngƣời Việt Nam nói chung. Từ đó phát huy những nét đẹp đó để
giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc.
4.2. Nhiệm vụ
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định nhiệm vụ

nghiên cứu của luận văn này là:
4.2.1. Tìm hiểu những tiền đề lý luận chung có liên quan đến vấn đề nghiên cứu
của luận văn.
4.2.2. Từ “Kho tàng văn học dân gian người Việt” (4 tập), chúng tôi đã tiến
hành khảo sát, phân loại, tổng hợp để lựa chọn ra những lời ca dao nói tới văn
hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân.


15
4.2 3. Sử dụng các phƣơng pháp thích hợp để bình giá, phân tích theo những
mục đích đã xác định.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nhằm đạt đƣợc những mục đích đặt ra để triển khai đề tài này chúng tôi
chú ý đến các phƣơng pháp chủ yếu sau :
Phương pháp thống kê phân loại : Trƣớc hết chúng tôi tiến hành thống kê
toàn bộ số lƣợng những lời ca nói về cách ứng xử trong tình yêu và hôn nhân.
Đó là cơ sở khoa học cho những nhận định, kết luận của luận văn. Qua kết quả
thống kê phân loại chúng tôi có thể rút ra những nhận xét một cách chính xác,
khách quan và khoa học.
Phương pháp phân tích, tổng hợp - bình: Trên cơ sở của việc thống kê,
phân loại, chúng tôi tiến hành phân tích, hệ thống hóa. Dựa vào kết quả của sự
phân tích, chúng tôi sẽ tổng hợp để rút ra những kết luận khái quát. Trong quá
trình đó chúng tôi có sử dụng phƣơng pháp bình. Đây không phải là phƣơng
pháp chủ yếu mà đây chỉ là cách tiếp cận sâu hơn khi cần khái quát tƣ duy của
các tác giả dân gian.
Ngoài những phƣơng pháp cơ bản trên đây, trong quá trình nghiên cứu
chúng tôi còn vận dụng một số phương pháp liên ngành.
6. Dự kiến đóng góp
Việc làm của chúng tôi sẽ làm nổi rõ văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn
nhân trong ca dao Việt, qua việc hệ thống hóa một cách chi tiết và đầy đủ mảng

ca dao tình yêu, hôn nhân trong kho tàng ca dao ngƣời Việt. Bên cạnh đó, góp
phần gìn giữ và phát huy những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc để
khẳng định sự bền vững của bản sắc văn hóa dân tộc trong văn hóa ứng xử. Từ


16
đó để ta có cái nhìn đúng đắn về tình yêu, hôn nhân trong cuộc sống hiện đại và
đây là điều thực sự cần thiết cho giới trẻ ngày nay.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các chữ viết tắt, Tài liệu tham
khảo, Phụ lục, Luận văn này gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề chung
1.1. Tổng quan về văn hóa ứng xử
1.2. Ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong văn hóa Việt Nam
1.3. Văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao từ góc nhìn thể
loại
Chương 2: Văn hóa ứng xử trong tình yêu
2.1. Tình yêu hạnh phúc
2.2. Tình yêu đau khổ
2.3. Tình yêu đơn phương
2.4. Những ước mong trong tình yêu
Chương 3: Văn hóa ứng xử trong hôn nhân
3.1. Ứng xử trong quan hệ vợ chồng
3.2. Ứng xử trong mối quan hệ khác









17
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tổng quan về văn hóa và ứng xử
“Văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao người Việt” tự
giới hạn trong một phạm vi nhỏ của văn hóa, quan hệ về tình yêu nam nữ, về
quan hệ hôn nhân ( trong đó có quan hệ vợ chồng, mẹ chồng nàng dâu, anh em
họ hàng …). Từ “văn hóa” có rất nhiều nghĩa:
Văn hóa “là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử (kho tàng văn hóa dân tộc, văn hóa
phương Tây); những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống
tinh thần nói chung (sinh hoạt văn hóa văn nghệ); tri thức, kiến thức khoa học
(học văn hóa, trình độ văn hóa); trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện
của văn minh (người thiếu văn hóa, cư xử rất có văn hóa, gia đình văn hóa);
tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần của một thời kì lịch sử cổ
xưa, được xác định trên một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc
điểm giống nhau (văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh)”. [54, tr 1705]
Tác giả Đoàn Văn Chúc cho rằng: “Văn hóa – vô sở bất tại: Văn hóa -
không nơi nào không có!”[7]. Điều này cho thấy tất cả những sáng tạo của con
ngƣời trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa, nơi nào có con ngƣời nơi đó có
văn hóa.
Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu
cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội của mình”[60].
Theo nhà nghiên cứu Trần Quốc Vƣợng, định nghĩa về văn hóa có thể tạm
quy ƣớc về hai loại. “Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng như lối sống, lối suy nghĩ,



18
lối ứng xử… Văn hóa hiểu theo nghĩa hẹp như văn học, văn nghệ, học vấn… và
tùy theo từng trường hợp cụ thể mà có những định nghĩa khác nhau” [71, tr.22].
Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hiệp Quốc UNESCO: “Văn
hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí
tuệ và xúc cảm, quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người
trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và
những tín ngưỡng: Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân.
Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có
lí tính, có óc phê phán và dấn thân mọt cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con
người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa
hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết
mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản
thân” [71, tr.23] . Điều đó cũng có nghĩa là “văn hóa bao gồm tất cả những gì
làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia”.
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng: văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con
ngƣời sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên. Văn hóa là sản phẩm của loài
ngƣời, đƣợc tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con ngƣời và xã hội,
đƣợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa, đƣợc
tái tạo, phát triển trong quá trình hành động và tƣơng tác xã hội của con ngƣời.
Nói cách khác, văn hóa là trình độ phát triển của con ngƣời và của xã hội đƣợc
biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con
ngƣời cũng nhƣ trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con ngƣời tạo ra.
Ứng xử là một biểu hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con ngƣời trƣớc
sự tác động của ngƣời khác với mình trong một tình huống nhất định đƣợc thể


19
hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con ngƣời nhằm đạt kết quả

tốt trong mối quan hệ giữa con ngƣời với nhau. Xét trên bình diện nhân cách thì
bản chất của ứng xử chính là những đặc điểm tính cách của cá nhân đƣợc thể
hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ và cách nói năng của cá nhân với những ngƣời
chung quanh.
Theo GS Hoàng Phê, ứng xử là “thể hiện thái độ, hành động thích hợp
trước những việc có quan hệ giữa mình với người khác” [54, tr 1691]. Hành vi
ứng xử văn hóa là những biểu hiện hoạt động bên ngoài của con ngƣời, đƣợc thể
hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ và cách ứng xử của con ngƣời đối với bản
thân, với những ngƣời chung quanh, trong công việc và môi trƣờng hoạt động
hằng ngày. Tuy nhiên hành vi ứng xử văn hóa của mỗi cá nhân là khác nhau, nó
đƣợc hình thành qua quá trình học tập, rèn luyện và trƣởng thành của mỗi cá
nhân trong xã hội. Hành vi ứng xử văn hóa đƣợc coi là các giá trị văn hóa, đạo
đức, thẩm mỹ của mỗi cá nhân đƣợc thể hiện thông qua thái độ, hành vi, cử chỉ,
lời nói của mỗi cá nhân đó. Nó đƣợc biểu hiện trong mối quan hệ với những
ngƣời chung quanh, trong học tập, công tác, với bạn bè cùng trang lứa và thậm
chí ngay cả với chính bản thân họ.
Theo lời phát biểu của ông De Cuella, nguyên Tổng giám đốc UNESCO
nhân buổi tổng kết thập kỉ văn hóa (1987 – 1997) của Liên Hợp Quốc: “Văn hóa
là cách sống (cách ứng xử) cùng nhau”. Nhƣ vậy nghĩa là nghiên cứu ứng xử
cũng là nghiên cứu văn hóa, cách sống. Ứng xử là hệ thống các quan hệ tƣơng
tác, các phản ứng đƣợc thực hiện bởi các vật thể sống, kể cả con ngƣời để thích
nghi với môi trƣờng.
Có thể nói, văn hóa là toàn bộ những truyền thống hƣớng dẫn hành xử mà
các cá nhân trong một xã hội đƣợc xã hội đó trao truyền bằng những hình thức


20
học tập khác, đa dạng. Điều này cần bắt đầu ngay từ nhỏ, đƣợc nhập thân văn
hóa từ khi còn trong bụng mẹ. Ra đời, đƣợc 12 bà mụ dạy ăn, nói, gói, mở và tự
rèn luyện bằng cách học tập suốt đời. Ứng xử của con ngƣời ở các nƣớc, các

vùng khác nhau thì không giống nhau do nền văn hóa khác nhau. Còn ứng xử
của loài vật thì khắp nơi hầu nhƣ giống nhau vì loai vật không có văn hóa. Điều
này có nghĩa là trong những thời đại khác nhau thì văn hóa ứng xử của con
ngƣời cũng có sự thay đổi.
1.2. Ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong văn hóa Việt Nam
1.2.1. Ứng xử về tình yêu trong văn hóa Việt Nam
Tình yêu và hôn nhân là hai vấn đề hầu nhƣ luôn đi đôi với nhau, gắn bó
và tƣơng quan chặt chẽ với nhau nhƣ một. Tình yêu là một tình cảm thiêng liêng,
cao đẹp của con ngƣời nên tình yêu đòi hỏi cung cách ứng xử cũng phải cao đẹp
để tƣơng ứng với nó. Từ cách xƣng hô đến hò hẹn, cả khi trách cứ giận hờn cũng
phải mang màu sắc đặc thù của tình yêu. Nếu chúng ta xử sự một cách suồng sã
thì dù có yêu nhau đến đâu chăng nữa cũng chỉ là một thứ tình yêu thiếu văn hóa.
Do tình yêu là bản chất thiêng liêng và tự nhiên của con ngƣời cho nên dù
ở thời đại nào, tình yêu bao giờ cũng là đề tài bất tận cho những áng văn chƣơng.
Việt Nam chúng ta từ ngàn xƣa là một quốc gia nông nghiệp. Với hình thể chữ S
mềm mại uốn cong ven bờ Thái Bình Dƣơng, với cảnh vật thiên nhiên kỳ thú
nhƣ cỏ cây hoa lá, nhƣ núi cả sông sâu, nhƣ lũy tre xanh, nhƣ đồng ruộng óng ả
lúa vàng, hòa với tâm tình và lịch sử của dân tộc, quê hƣơng Việt Nam có một
nền văn chƣơng bình dân hay bác học hết sức phong phú đầy nét vẽ chân thành
pha lẫn những điểm tế nhị và sâu sắc. Trong cái tình cảm đa dạng đó của dân tộc,
tình yêu nam nữ đã vƣơn lên nhƣ cánh hoa nở trong vƣờn đời, tạo nên biết bao
câu ca dao tình tứ , bao vần thơ truyền khẩu lãng mạn.


21
1.2.2. Ứng xử về hôn nhân trong văn hóa Việt Nam
Hôn nhân là một trong những việc quan trọng của cuộc đời mỗi con
ngƣời. Hôn nhân tốt đẹp sẽ đem lại hạnh phúc bền vững, cuộc sống gia đình hòa
thuận, êm ấm. Hôn nhân là phƣơng thức để xây dựng, duy trì, củng cố và phát triển
gia đình, nó vừa liên quan chặt chẽ tới toàn bộ hệ thống xã hội, ảnh hƣởng trực tiếp

thƣờng xuyên đến cuộc sống của mỗi cá nhân, vừa là biểu hiện sinh động sắc thái
của văn hóa tộc ngƣời. Vì vậy, hôn nhân không chỉ là sự thừa nhận tính hợp pháp
của quan hệ giới tính mà còn mang nhiều ý nghĩa văn hóa - xã hội khác.
Trong xã hội truyền thống của ngƣời Việt, hôn nhân là việc của hai bên cha
mẹ, hai họ dựng vợ gả chồng cho con cái. Có thể lý giải rằng tục lệ này xuất phát từ
quyền lợi tập thể, mà trƣớc hết là quyền lợi của gia tộc, rồi tới đáp ứng các quyền
lợi làng xã. “Nhìn chung, lịch sử truyền thống hôn nhân của Việt Nam luôn là lịch
sử hôn nhân vì lợi ích của tập thể, của cộng đồng: Từ những cuộc hôn nhân nổi
danh như Mỵ Châu với Trọng thủy, công chúa Huyền Trân với vua Chăm Chế
Mân, công chúa Ngọc hân với Nguyễn Huệ…, rồi vô số những cuộc hôn nhân của
các con vua cháu chúa qua các triều đại được triều đình gả bán cho tù trưởng các
miền biên ải nhằm củng cố đường biên giới quốc gia; cho đến tuyệt đại bộ phận
các cuộc hôn nhân vô danh của thường dân – tất cả đều là làm theo ý nguyện của
các tập thể cộng đồng lớn nhỏ, lớn là quốc gia, nhỏ là gia tộc” [60, tr. 256 – 259].
Đối với tộc ngƣời Việt việc duy trì dòng dõi là hết sức quan trong, nên khi xem xét
đến con ngƣời trong hôn nhân, trƣớc hết ngƣời ta quan tâm đến khả năng sinh sản
của ngƣời con gái. Vì vậy, kén dâu, lấy vợ thì phải chọn:
“Đàn bà đáy thắt lưng ong
Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con”.


22
Ngƣời vợ còn phải đảm đang tháo vát, đem lại nguồn lợi vật chất cho nhà chồng, còn
ngƣời chồng phải là ngƣời tài ba để đem lại vinh quang (nguồn lợi tinh thần) cho gia
đình vợ , nên:
“Trai khôn kén vợ chợ đông
Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân”.
Đôi khi do sự chi phối của chế độ gia trƣởng phụ quyền, bố mẹ chọn vợ, chọn
chồng cho con lại quan tâm nhiều đến lợi ích kinh tế và địa vị xã hội (môn đăng, hộ
đối).

Trong xã hội ngƣời Việt cổ truyền khá phổ biến hiện tƣợng ép duyên, xuất
phát từ quan điểm hôn nhân vị mƣu sinh. Mặt khác, cũng có quan điểm hôn nhân vị
tình cảm. Có lẽ đây mới là quan điểm chủ đạo, phù hợp với truyền thống trọng tình
của ngƣời Việt. Vì vậy, ép duyên là cách ứng xử có tồn tại trong xã hội song không
đƣợc coi nhƣ một giá trị văn hóa, mà là một hiện tƣợng cần phê phán. Từ những
nhận xét trên ta thấy cách ứng xử bị ảnh hƣởng tƣ tƣởng Nho giáo với những quan
điểm "môn đăng hộ đối", "lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống" tuy có tồn tại
trong xã hội Việt Nam, song nó không bắt rễ sâu chắc nhƣ quan niệm bản địa vốn
trọng tình. Còn trong cuộc sống gia đình, ứng xử trong gia đình ngƣời Việt đƣợc
dựa trên nền tảng tình cảm hết sức vững chắc, tốt đẹp: vợ chồng đầu gối tay ấp. Mối
quan hệ đó thật bền chặt, gắn bó, thiêng liêng và sâu sắc.
Quan hệ vợ chồng là quan hệ gắn bó từ hai phía, phụ thuộc từ hai phía, vì
nhau và luôn cậy nhờ lẫn nhau. “Đạo vợ chồng cư xử với nhau, trọng nhất là hai
chữ hòa thuận […] có hòa thuận với nhau thì việc khó đến đâu cũng làm nên được.
Người chồng trọng nhất là phải giữ nghĩa với vợ, mà vợ thì phải giữ tiết với
chồng”. [4, tr.84]. Xuất phát từ quan điểm gắn bó và bình đẳng này, ngƣời phụ nữ
trong gia đình truyền thống ngƣời Việt có vai trò rất đặc biệt. Của cải trong gia đình


23
là của chung: của chồng, công vợ; mọi việc trong gia đình phải: thuận vợ, thuận
chồng. Ngƣời đàn bà là tay hòm chìa khóa và còn đóng vai trò quan trọng trong sự
nghiệp của chồng: “Người vợ trên phải phụng dưỡng cha mẹ chồng, có khi phải
nuôi cả chồng; giữa thì giúp chồng lo lắng công kia việc khác, gánh vác giang sơn
nhà cho chồng; dưới thì săn sóc nuôi con, thế mới là nội trợ”. [4, tr.85].
Nhƣ vậy, ngƣời vợ trong gia đình có vị trí đƣợc tôn trọng, bình đẳng với
ngƣời chồng. Mặt khác, trong cuộc sống gia đình, phƣơng châm ứng xử của ngƣời
vợ cũng lại rất khéo léo theo kiểu “lạt mềm buộc chặt”. Đây thực sự là một phƣơng
châm ứng xử tuyệt vời của những ngƣời vợ Việt Nam, xuất phát từ đặc trƣng trọng
hòa hiếu, trọng cuộc sống cộng đồng. Theo truyền thống này, con ngƣời luôn muốn

hòa hợp, thích nghi với nhau để cùng chung sống. Nếu không có cách ứng xử mềm
mại, hợp lý thì làm sao có đƣợc gia đình êm ấm và hạnh phúc đƣợc? Sự nhún
nhƣờng trong ứng xử của ngƣời vợ không phải là sự hạ thấp phẩm giá của ngƣời
phụ nữ, mà là một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của ngƣời Việt.
- Có con phải lụy vì con,
Có chồng phải gánh giang san nhà chồng.
- Chồng tôi áo rách tôi thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.
Những phân tích trên đây cho thấy một điều khá thú vị, mặc dù đã từng là tƣ
tƣởng của ngƣời Việt trong nhiều thế kỷ, song Nho giáo dƣờng nhƣ không bắt rễ
sâu vào tầng lớp bình dân, ít nhất cũng trong quan hệ hôn nhân. Mối quan hệ bình
đẳng dựa trên cơ sở tình cảm gắn bó, quan tâm lẫn nhau nhƣ ta thấy ở trên thật khác
xa với gia đình gia trƣởng của Nho giáo, trong đó vai trò của ngƣời vợ hoàn toàn là
phụ thuộc và thụ động. Hiện tƣợng này có thể lý giải đƣợc nếu nhƣ xem xét hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam.


24
- Thứ nhất, Nho giáo thâm nhập vào Việt Nam trong điều kiện xã hội Việt
Nam có nhiều nét khác biệt với xã hội Trung Quốc.
- Thứ hai, với nền sản xuất tiểu nông: Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa , vai
trò của ngƣời vợ bình đẳng với ngƣời chồng là hoàn toàn dễ hiểu. Mặt khác, ngƣời
vợ còn là ngƣời quản lý gia đình, chăm sóc con cái, gia súc, trong khi ngƣời chồng
làm các công việc đồng áng khác. Đây là cách phân công lao động phù hợp và hiệu
quả đối với nền sản xuất tiểu nông, là cơ sở để phát sinh truyền thống trọng phụ nữ
của ngƣời Việt. Truyền thống này lại đƣợc bảo lƣu trong môi trƣờng khép kín của
làng quê với lối ứng xử theo kiểu: Phép vua thua lệ làng. Do đó, Nho giáo có thể
thâm nhập vào bề nổi của cuộc sống thông qua các cấp quản lý hành chính, chứ
không bắt rễ sâu vào tâm thức dân gian.
Tóm lại, ứng xử trong hôn nhân của ngƣời Việt có những nét bản sắc trong

văn hóa. Đó là cách lựa chọn đối tƣợng hôn nhân tƣơng hợp dựa trên nhân cách và
tình cảm, là mối quan hệ gia đình bình đẳng, gắn bó giữa chồng và vợ, là vai trò của
ngƣời phụ nữ đƣợc tôn trọng với những cách ứng xử nhằm bảo đảm sự hòa thuận
êm ấm trong gia đình Đó chính là tinh hoa trong đạo lý sống của ngƣời Việt đƣợc
bảo lƣu qua nhiều thế hệ nhƣ những giá trị trƣờng tồn và mang đậm bản sắc của dân
tộc Việt.
1.3. Văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao từ góc nhìn thể
loại
Ca dao là một thể loại trữ tình của văn học dân gian, là cả một thế giới
muôn màu muôn vẻ, đem đến cho ngƣời dân xƣa và cho chúng ta ngày nay biết
bao tri thức, biết bao bài học trong lao động sản xuất, trong ứng xử, củng cố cho
con ngƣời niềm tin vào điểu thiện, khơi dậy niềm tự hào về quê hƣơng đất nƣớc.


25
Ca dao về tình yêu và hôn nhân trƣớc hết là những sáng tác của những
ngƣời lao động. Tất nhiên đây không phải thơ ca lao động vì nhịp điệu, tiết tấu
của nó không phụ thuộc vào động tác lao động, song nó lại ra đời trên cơ sở lao
động, gắn liền với môi trƣờng sinh hoạt lao động của nhân dân. Điều này cũng
tƣơng đồng với các sáng tác dân gian khác nhƣ truyện nôm bình dân, chèo cổ…
Tuy nhiên, cách ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao khác với cách ứng
xử trong chèo cổ và truyện nôm cũng về lĩnh vực này.
Trƣớc hết là cách ứng xử trong chèo cổ. Với khuôn khổ luận văn, chúng
tôi chỉ khảo sát cách ứng xử của các nhân vật nữ để đƣa ra sự so sánh. Các nhà
nghiên cứu ta đã chia nhân vật nữ trong chèo cổ ra làm hai nhóm cơ bản: nhóm
nữ thuận (nữ chín) và nhóm nữ nghịch (nữ lệch).
Nhóm nữ thuận – là những ngƣời phụ nữ tuân theo mọi quy định của lễ
giáo phong kiến : tứ đức, tam tòng, đảm đang, nết na, chung thủy Họ là tấm
gƣơng trong sáng cho mọi ngƣời soi vào học tập, noi theo. Đó là Trinh Nguyên
trong vở Tôn Mạnh – Tôn Trọng, một ngƣời phụ nữ trẻ đẹp, nết na, đã tình

nguyện chọn đứa con trai mình dứt ruột đẻ ra để chết thay con chồng, góp phần
phủ định quan niệm sai về ngƣời phụ nữ Việt Nam dƣới thời phong kiến về mối
quan hệ mẹ ghẻ con chồng. Đó là Thị Phƣơng trong vở Trương Viên, 18 năm vất
vả, vẫn một lòng thủy chung với chồng nơi xa, vẫn thành tâm nuôi mẹ chồng hết
mực, góp phần phủ định quan niệm sai về quan hệ mẹ chồng nàng dâu dƣới thời
phong kiến. Đó là Châu Long trong vở Lưu Bình – Dương Lễ đi nuôi bạn thay
chồng nhƣng vẫn giữ đƣợc đạo vợ chồng thủy chung, nghĩa bạn bè trong sáng, là
hình mẫu cao đẹp để phủ định quan niệm sai lầm dƣới thời phong kiến là: “Lửa
gần rơm lâu ngày cũng bén”. Đó là Thị Kính trong vở Quan Âm Thị Kính chịu
oan khuất giết chồng, tằng tịu với ả Thị Màu để có con.

×