Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VỚI CỬ TRI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.62 KB, 12 trang )


ĐỀ MỤC Trang
A. LỜI NÓI ĐẦU. 1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. CƠ SỞ PHÁP LÝ
2
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VỚI CỬ TRI 3
1, Hoạt động bầu, bãi nhiệm ĐBQH
2, Hoạt động giám sát
III. THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
VỚI CỬ TRI
4
1, Về hình thức tiếp xúc CT
2, Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức đơn vị trong việc thúc đẩy mối
quan hệ giữa ĐBQH với CT
3, Giải quyết ý kiến, kiến nghị của CT
4, Mối quan hệ của ĐBQH kiêm nhiệm với CT
5, Mối quan hệ của ĐBQH chuyên trách với CT
IV. PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT 8
• Thực hiện tốt các quy định về hình thức tiếp xúc CT và đổi mới
hình thức tiếp xúc CT
• Cần giao “Thực quyền” cho ĐBQH, Tăng cường số lượng
ĐBQH chuyên trách
• Đổi mới kỹ năng tiếp xúc CT, nêu cao tinh thần trách nhiệm của
ĐBQH với CT
• Đẩy mạnh công tác giải quyết ý kiến, kiến nghị của CT
C. KẾT LUẬN 10
A. LỜI MỞ ĐẦU: Trong bộ máy Nhà nước ta, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt
quan trọng. Mối quan hệ máu thịt giữa Quốc hội với nhân dân là điều kiện quan
trọng để Quốc hội có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình. Mối quan hệ đó ngày
càng gắn bó khăng khít hơn bởi những quy định trong tổ chức, phương thức hoạt


động của Quốc hội, chức năng, quyền hạn của Quốc hội, hoạt động tiếp xúc CT
và trong quá trình bầu cử, giám sát của CT đối với ĐBQH. Trong đó, mối quan
hệ giữa ĐBQH với CT là cầu nối quan trọng gắn kết Quốc hội với nhân dân.
ĐBQH là người do nhân dân trực tiếp bầu ra, là người đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
trong Quốc hội. Chính vì vậy, khi đề cập mối quan hệ giữa ĐBQH với CT trước
hết chúng ta phải xác định mối quan hệ hữu cơ, biện chứng giữa hai chủ thể này.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. CƠ SỞ PHÁP LÝ
Điều 97 của hiến pháp năm 1992 quy định: “Đại biểu Quốc hội là người đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở
đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước.
Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri;
thu thập và phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và
các cơ quan Nhà nước hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri
về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị của
cử tri; xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó.
Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp, luật và
nghị quyết của Quốc hội”.
Như vậy, việc giữ mối liên hệ chặt chẽ với CT không chỉ đơn thuần là hoạt
động nhằm tiếp thu, phản ánh ý kiến của CT tới Quốc hội giúp đại biểu hoàn
thành công việc mà còn là nhiệm vụ, là trách nhiệm tiên quyết của người đại
diện nhân dân, đó cũng chính là cầu nối, là mạch máu quan trọng gắn kết nhân
dân với Quốc hội, với Nhà nước.
Điều 51, Luật tổ chức Quốc hội đã quy định: “Đại biểu Quốc hội phải
liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với
Hiến pháp
2
cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý

kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội và cơ quan nhà nước hữu quan.
Mỗi năm ít nhất một lần đại biểu Quốc hội phải báo cáo trước cử tri về việc thực
hiện nhiệm vụ đại biểu của mình. Cử tri có thể trực tiếp hoặc thông qua Mặt trận
Tổ quốc yêu cầu đại biểu báo cáo công tác và có thể nhận xét đối với việc thực
hiện nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội”.
Như vậy, Luật tổ chức Quốc hội đã phát triển mối quan hệ giữa ĐBQH với
CT nhưng cũng phải thường xuyên TXCT. Ngoài ra, “mỗi năm ít nhất 1 lần Đại
biểu phải báo cáo trước CT về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình. CT có
thể trực tiếp hoặc thông qua MTTQ yêu cầu đại biểu báo cáo công tác, có thể
nhận xét đối với việc thực hiện nhiệm vụ của ĐBQH”. Điều 12, quy chế hoạt
động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH quy định “ĐBQH có trách nhiệm TXCT theo
chương trình TXCT của đoàn ĐBQH. Trong trường hợp không thể tham gia
TXCT thì ĐBQH báo cáo với trưởng đoàn ĐBQH. ĐBQH có thể TXCT nơi cư
trú, nơi làm việc. ĐBQH liên hệ với UBMTTQ địa phương nơi cư trú hoặc ban
chấp hành công đoàn nơi làm việc để tổ chức cho đại biểu tiếp xúc CT”.Để hoạt
động TXCT trở thành hoạt động thường xuyên đi vào thực chất và đa dạng các
hình thức tiếp xúc, ngày 10/9/2004 UBTVQH phối hợp với đoàn chủ tịch
UBTWMTTQVN có nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH 11-
ĐCTUBTWMTTQVN ban hành hướng dẫn về việc ĐBQH TXCT, trong đó quy
định: “ Ngoài những đợt TXCT theo định kỳ trước và sau kỳ họp Quốc hội,
ĐBQH cần TXCT cả ở nơi cư trú và nơi làm việc, TXCT theo các chuyên đề các
lĩnh vực mà ĐBQH quan tâm hoặc trực tiếp gặp gỡ, tiếp xúc với CT”. Qua các
quy định của Hiến pháp, luật và các văn bản liên quan đến mối quan hệ giữa
ĐBQH với CT là hoạt động TXCT của ĐBQH
Như vậy, mối quan hệ giữa ĐBQH với CT là mối quan hệ khăng khít, xuất
phát từ bản chất Nhà nước tự nhiên mang tính khách quan, mà cụ thể là Quốc
hội – cơ quan đại diện cao nhất.của nhân dân.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VỚI CỬ TRI
Hiến pháp
3

Mối quan hệ giữa ĐBQH với CT là mối quan hệ đặc biệt giữa một bên là
CT - người đi bầu, cũng chính là người có quyền đối với bên kia là ĐBQH -
người được bầu, là người có nghĩa vụ với sự lựa chọn của CT. Mối quan hệ đó
được xem xét ở những khía cạnh sau:
1. Hoạt động bầu, bãi nhiệm ĐBQH
Mối quan hệ giữa ĐBQH với CT mỗi nhiệm kỳ được đánh dấu bằng cuộc
tổng tuyển cử trong cả nước, mà qua đó CT trực tiếp bầu ra người đại diện cho
mình tại cơ quan quyền lực cao nhất của Quốc hội. Như vậy, khởi đầu mối quan
hệ giữa CT và ĐBQH chính là việc CT trực tiếp lựa chọn nên đại biểu của mình.
Việc bầu cử của nước ta hiện nay dựa trên một số nguyên tắc cơ bản như nguyên
tắc bầu cử trực tiếp, nguyên tắc bầu cử phổ thông, bình đẳng…. Điều 1, Luật
bầu cử đại biểu quốc hội: “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và
bỏ phiếu kín”. Việc lựa chọn của CT có ý nghĩa hết sức quan trọng trước hết nó
quyết định ai sẽ thay mặt CT nói lên tiếng nói của mình tại quốc hội cũng chính
là xác định chủ thể bên kia của mối quan hệ CT – ĐBQH. CT có quyền bầu ra
ĐBQH, trong trường hợp nhận thấy đại biểu không con xứng đáng với sự tín
nhiệm của mình, thì nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu đó. Tại Điều 7 hiến
pháp 1992: “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân tiến
hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân
dân bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng
đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”.
Điều 56, Luật tổ chức quốc hội: “Đại biểu Quốc hội không còn xứng đáng
với sự tín nhiệm của nhân dân thì tùy mức độ phạm sai lầm mà bị Quốc hội
hoặc cử tri bãi nhiệm.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc đưa ra Quốc hội bãi nhiệm hoặc
cử tri nơi bầu ra đại biểu bãi nhiệm đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Ủy
Hiến pháp
4

ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương hoặc của cử tri nơi bầu ra đại biểu Quốc
hội đó.
Trong trường hợp Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội thì việc bãi nhiệm
phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán
thành.
Trong trường hợp cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội thì việc bãi nhiệm được tiến hành
theo thể thức do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định”.
Đây là quy định hết sức tiến bộ khiến cho người đại biểu có trách nhiệm
với việc làm của mình hơn để phục vụ lợi ích của nhân dân.
2. Hoạt động giám sát
Để có thể nâng cao chất lượng ĐBQH và vị thế của CT thì hình thức thực
hiện chức năng giám sát quan trọng của CT là trong các cuộc TXCT của ĐBQH.
Qua đó, ĐBQH có trách nhiệm lắng nghe, tiếp thu ý kiến, kiến nghị của CT để
phán ánh với Quốc hội và để nắm thông tin phục vụ cho hoạt động đại biểu của
mình. Ngoài ra, còn một số hoạt động khác như mỗi năm ít nhất một lần ĐBQH
phải báo cáo trước CT về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình, giải đáp
thắc mắc của CT, phối hợp với các cơ quan hữu quan để giải quyết đơn, thư
khiếu nại, tố cáo của công dân TXCT nơi công tác, nơi sinh sống, khảo sát thực
địa, thị sát, họp đại diện của hộ dân một khu vực dân cư; qua các phương tiện
thông tin đại chúng, liên hệ với CT qua trang web…Để nâng cao hoạt động
giám sát thì ngày 23/3/2010, trang web: hoidap.quochoi.vn của Quốc hội đã
chính thức được giới thiệu, mở ra một kênh giao lưu kĩ thuật số chính thức tại
Việt Nam, kết nối CT với các ĐBQH. Thông qua trang này, các câu hỏi có thể
được trả lời ngay hoặc trả lời theo một ngày cố định được đặt ra.
Điều 52, Luật tổ chức Quốc hội: “Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tiếp công
dân. Khi nhận được kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, đại biểu Quốc hội
có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết
Hiến pháp
5

×