Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 116 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





CHU THỊ HỒNG VÂN




BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY
VÀ ĐỒNG ĐỨC BỐN





LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC





Hà Nội - 2014

2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




CHU THỊ HỒNG VÂN



BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY
VÀ ĐỒNG ĐỨC BỐN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21


LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Mai Hƣơng




Hà Nội - 2014

3
LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan rằng đề tài Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy và
Đồng Đức Bốn là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Tất cả các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Mọi tài liệu tham khảo,
trích dẫn khoa học đều có nội dung chính xác. Các kết luận khoa học chưa
công bố ở bất kì công trình nghiên cứu nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2014
Học viên


Chu Thị Hồng Vân

4
LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận văn này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc tới PGS. TS. Mai Hương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Ban giám hiệu, phòng
Đào tạo sau đại học, các quý thầy cô đã tận tình chỉ bảo và dạy dỗ, truyền đạt
kiến thức, kinh nghiệm cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới gia đình, người thân,
bạn bè đã luôn bên cạnh khuyến khích, động viên giúp tôi vượt qua những
khó khăn để hoàn thành khóa học của mình.
Xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2014




Chu Thị Hồng Vân

5
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 5
1. Lí do lựa chọn đề tài 5
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 7
3. Phương pháp nghiên cứu 17
4. Phạm vi nghiên cứu 17
5. Đóng góp của luận văn 18
6. Cấu trúc của luận văn 18
PHẦN NỘI DUNG 20
Chƣơng 1: VỀ KHÁI NIỆM BẢN SẮC DÂN TỘC VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN DUY, ĐỒNG ĐỨC BỐN 20
1.1. Về khái niệm bản sắc dân tộc 20
1.2. Hành trình thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn 25
1.2.1. Thơ Nguyễn Duy 26
1.2.2. Thơ Đồng Đức Bốn 35
Chƣơng 2: BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY, ĐỒNG
ĐỨC BỐN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NỘI DUNG CẢM HỨNG 45
2.1. Quê hương, đất nước 45
2.1.1. Quê hương, đất nước trong thơ ca Việt Nam 45
2.1.2. Quê hương đất nước trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn 48
2.2. Bản sắc của con người 62
2.2.1. Về những người thân trong gia đình 66
2.2.2. Về những chàng trai nơi thôn dã 73
2.2.3. Về những cô gái quê, cô thôn nữ 77


6
Chƣơng 3: BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY, ĐỒNG
ĐỨC BỐN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN 83
3.1. Vận dụng sáng tạo thể thơ lục bát truyền thống 83
3.2. Khai thác và vận dụng hình ảnh của thơ truyền thống 87
3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu 96
3.3.1. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn 96
3.3.2. Giọng điệu thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn 102
PHẦN KẾT LUẬN 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO 111

5
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do lựa chọn đề tài
1.1. Công cuộc đổi mới được khởi xướng vào năm 1986 là một sự kiện
trọng đại tạo nên những chuyển đổi cơ bản trong đời sống xã hội Việt Nam.
Trong không khí đổi mới, dân chủ, văn nghệ đã được “cởi trói”, văn nghệ sĩ
có thể “nói thẳng”, “nói thật” về nhiều vấn đề của đời sống xã hội và con
người. Theo đó, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ cũng được giải phóng triệt
để hơn. Cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và giới văn nghệ sĩ
cả nước vào tháng 10 năm 1987 đã tác động rất lớn đến tinh thần của những
người cầm bút, nhất là ý thức tự “cởi trói” trong lĩnh vực sáng tạo. Điều đó
dẫn tới sự thay đổi sâu sắc về tư duy nghệ thuật giai đoạn này. Từ chỗ là
những nghệ sĩ ngợi ca đất nước và nhân dân bằng cái nhìn sử thi và cảm hứng
lãng mạn, giờ đây các nhà thơ chuyển từ “bè cao” sang “giọng trầm”. Cái
nhìn sử thi dần phai nhạt thay vào đó là cái nhìn mang đậm chất đời tư thế sự.
Đây là yếu tố hết sức quan trọng khiến cho nghệ thuật giai đoạn này thể hiện
tinh thần dân chủ hóa sâu sắc. Cảm hứng nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá

nhân đã trở thành nền tảng và cảm hứng chủ đạo của văn học và thơ ca sau
1975. Nhà thơ không còn bị vướng bận với những kiểu hiện thực chủ yếu và
hiện thực thứ yếu, không bị bó buộc trong những khung tư tưởng định sẵn mà
cố gắng thể hiện tính đa chiều của hiện thực đời sống và con người.
1.2. Tư duy thơ thay đổi, quan niệm thơ thay đổi kéo theo một hệ quả
tất yếu là sự đổi mới toàn diện và sâu sắc của thơ. Theo đó, những khuynh
hướng mới trong thơ cũng như sự đa dạng trong phong cách sáng tạo của các
nhà thơ được phát triển. Khảo sát qua thơ Việt Nam sau 1975, chúng tôi nhận
thấy, thơ có những khuynh hướng tìm tòi, đổi mới phương thức thể hiện đa
dạng. Trong đó có thể thấy, khuynh hướng trở về tiếp thu, sáng tạo truyền
thống, hiện đại hóa trên cơ sở tiếp

6
thu truyền thống là một trong những khuynh hướng tìm tòi khá đậm, khá
thành công của thơ đương đại.
1.3. Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn là những cây bút tiêu biểu của
thơ Việt Nam hiện đại. Xuất hiện và trưởng thành trong phong trào thơ
chống Mỹ, Nguyễn Duy đã sớm tạo được phong cách riêng độc đáo và
ngày càng thu hút được sự mến mộ của công chúng. Đến với thơ muộn hơn
và đời thơ cũng ngắn ngủi, nhưng với “giọng” riêng không lẫn, thơ Đồng
Đức Bốn cũng đã tạo được dấu ấn riêng trong thơ Việt đương đại. Mỗi
người một vẻ nhưng một trong những điểm gặp gỡ và góp phần không nhỏ
tạo nên nét riêng, thành công riêng cho cả hai cây bút là sự tiếp thu sáng
tạo, hiệu quả thơ truyền thống - đổi mới trên cơ sở tiếp thu truyền thống
thơ dân tộc. Có thể nói các nhà thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn cùng
nhiều cây bút khác đã khẳng định một trong những hướng tìm tòi đổi mới
giàu hiệu quả của thơ đương đại Việt Nam.
1.4. Tuy nhiên, qua khảo sát của chúng tôi, cho đến nay vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, thấu đáo về vấn đề bản sắc dân
tộc trong thơ đương đại nói chung và hai cây bút Nguyễn Duy, Đồng Đức

Bốn nói riêng. Các công trình, bài viết mới chỉ dừng lại ở một vài khía cạnh
riêng biệt ở một tác giả hay cụm tác phẩm. Từ những lí do đó, người viết đã
lựa chọn nghiên cứu đề tài: Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy và Đồng
Đức Bốn. Từ đó, nhằm khẳng định một trong những nét độc đáo trong phong
cách sáng tạo và đóng góp của hai cây bút Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn góp
phần tạo nên diện mạo mới của thơ Việt Nam đương đại. Ở một phạm vi nhất
định, luận văn cũng góp phần vào việc tổng kết, đánh giá tiến trình vận động,
đổi mới của thơ đương đại Việt Nam.


7
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Lịch sử nghiên cứu chung về bản sắc dân tộc trong thơ Việt
Nam hiện đại
Qua tìm hiểu nghiên cứu, có thể thấy vấn đề bản sắc dân tộc không chỉ
đến nay mới được đem ra bàn bạc, mà ở mỗi thời đại khác nhau, quá trình này
diễn ra với mức độ và quy mô khác nhau. Chúng tôi xin được điểm qua một
số công trình, bài viết tiêu biểu để thấy được tính hệ thống trong vấn đề mình
đang nghiên cứu.
Tác giả Nguyễn Hữu Quýnh với bài Hai xu hướng thơ hiện nay đã chỉ
ra sự khác biệt giữa cái mới của những thế hệ cầm bút trên thi đàn Việt Nam
sau 1946. Tác giả bày tỏ thái độ trước những yêu cầu cách tân thơ hiện nay là:
Để có một nền thơ thuần hậu, nhân văn, trong sáng và đa dạng cần đối xử
công bằng với mọi nhà thơ. Đừng vì nhân danh đổi mới, hiện đại hay truyền
thống mà bên trọng bên khinh. Hãy để cho các khuynh hướng thơ được bình
đẳng tồn tại với nhau, đừng dạy dỗ, đừng áp đặt, đừng khắt khe và cũng đừng
ôm ấp chiều chuộng thái quá ai cả. Tự thơ nói lên tất cả. Tự bạn đọc bầu chọn
nhà thơ của họ. Tự cuộc sống lâu dài định danh cho thơ. Tóm lại cứ để cho
thơ phát triển tự nhiên vì nó là thơ. Tuy nhiên, tác giả chỉ dừng lại nhìn nhận
một cách khái quát về xu hướng thơ hiện nay mà không đi vào nghiên cứu

một tác giả, tác phẩm cụ thể nào.
Phạm Vĩnh trong bài Tính dân tộc trong thơ Việt Nam: vĩnh cửu và
luôn luôn biến đổi đã nghiên cứu tính dân tộc trong thơ Việt Nam trong suốt
chiều dài phát triển lịch sử thơ ca, để khẳng định: Người sáng tạo càng sâu
sắc, độc đáo bao nhiêu thì càng đạt tính dân tộc, tính nhân loại ở độ cao bấy
nhiêu. Đồng thời tác giả khẳng định, tính dân tộc phải có xu thế mở, tức là nói
đến tính dân tộc không có nghĩa là nói đến một giá trị bất biến, khuôn khổ và
cứng nhắc mà phải luôn kế thừa và sáng tạo tiếp.

8
Tác giả Trần Sáng với bài Thử tìm hiểu tính dân tộc trong thơ hôm nay
đã ngợi ca cái mượt mà đằm thắm, cái chia sẻ, thấu hiểu mà thơ dân tộc đã có
được. Những gì mang tính dân tộc trong thơ hôm nay “Đó là những lời từ trái
tim, là chủ nghĩa nhân đạo cao cả của người Việt cũng là cái đích hướng đến
của nhân loại. Những vần thơ đó đã chinh phục trái tim nhân loại trong khi
nhà thơ vẫn đứng vững hai chân trên mảnh đất dân tộc mình”.
Ngoài những bài nghiên cứu trên, chúng tôi thấy đã có những bài
nghiên cứu chung về thơ của các tác giả Trần Đình Sử, Mã Giang Lân, Lý
Hoài Thu, Nguyễn Văn Long, Mai Hương, Bích Thu trong đó ít nhiều đã đề
cập đến yếu tố dân gian, chất dân gian trong thơ đương đại. Tuy nhiên, những
công trình nghiên cứu này mới chỉ tập trung vào vấn đề chung của thơ đương
đại, chưa có điều kiện đi sâu vào bản sắc dân tộc trong thơ đương đại, đặc biệt
của hai cây bút Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn.
2.2. Lịch sử nghiên cứu về bản sắc dân tộc trong thơ của Nguyễn
Duy và Đồng Đức Bốn.
2.2.1. Các công trình nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy
Nguyễn Duy xuất hiện trên thi đàn và mang đến một tiếng nói riêng
đầy bản sắc, thu hút sự chú ý của nhiều độc giả. Đã có khá nhiều bài viết
đánh giá, thẩm bình về thơ ông. Mỗi công trình nhìn nhận thơ Nguyễn Duy
từ một phương diện khác nhau, một khía cạnh nào đó trong đời thơ của

ông. Để thấy rõ hơn quá trình thẩm bình đánh giá đó, luận văn chủ yếu đi
vào khảo sát các công trình nghiên cứu liên quan tới bản sắc dân tộc trong
thơ Nguyễn Duy.
Ngay từ những sáng tác đầu tay, nhất là sau giải thưởng cuộc thi thơ
của tuần báo Văn nghệ 1973, Nguyễn Duy đã nhanh chóng thu hút được sự
mến mộ của đông đảo công chúng và gây được sự chú ý của các nhà nghiên
cứu, phê bình. Trước hết phải kể đến ý kiến của Hoài Thanh về thơ Nguyễn
Duy trong bài viết Đọc một số bài thơ của Nguyễn Duy [48] :…“đọc thơ

9
Nguyễn Duy thấy anh thường hay cảm xúc với những chuyện lớn, chuyện nhỏ
quanh mình. Cái điều ở người khác có thể chỉ là chuyện thoảng qua thì ở anh
nó lắng sâu và dường như dừng lại”. Những nhận xét của Hoài Thanh đã
giúp chúng ta thấy được điểm riêng trong sáng tác của Nguyễn Duy. Bằng
cảm nhận tinh tế, sắc sảo, ông đã nhận ra vị quê mùa đằm thắm, chân chất
trong thơ Nguyễn Duy, “quen thuộc mà không nhàm”, là “khúc dân ca” vùng
“đồng bằng miền Bắc đã cùng anh đi vào giữa đỉnh Trường Sơn”. Chất thơ đó
“nhẹ nhàng hiền hậu”, “rất Việt Nam mà chúng ta vẫn giữ nguyên trong thử
lửa”. Bài viết đã đề cập đến tư duy thơ của Nguyễn Duy, đó là sự kết hợp của
cảm xúc, tình thơ với ý thơ và sự suy ngẫm.
Nhà phê bình Hà Minh Đức trong bài Về một số cây bút trẻ gần đây
trong quân đội [20] đã viết về triết lí dân gian trong thơ Nguyễn Duy: “Thơ
Nguyễn Duy mang nhiều màu sắc dân gian. Cách suy nghĩ và cảm xúc trên
trực tiếp hay gián tiếp đều nằm trong mạch suy nghĩ quen thuộc của dân gian
và tự nhiên là anh phải tìm đến một lối phô diễn, một giọng điệu thơ thích
hợp”, “anh chú ý nhiều đến thể lục bát, đến sự mềm mại, nhịp nhàng của các
làn điệu dân ca”. Cũng bàn về thơ lục bát, Lê Quang Trang nhận ra đây là thế
mạnh của Nguyễn Duy “anh vốn là người sở trường về sử dụng thơ lục bát –
một thể thơ có phần tĩnh và biến hóa không nhiều” [49].
Năm 1984, khi tập thơ Ánh trăng đoạt giải thưởng của Hội nhà văn

Việt Nam (công bố 1986), Nguyễn Duy được người đọc biết đến nhiều qua
hàng loạt bài viết của các tác giả: Từ Sơn, Tế Hanh, Lại Nguyên Ân, Nguyễn
Hữu Sơn, Ngô Vĩnh Bình, Lê Giang, Lê Quang Hưng, Nguyễn Quang
Sáng… Những cây bút này đã có nhiều phát hiện mới mẻ, xác đáng về thơ
Nguyễn Duy trong đó có đề cập tính dân gian ẩn chứa trong thơ Nguyễn Duy.
Nhà thơ Tế Hanh với tâm hồn nhạy cảm luôn gắn bó với quê hương đã cảm
nhận sâu sắc về hồn quê, tình quê trong thơ Nguyễn Duy: “Một điểm đáng

10
chú ý nữa là thơ Nguyễn Duy nói về ruộng đồng dù đó là Thanh Hóa quê anh
hay Cà Mau quê bạn, có cái gì đó rất tha thiết” [24].
Lê Quang Hưng với bài Thơ Nguyễn Duy và Ánh trăng [25] đăng trên
Tạp chí văn học số 3 năm 1986 có nhận định: “Những bài thơ trong Ánh trăng
thật đậm đà tính ca dao, nhiều đoạn thơ nhuần nhụy ngọt ngào khiến cho
người ta khó phân biệt được đâu là ca dao đâu là thơ…”. Ông cũng đã tìm ra
cái đặc sắc riêng của tập thơ Ánh trăng trong đó chúng ta thấy cái bóng dáng
của tính triết lí qua sự chiêm nghiệm suy tư của Nguyễn Duy về cuộc sống:
“Với Cát trắng, người đọc thích một tâm hồn cảm nhận được ý nghĩa và bề
sâu của cuộc sống từ sự vật, sự việc có vẻ bình thường. Giờ đây, Nguyễn Duy
vẫn nhạy cảm, giàu suy tư như thế và từng trải sâu sắc hơn. Ý nghĩa phổ quát,
sự suy nghĩ trong thơ Nguyễn Duy thường có điểm tựa từ một âm thanh, một
sự vật đậm tính dân tộc”.
Viết về giọng điệu thơ của Nguyễn Duy, Lại Nguyên Ân trong bài Tìm
giọng mới thích hợp với người của thời đại mình [2] đã làm rõ giọng điệu trữ
tình trong tập thơ Ánh trăng, tác giả đã nêu bật được thành công của Nguyễn
Duy khi “dệt nên những giai điệu trữ tình”. Bên cạnh đó, Lại Nguyên Ân
khẳng định trong thơ lục bát của Nguyễn Duy: “Có cái gì đó bên trong như
cãi lại vẻ êm nhẹ nuột nà của câu hát ru truyền thống”. Chính nhà thơ khi
sáng tác đã “tạo nên cái tiếng cười khúc khích, giọng bông lơn bỡn cợt ngay
giữa dòng trữ tình như là để phá bớt cái vẻ rưng rưng thống thiết cứ dâng

trào…”. Chính giọng điệu trữ tình là yếu tố chủ đạo tạo nên bản sắc dân tộc
độc đáo trong thơ Nguyễn Duy, đặc biệt từ sau năm 1975.
Năm 1987, Nguyễn Quang Sáng trong bài viết Đi tìm tiềm lực trong
thơ Nguyễn Duy [45] cũng đã nhận định: “Nguyễn Duy vốn có ưu thế và trội
hẳn lên trong thể thơ lục bát, loại thơ ngỡ như là dễ làm, ai cũng làm được,
nhưng để đạt tới hay thì khó thay, nếu không nói là khó nhất. Thơ lục bát của
Nguyễn Duy không rơi vào tính trạng quen tay, nó có sự biến đổi, chuyển

11
động trong câu chữ”. Thơ lục bát Nguyễn Duy “đượm tính dân tộc và nhuần
nhuyễn ngôn ngữ dân gian. Lời thơ đơn sơ, gần với khẩu ngữ. Tư duy thơ thì
hiện đại, hình thức thơ thì phảng phất hương vị cổ điển phương Đông…”.
Tác giả Đỗ Ngọc Thạch đi sâu vào hình ảnh Người vợ trong thơ
Nguyễn Duy [50] và thấy rõ “hồn quê” có sức “lay động tận sâu thẳm tâm
linh… đưa ta trở về với bản ngã, với những gì con người nhất”.
Vũ Văn Sỹ trong bài viết Nguyễn Duy – Người thương mến đến tận
cùng chân thật [47] đánh giá: “Cái đáng quý nhất trong thơ Nguyễn Duy là
anh viết về đất nước, về nhân dân, về đồng đội, về những người thân và về
chính mình bằng tấm lòng “thương mến đến tận cùng chân thật” ”. Tác giả
thấy được sự chân thành hết mực của tâm hồn thơ được thể hiện trong thơ lục
bát của Nguyễn Duy đồng thời khẳng định tài năng của ông ở thể loại này.
Phạm Thu Yến nghiên cứu về đặc điểm thơ Nguyễn Duy mà chủ yếu là
trên thể thơ lục bát đã đi sâu vào những biểu hiện trong mối quan hệ giữa ca
dao và thơ hiện đại, cụ thể là tiếng vọng của ca dao trong thơ lục bát Nguyễn
Duy: “Đọc thơ Nguyễn Duy, ta như được gặp một thế giới ca dao sinh động,
phập phồng làm nền cho tiếng đàn độc huyền đầy sáng tạo của hồn thơ thi sĩ”.
Tác giả cũng khẳng định “thể thơ lục bát – thể thơ đặc trưng của dân tộc được
Nguyễn Duy sử dụng nhuần nhụy, giúp tác giả chuyển tải một cách nhẹ
nhàng trong sáng những suy nghĩ và tình cảm sâu sắc của con người. Có lẽ,
những bài thành công nhất của Nguyễn Duy là những bài làm theo thể lục

bát” [55] và thơ Nguyễn Duy rõ ràng là phản ca dao qua việc khai thác các ý
đối lập với những tứ quen thuộc trong ca dao để tạo nên những tứ mới khiến
cho cả ca dao và thơ càng bay bổng hơn.
Chu Văn Sơn trong bài viết Nguyễn Duy – Thi sĩ thảo dân [46] đã có
nhiều khám phá mới mẻ, mang tính hệ thống về thơ Nguyễn Duy. Tác giả đã
đi vào khai thác nhiều khía cạnh trong thơ Nguyễn Duy từ quan niệm nghệ
thuật, quan niệm thẩm mĩ đến cái tôi, thế giới nhân vật và giọng điệu thơ,

12
trong đó có đề cập đến triết lí mang đậm tính nhân sinh “Ta là dân vậy thì ta
tồn tại” của thơ Nguyễn Duy. Tác giả đánh giá “Nguyễn Duy là thi sĩ thảo
dân ngay từ quan niệm nhân sinh và nghệ thuật” và cũng chính quan niệm
nghệ thuật này đã đồng hành cùng Nguyễn Duy suốt con đường sáng tạo
nghệ thuật của ông và càng về sau thì nó càng rõ ràng và sắc nét hơn.
Nguyễn Duy là nhà thơ “ham mê chiêm nghiệm triết lí” nhưng triết lí trong
thơ của Nguyễn Duy là triết lí “thảo dân” nhưng chất “thảo dân” không chỉ
mang tính ý thức xã hội mà đồng thời còn là ý thức thẩm mĩ được chuyển
hóa trong hình tượng cái tôi thi sĩ.
Ngoài ra còn khá nhiều bài viết phân tích, bình giá về các bài thơ của
Nguyễn Duy như: Vũ Quần Phương viết về Hơi ấm ổ rơm, Nguyễn Bùi
Vợi viết về bài thơ Ánh trăng, tác giả Lê Trí Viễn, Chu Huy viết về bài Tre
Việt Nam, Hoàng Nhuận Cầm viết về Tiếc thay áo trắng má hồng, Nhị Hà
viết về bài Xuồng đầy. Bên cạnh đó, còn có nhiều bài viết của các tác giả
Trần Hòa Bình, Trần Đăng Khoa, Văn Giá, Đoàn Minh Tuấn, Nguyễn Thị
Bích Nga Nhìn chung các tác giả đều nhận thấy ở thơ Nguyễn Duy có sự
biến hóa sáng tạo, mang tính trí tuệ. Với sự cách tân linh hoạt, nhuần
nhuyễn giữa lục bát truyền thống và hiện đại cùng với một tâm hồn thơ đầy
cảm xúc, thơ của Nguyễn Duy đã chạm được vào sâu thẳm trái tim người
đọc, đánh thức các giác quan để người đọc có thể thẩm thấu ý nghĩa thơ
ông ở nhiều phương diện.

Bài Tre Việt Nam [53] đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu
văn học. GS. Lê Trí Viễn đã chỉ ra phẩm chất con người Việt Nam thông qua
hình ảnh cây tre, đồng thời thấy được giọng điệu quen thuộc của ca dao dân
gian trong bài thơ: “Người ta gặp ở đây vừa âm hưởng của ca dao – dân ca
ngọt ngào thân mật, vừa vang vọng của thơ ca bác học lắng sâu vào trí tuệ.
Cách tân linh hoạt nhưng lại nhuần nhuyễn cả xưa lẫn nay, cả truyền thống
lẫn hiện đại”. Cũng về bài thơ này, Chu Huy khẳng định “Tre Việt Nam là

13
một trong những bài thơ hay của Nguyễn Duy. Bài thơ dào dạt cảm hứng cấu
tứ sâu sắc, độc đáo kết tinh từ những hình ảnh cuộc sống dân dã đời thường
mà ai đã đọc một lần thì nhớ mãi” [26].
Trần Hòa Bình trong Bình văn ấn tượng với “giai điệu thư thái lâng
lâng” của bài thơ cất lên từ nhịp thơ lục bát thân quen trong bài Tiếng hát mùa
gặt của Nguyễn Duy. Nguyễn Thị Bông lại mang cảm giác xốn xang khi phát
hiện ra Điểm gặp nhau thú vị của Tú Xương với Nguyễn Duy [4] qua hai bài
thơ Thương vợ và Vợ ốm: “hai thi nhân của hai thời đại, một thì ngang
ngạnh… một thì trầm lắng… dịu dàng đằm thắm… lại có những điểm gặp
nhau tuyệt vời”.
Ngoài những bài viết mang tính chất nghiên cứu, phê bình phân tích,
bình giảng về thơ Nguyễn Duy còn có một số khóa luận, luận văn thạc sĩ chọn
thơ Nguyễn Duy làm đề tài nghiên cứu.
2.2.2. Các công trình nghiên cứu về tác giả Đồng Đức Bốn
Cho đến nay, các bài viết về nhà thơ Đồng Đức Bốn chủ yếu tập trung
vào thơ lục bát và xoay quanh một số khía cạnh như: tài năng bẩm sinh của
nhà thơ, nét độc đáo, chất thơ mộc mạc, cá tính nghệ sĩ, giọng điệu hay chất
dân gian. Có thể kể tới một số bài viết tiêu biểu: Đồng Đức Bốn vị cứu tinh
của thơ lục bát (Nguyễn Huy Thiệp), Đồng Đức Bốn – kẻ mượn bút của trời
(Đỗ Minh Tuấn), Múa võ trong không gian hẹp (Lê Quang Trang), Đồng Đức
Bốn – phiêu du vào lục bát (Nguyễn Đăng Điệp), Những câu thơ tình tang

quê mùa (Đoàn Hương), Đọc thơ lục bát của Đồng Đức Bốn (Nguyễn Thị
Anh Thư), Đóng gạch nơi nao? (Phạm Tiến Duật), Nhà thơ Đồng Đức Bốn
nhàu nát và trau chuốt (Trần Huy Quang), Đồng Đức Bốn – tựa bão để sống
làm người (Nguyễn Anh Quân), Đồng Đức Bốn - thi sĩ đồng quê (Băng
Sơn)…
Những bài viết này đã có một số ý kiến đề cập đến chất dân gian, chất
đồng quê của thơ Đồng Đức Bốn, tuy nhiên mới ở mức độ đan xen khi khảo

14
sát thơ lục bát hoặc lướt qua chứ chưa đi sâu vào bản chất vấn đề. Ở phần
này, chúng tôi tập trung vào khảo sát một số bài viết liên quan đến vấn đề bản
sắc dân tộc trong thơ Đồng Đức Bốn.
Trong bài Đồng Đức Bốn - Vị cứu tinh của thơ lục bát, Nguyễn Huy
Thiệp viết: “Đồng Đức Bốn đã từng nhận nhiều giải thưởng trong các cuộc thi
thơ của báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ Quân đội và báo Tiền phong. Anh là
người sở trường làm thơ lục bát. Có lẽ anh là người làm thơ lục bát hay nhất
trong khoảng 50 năm trở lại đây ở nước ta, kể từ khi Nguyễn Bính – một nhà
thơ chân quê đồng thời cũng là một thi sĩ đệ nhất lãng tử giang hồ qua đời”.
Bài viết còn đề cập đến hình ảnh nông thôn trong thơ Đồng Đức Bốn, vẫn là
những thôn Đoài, thôn Đông, vẫn là cái ngậm ngùi của sự nghèo nàn, mất mát
khiến lòng ta nhói đau nhưng trong thơ Đồng Đức Bốn lại mang một màu sắc
khác, tạo nên cái mới lạ, độc đáo riêng biệt, không trộn lẫn của thơ anh.
Nguyễn Huy Thiệp cũng đã nêu lên tính đặc trưng của thơ lục bát là dễ
làm, khó hay. “Có thể nói thơ lục bát là một thể thơ nôm na cổ truyền đặc
trưng Việt Nam. Người Việt Nam vị tình. Thơ lục bát cũng là một thể thơ vị
tình. Nó gần gũi với lối sống, nếp nghĩ của người nông dân Việt Nam thật thà,
chất phác, thơ lục bát rất dễ làm nhưng chính vì thế mà khó hay… Đồng Đức
Bốn là người tự dưng đốn ngộ với thể thơ lục bát”. Như vậy có thể thấy một
số bài viết đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề thể loại và mối liên hệ mật thiết
giữa thơ lục bát Đồng Đức Bốn và dòng thơ lục bát truyền thống.

Đỗ Minh Tuấn trong bài Đồng Đức Bốn – Kẻ mượn bút của trời nhận
xét: “Sự xuất hiện của Đồng Đức Bốn đã đem lại cho thơ lục bát, thơ truyền
thống một niềm tự tin đáng kể”, “thơ Bốn vụt lên với sự sáng trong giản dị mà
không kém phần sâu sắc, mới lạ và ấn tượng như mang cả hồn thiêng của tổ
tiên trong mỗi lời đối thoại, mỗi tiếng nhủ thầm”. Còn trong bài viết Trời đưa
anh đến cõi thơ, Đỗ Minh Tuấn lại chỉ ra niềm kiêu hãnh, biết ơn của Đồng

15
Đức Bốn với thơ lục bát: “cái tình cảm của Bốn với thơ lục bát nhìn bề ngoài
giống như tình cảm của người nông dân với con trâu”.
Nguyễn Đăng Điệp cũng đánh giá rất cao thơ lục bát Đồng Đức Bốn:
“Từ lục bát của ca dao, Nguyễn Du đã tạo nên một đột biến: “Khi Nguyễn Du
viết Kiều đất nước hóa thành văn” (Chế Lan Viên). Thể thơ dân tộc này hiện
hình một cách tài hoa qua “khối tình lớn – khối tình con” (Tản Đà) rồi chia
thành hai ngả trong Thơ mới: Cái chân quê trong sáu – tám của Nguyễn Bính
và cái hàm súc cổ điển trong thơ Huy Cận. Hiện giờ, ngoài cái “thượng thừa”
của Bùi Giáng, lục bát sống trong hồn Nguyễn Duy, rồi Đồng Đức Bốn…
Làm được lục bát hóa ra là việc khó khăn… Là một thể loại ai cũng quen mặt,
ai cũng thuộc tên, nếu không có cái mới, lập tức kẻ làm thơ sẽ bị đuổi khỏi
chiếu. May thay, Đồng Đức Bốn đã trụ lại được”. Rõ ràng Đồng Đức Bốn
được đánh giá là một trong những tên tuổi sáng giá nhất trong làng thơ lục bát
Việt Nam. Ở phần cuối bài viết, tác giả còn nhấn mạnh, Đồng Đức Bốn rồi
cuối cùng cũng trở về với ca dao, với tình đời dù cay đắng nhưng vẫn ngọt
ngào. Cái chất dân gian trong thơ Đồng Đức Bốn vẫn là cầu nối anh với thế
hệ độc giả bây giờ. Dù có thế nào đi chăng nữa thì khuynh hướng sáng tác của
Đồng Đức Bốn vẫn là trở về với cội nguồn.
Trong phần đầu của bài viết Những câu thơ tình tang quê mùa, Đoàn
Hương đề cập đến chất dân ca, ca dao trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn. Bài
viết đã có những phân tích khá kĩ về chất quê trong thơ Đồng Đức Bốn –
mạch nguồn cảm hứng chủ đạo của nhà thơ. Đọc thơ lục bát của Đ ồng

Đức Bốn, Đoàn Hương cảm nhận “như một kẻ đánh mất quê được trở về
quê”. Đọc thơ Đồng Đức Bốn để ta tìm thấy quê, trở về với quê hương trong
tâm tưởng của ta.
Với giọng điệu tự nhiên pha chút ngang tàng trong bài Đóng gạch nơi
nao, Phạm Tiến Duật đã khẳng định: “Một mình Đồng Đức Bốn tự làm một

16
cuộc trường chinh. Gã xông thẳng vào trận địa lục bát và chỉ một thời gian
ngắn Đồng Đức Bốn trở thành ông vua trẻ của thể loại này”.
Nhà văn Trần Huy Quang trong bài Đồng Đức Bốn – Nhàu nát và trau
chuốt đánh giá về chất đồng quê trong thơ Đồng Đức Bốn từ góc độ câu thơ:
“Thơ Đồng Đức Bốn đấy, mỗi câu giống như lời nói của các bà nông dân lam
lũ, yếm trễ ngực, váy xắn quai cồng, đòn gánh oằn vai”.
Trong Tựa bão để sống làm người, Anh Quân thấy được nhạc tính giàu
chất dân gian trong thơ lục bát nói chung và thơ Đồng Đức Bốn nói riêng:
“Thực ra trong thơ ca, lục bát là thể thơ mang tính nhạc đậm nhất, ở thơ Đồng
Đức Bốn càng thấy rõ điều này. Bất kì một bài nào của anh đều như những
bài hát dân ca, điệu hò câu ví thuở xưa”.
Băng Sơn trong bài Đồng Đức Bốn – Thi sĩ đồng quê đã nhận định khá
sâu sắc về hồn quê mùa trong thơ Đồng Đức Bốn, coi ông là “Một nhà thơ
kiệt xuất trong lục bát, có lẽ là hồn Việt chắt lọc ngàn năm để ứ dồn vào tâm
hồn thi sĩ làm ta nghiêng ngả mê say những vần thơ như từ ca dao đi ra, như
từ thơ đi vào ca dao, cứ ngọt lịm và ở lại”.
Trong Vài ý nghĩ tản mạn về thơ Đồng Đức Bốn, Nguyễn Thanh Toàn
cũng nhận xét: “Thế mạnh thơ Đồng Đức Bốn là thể thơ đồng quê, ngôn ngữ
đồng quê, cảm hứng đồng quê… Đặc biệt là tình ý tư tưởng đồng quê”.
Ngoài ra một số bài viết của Nguyễn Ánh Ngân, Nguyễn Thanh Phong,
Nguyễn Việt Hà, Văn Chinh… cũng đã có những ý kiến đánh giá khá sâu sắc,
xác đáng về thơ Đồng Đức Bốn .
Qua những bài viết, nghiên cứu về Đồng Đức Bốn có thể thấy, anh

được đánh giá là nhà thơ xuất sắc của dòng thơ lục bát Việt Nam đương đại.
Thơ lục bát của Đồng Đức Bốn khẳng định lại một lần nữa thể thơ lục bát ưu
thế của thơ Việt. Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến cho rằng, thơ lục bát của
Đồng Đức Bốn còn gai góc, thô mộc, còn có vẻ gì chất phác, ngô nghê. Nhìn

17
chung, Đồng Đức Bốn xứng đáng được coi là người tiếp nối dòng chảy dân
gian trong thơ ca Việt Nam và có những đóng góp không nhỏ trên thi đàn.
Tóm lại, qua lịch sử tìm hiểu nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy và Đồng
Đức Bốn, chúng tôi thấy trong một số bài viết về thơ của hai tác giả ít nhiều
đã đề cập đến vấn đề bản sắc dân tộc trong thơ của từng cây bút. Tuy nhiên,
qua khảo sát, có thể thấy những bài viết này mới chỉ đề cập đến một số khía
cạnh hoặc một vài yếu tố dân gian trong thơ của từng tác giả riêng biệt, chưa
đề cập một cách trực tiếp, chưa khảo sát vấn đề một cách hệ thống, toàn diện.
Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy
và Đồng Đức Bốn nhằm đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về
bản sắc dân tộc trong thơ của hai cây bút đặc sắc này, từ đó góp phần nhận
diện, khẳng định một hướng tìm tòi, đổi mới thành công của thơ đương đại
Việt Nam.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, người viết sử dụng các pháp nghiên cứu chủ
yếu như:
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp thống kê, phân loại
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu bản sắc dân tộc trong sáng tác của hai
tác giả Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn. Phạm vi khảo sát là các tập thơ chính
của Nguyễn Duy và toàn bộ thơ Đồng Đức Bốn.

* Nguyễn Duy
- Cát trắng (Thơ, 1973)
- Ánh trăng (Thơ, 1984)
- Mẹ và em (Thơ, 1987)

18
- Đường xa (Thơ, 1989)
- Qùa tặng (Thơ, 1990)
- Về (Thơ, 1994)
- Sáu và Tám (Thơ, 1994)
- Bụi (Thơ, 1997)
* Đồng Đức Bốn
- Con ngựa trắng và rừng quả đắng (1992)
- Chăn trâu đốt lửa (Thơ, 1993)
- Trở về với mẹ ta thôi (2000)
- Cuối cùng vẫn còn dòng sông (2000)
- Chuông chùa kêu trong mưa (2002)
- Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc (2006)
Ngoài ra, để có điều kiện so sánh, chúng tôi cũng mở rộng khảo sát thơ
của một số tác giả khác.
5. Đóng góp của luận văn
- Từ khảo sát, phân tích thơ của hai tác giả, luận văn nhận diện, đúc kết
những nét đặc sắc của các cây bút về phương diện kế thừa và phát huy những
giá trị truyền thống trong việc hiện đại hóa thơ; khẳng định nỗ lực đổi mới thơ
của hai tác giả.
- Luận văn cũng khảo sát và nhận diện một trong những khuynh hướng
tìm tòi sáng tạo có hiệu quả của thơ đương đại Việt Nam.
- Ở một phạm vi nhất định, luận văn góp phần tổng kết, đánh giá về
tiến trình vận động, đổi mới của thơ đương đại Việt Nam và sự vận động của
thơ lục bát trong thơ Việt Nam hiện đại.

6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm 3 chương:

19
- Chương 1: Về khái niệm bản sắc dân tộc và hành trình sáng tạo
của Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn
- Chương 2: Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức
Bốn nhìn từ góc độ nội dung cảm hứng
- Chương 3: Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức
Bốn nhìn từ góc độ nghệ thuật thể hiện














20
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: VỀ KHÁI NIỆM BẢN SẮC DÂN TỘC VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN DUY, ĐỒNG ĐỨC BỐN


1.1 Về khái niệm bản sắc dân tộc
Ngày nay, khi sự giao lưu trên thế giới đang được đẩy mạnh hơn bao
giờ hết, thì vấn đề văn hóa dân tộc trở thành mối quan tâm hàng đầu, là tâm
điểm chú ý của các bộ môn khoa học xã hội và khoa học nhân văn. Để có thể
giải quyết được nhiệm vụ của đề tài, trước hết chúng tôi thấy cần làm rõ về
khái niệm bản sắc dân tộc.
Theo Từ điển văn học (Bộ mới) [39]: “Bản sắc dân tộc và tính dân tộc
là những thuật ngữ gần như tương đương nhau, biểu thị một số thuộc tính dân
tộc học văn hóa nhất định. “Tính (hoặc bản sắc) dân tộc của văn học” - chỉ là
những đặc tính mà một nền văn học dân tộc có được do sự liên hệ mật thiết
của nó với đời sống văn hóa – lịch sử của chính dân tộc ấy”. Cuốn Từ điển
thuật ngữ văn học [38] cũng định nghĩa tính dân tộc là khái niệm thuộc phạm
trù tư tưởng - thẩm mĩ chỉ mối liên hệ khăng khít giữa văn học và dân tộc, thể
hiện qua tổng thể những đặc điểm độc đáo tương đối bền vững chung cho các
sáng tác của một dân tộc, được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử
phân biệt với văn học của các dân tộc khác. Nói như vậy, văn học và văn hóa
của một dân tộc có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời. Và không thể
hiểu đúng văn học nếu không tìm hiểu bình diện văn hóa của nó.
Truyền thống văn hóa là một trong những loại hình tồn tại của xã hội
đương đại. Nó “Ghi dấu ấn lịch sử đã qua của chính bản thân nó, nhưng còn
kéo dài một cách cực kì dai dẳng trong hiện tại và luôn có tham vọng xác lập
truyền thống mới” [27]. Thật vậy, truyền thống văn hóa không chỉ thu hẹp ở
việc duy trì hay truyền lại các thành quả văn hóa ngày trước, mà còn tích hợp
trong diễn trình lịch sử những truyền thống mới bằng cách đem thích nghi cái

21
mới này với các truyền thống cũ. Vì thế, truyền thống văn hóa có vai trò và
ảnh hưởng to lớn đối với đời sống xã hội và con người. Đặc biệt đối với sáng
tạo nghệ thuật thì truyền thống văn hóa càng giữ vị trí quan trọng. Nó đóng
vai trò là cơ sở, nền tảng của mọi sự sáng tạo, nó quy định mọi cảm nhận và

sự miêu tả của các nhà văn về đối tượng.
Tóm lại: “Việc nghiên cứu truyền thống văn hóa cũng tức là nghiên cứu
tính dân tộc, bản sắc dân tộc. Bởi vì tính dân tộc của văn học không chỉ là một
phạm trù tư tưởng xã hội và nghệ thuật mà còn là một phạm trù văn hóa, là
kết tinh của văn hóa dân tộc trong sáng tác văn học nghệ thuật” [3, tr. 6-7].
Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã từng nhấn mạnh: “Vấn đề dân tộc là vấn
đề văn hóa, đừng tìm vấn đề dân tộc ở chỗ khác” [22, tr. 155]. Sau này, nhà
nghiên cứu Hồ Sĩ Vịnh cũng tiếp tục khẳng định: “Nói đến văn hóa là nói đến
dân tộc. Văn hóa là gương mặt của dân tộc. Một dân tộc đánh mất truyền
thống văn hóa (…) thì dân tộc ấy sẽ mất tất cả” [54, tr. 6].
Khái niệm “dân tộc” ở tiếng Việt hiện đại có hai nghĩa chính: 1) “dân
tộc – quốc gia”, tức là một cộng đồng xã hội người, được tạo nên do quá trình
hình thành tính cộng đồng về lãnh thổ, về quan hệ kinh tế, về ngôn ngữ văn
học, về một số đặc điểm văn hóa và tính cách; 2) các cộng đồng chủng tộc
người – bộ lạc, bộ tộc, sắc tộc… nằm trong và hợp thành dân tộc – quốc gia.
Văn học, nghệ thuật là một trong những phương diện hoạt động về tinh thần
của cộng đồng dân tộc trong quá trình lịch sử, gắn bó với đời sống lịch sử của
dân tộc. Nó là một bộ phận của lịch sử dân tộc. Tính dân tộc có mặt ổn định
nếu nhìn nó trong sự tương quan giữa các dân tộc với nhau. Đọc một bài thơ
Việt Nam và một bài thơ Trung Quốc, người ta vẫn phân biệt được bài thơ
này với bài thơ kia. Bài thơ Việt Nam vẫn có cái gì Việt Nam có thể trong tứ
thơ, trong giai điệu… Những cái đó cho phép người nghiên cứu rút ra tính
dân tộc trong thơ. Nhưng nói rằng tính dân tộc có mặt ổn định không có nghĩa
là tính dân tộc là cố định nhất thành bất biến. Bài viết “Tính dân tộc trong văn

22
học hiện nay”, trích từ cuốn “Tìm hiểu bản sắc dân tộc trong thơ Chủ tịch Hồ
Chí Minh” [36] giải thích: “Dân tộc là một cộng đồng người hình thành trong
quá trình lịch sử. Các dân tộc không phải là bao giờ cũng có, nó ra đời trong
một giai đoạn tiến hóa lịch sử nhất định và khi đã hình thành dân tộc rồi thì

dân tộc không ngừng tiến hóa. Vì vậy những bản sắc dân tộc cũng luôn luôn
tiến hóa, tính dân tộc không phải cứ như thế mãi từ thời kì này qua thời kì lịch
sử khác […] Dân tộc có những truyền thống, truyền thống dân tộc là bản sắc,
là đặc tính, là nét sinh hoạt của dân tộc được phát huy đến trình độ rất cao, có
một hiệu lực rất lớn ở một thời kì lịch sử và từ đó về sau trở thành một bài
học, một tấm gương cho đời sau tiếp tục noi theo. Thí dụ truyền thống đoàn
kết chống giặc ngoại xâm thời Trần, truyền thống kiên trì chịu khổ, chịu khó
đánh giặc của quân dân Lam Sơn chống quân Minh. Như thế những truyền
thống của dân tộc có nguồn gốc lịch sử của nó…” [3, tr. 11-12].
Riêng về văn học, khác với một số loại hình nghệ thuật khác, văn học
dân tộc gắn với chất liệu của nó là ngôn ngữ dân tộc; văn học là một bộ phận
hợp thành quan trọng của văn hóa ngôn từ dân tộc. Lịch sử hình thành, tồn tại
và phát triển của các nền văn học dân tộc đều gắn (ở mức khác nhau) với quá
trình hình thành, sinh tồn và phát triển của xã hội – dân tộc. Trên cơ sở này
tác giả cuốn Từ điển văn học đưa ra những biểu hiện của bản sắc dân tộc
trong văn học: Bản sắc dân tộc của văn học thể hiện ở ngôn ngữ dân tộc (bản
ngữ), tức là cái chất liệu đặc thù, phân biệt một nền văn hóa ngôn từ này với
những nền văn hóa ngôn từ khác. (Ở những bộ phận hoặc giai đoạn văn học
viết bằng ngôn ngữ chung của khu vực hoặc bằng một ngôn ngữ quốc tế hóa
nào đó, tính dân tộc ở chất liệu ngôn ngữ sẽ bộc lộ gián tiếp, kết hợp các yếu
tố khác). Sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ (bản ngữ) là bộ phận văn học bộc lộ rõ
nhất những tiềm năng văn hóa (nhất là những ký ức lịch sử dân tộc đã in sâu
vào bản ngữ) và khả năng nghệ thuật của ngôn ngữ dân tộc, bảo toàn, phát
triển và làm giàu cho nó. Bản sắc dân tộc được bộc lộ khá rõ ở nội dung đời

23
sống dân tộc được văn học miêu tả và thể hiện: Màu sắc dân tộc ở thiên nhiên
và cảnh quan đất nước; những nét độc đáo của các giá trị và định hướng giá
trị vốn tiêu biểu cho dân tộc, những nét độc đáo về cách nhìn cách cảm của
dân tộc; tóm lại là tâm lí và tính cách dân tộc được thể hiện trong văn học.

Cùng chung quan điểm trên, cuốn Từ điển thuật ngữ văn học giải thích
một cách cụ thể hơn: Tính dân tộc thể hiện ở mọi yếu tố từ nội dung cho đến
hình thức của sáng tác văn học. Về nội dung, dễ dàng nhận thấy trước hết,
tính dân tộc biểu hiện trong sự phản ánh “màu sắc” dân tộc của thiên nhiên,
của đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Đọc sáng tác của một dân tộc, ta
như sống cuộc sống của dân tộc đó với những đặc điểm của thế giới riêng.
Tuy nhiên, tính dân tộc của văn học không chỉ biểu hiện ở những vật thể,
đường nét, màu sắc có thể nắm bắt được. Nội dung căn bản của tính dân tộc là
ở tinh thần dân tộc, thể hiện ở tính cách dân tộc và cái nhìn dân tộc đối với
cuộc đời. Đó là những yếu tố tương đối bền vững được hình thành và phát
triển trong những hoàn cảnh địa lí và con đường phát triển lịch sử riêng của
dân tộc, là một phẩm chất chỉnh thể biểu hiện trong một phức hợp liên kết các
phẩm chất nhất định.
Tính dân tộc còn biểu hiện ở hình thức văn học. Mỗi nền văn học dân
tộc có hệ thống thể loại truyền thống, có các phương tiện miêu tả, biểu hiện
riêng, nhất là có ngôn ngữ dân tộc thể hiện bản sắc riêng trong tư duy và tâm
hồn dân tộc mình.
Tính dân tộc còn thể hiện ở quá trình phát triển lịch sử độc đáo của văn
học cùng các đặc sắc do quá trình lịch sử ấy mang lại. Ví dụ, có thể nhận thấy
sự khác biệt về văn học dân tộc giữa chủ nghĩa hiện thực Nga và chủ nghĩa
hiện thực Pháp thế kỉ XIX.
Gớt đã từng khẳng định một nghệ sĩ chỉ có thể được coi là một nhà văn
mẫu mực của dân tộc nếu tác phẩm của anh ta “thấm nhuần tinh thần dân
tộc”. Nói như vậy, một tác phẩm đạt đến đỉnh cao, là đại diện của nền văn học

×