Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Đề tài Thiên chúa giáo trong trước tác Phan Bội Châu Luận văn ThS. Văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 101 trang )




®¹i häc quèc gia Hµ Néi
Tr-êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n




NGUYỄN VĂN TUẤN

ĐỀ TÀI THIÊN CHÚA GIÁO
TRONG TRƢỚC TÁC PHAN BỘI CHÂU





LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM








Hà Nội – 2014






®¹i häc quèc gia Hµ Néi
Tr-êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n



NGUYỄN VĂN TUẤN


ĐỀ TÀI THIÊN CHÚA GIÁO
TRONG TRƢỚC TÁC PHAN BỘI CHÂU


LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
MÃ SỐ: 60 22 01 21



NGƢỜI HƢỚNG DẪN: GS.TS TRẦN NGỌC VƢƠNG





Hà Nội – 2014


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dƣới sự hƣớng
dẫn khoa học của GS.TS Trần Ngọc Vƣơng. Đề tài không trùng lặp với bất cứ công
trình khoa học nào. Những vấn đề trình bày trong luận văn này là kết quả do chúng
tôi nghiên cứu, bảo đảm tính trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trƣớc
những luận điểm khoa học nêu ra trong công trình này.

Tác giả luận văn



Nguyễn Văn Tuấn




LỜI CẢM ƠN

Luận văn này là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu suốt hai năm trong
chƣơng trình đào tạo Thạc sỹ, dƣới sự truyền dạy, hƣớng dẫn nhiệt tình, nghiêm túc
và khoa học của tập thể thầy cô là các Giáo sƣ, Phó giáo sƣ, Tiến sỹ của Trƣờng Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội. Trƣớc tiên, tôi xin kính gửi đến các thầy,
cô lời cảm ơn sâu sắc về những tri thức và tình cảm mà thầy cô đã dành cho tôi
trong thời gian qua. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS.TS Trần
Ngọc Vƣơng, đã tận tình chỉ bảo, hƣớng dẫn tôi hoàn thành luận văn. Nhân đây, tôi
cũng xin gửi lời cảm ơn đến những bạn bè, đồng nghiệp – những ngƣời đã động
viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi, trong quá trình tiếp cận tƣ liệu để hoàn thành
luận văn.


Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2014



Nguyễn Văn Tuấn
1

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 5
3. Phạm vi nghiên cứu 10
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 10
5. Đóng góp của đề tài 11
6. Cấu trúc luận văn 11
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: Sự du nhập của đạo Thiên chúa vào Việt Nam và sự hình thành
mảng đề tài viết về Thiên chúa giáo trong văn học Việt Nam trung cận đại 13
1.1. Sự du nhập của đạo Thiên chúa vào Việt Nam 13
1.1.1. Những tiền đề và quá trình truyền bá đạo thiên chúa vào Việt Nam 13
1.1.1.1. Mầm mống của sự truyền bá đạo Thiên chúa ra vùng đất ngoại 13
1.1.1.2. Quá trình truyền bá đạo Thiên chúa vào Việt Nam 15
1.1.2. Đạo Thiên chúa và sự bành trƣớng thuộc địa
của Pháp tại Việt Nam 16
1.1.2.1. Công cuộc truyền giáo với sự bành trƣớng thế lực của
thực dân Pháp tại Việt Nam đến nửa đầu thế kỷ XIX 17
1.1.2.2. Những mƣu toan chính trị của các thừa sai
nửa cuối thế kỷ XIX 21
1.2. Sự hình thành mảng đề tài Thiên chúa giáo trong

văn học Việt Nam trung cận đại 31
1.2.1. Sự ghi chép về Thiên chúa giáo trong các tƣ liệu lịch sử 31
1.2.2. Đề tài Thiên chúa giáo trong những sáng tác văn học 35
Chƣơng 2: Quan niệm của Phan Bội Châu về Thiên chúa giáo 41
2.1. Vị trí Thiên chúa giáo trong trƣớc tác Phan Bội Châu 41
2.2. Quan niệm của Phan Bội Châu
về vấn đề văn hóa, tín ngƣỡng tôn giáo của đạo Thiên chúa 44
2.3. Thái độ của Phan Bội Châu trong mối quan hệ giữa
đạo Thiên chúa và sự xâm lƣợc của thực dân Pháp 50
Chƣơng 3: Những điểm mới trong đề tài
2

Thiên chúa giáo của Phan Bội Châu 59
3.1. Đoàn kết lƣơng giáo – một tƣ tƣởng tiến bộ của
Phan Bội Châu chống kẻ thù xâm lƣợc 59
3.1.1. Vấn đề lƣơng – giáo trong phong trào
chống Pháp cuối thế kỷ XIX 60
3.1.2. Tƣ tƣởng đoàn kết lƣơng – giáo của Phan Bội Châu
trong phong trào đấu tranh chống kẻ thù xâm lƣợc 66
3.2. Điểm mới về Thiên chúa giáo của Phan Bội Châu
so với các nhà Nho đƣơng thời 74
3.2.1. Đạo Thiên chúa trong cái nhìn của
vua quan triều Nguyễn và các các nhà Nho đƣơng thời 74
3.2.2. Tƣ tƣởng mới của Phan Bội Châu về đạo Thiên chúa 80
PHẦN KẾT LUẬN 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91




















3

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
“Lịch sử của tôi hoàn toàn là lịch sử thất bại”
(Phan Bội Châu niên biểu)
Đây là lời nhận xét, tự đánh giá về mình của Phan Bội Châu, ông đã sống trọn
vẹn trong một giai đoạn lịch sử đầy đau thƣơng và cuộc đời ông đầy những thất bại
nhƣ ông đã nói, nhƣng lại là ngƣời bền gan chí chịu đựng mọi thất bại đó.
Phan Bội Châu (1867 – 1940) sinh trƣởng trong một gia đình nhà Nho “đời đời
theo nghiệp đọc sách” tại Nghệ An, cho nên, từ bé ông đã đƣợc đào tạo theo khuôn
mẫu Nho giáo. Tuy nhiên, ông lại là một trong những nhà yêu nƣớc có hoàn cảnh
đặc biệt nhất. Ông đƣợc sinh ra sau 5 năm khi thực dân Pháp nổ súng xâm lƣợc Nam
Kỳ và mất trƣớc 5 năm khi Cách mạng tháng Tám thành công. Nhƣ vậy, cả cuộc đời

ông nằm trong giai đoạn lịch sử đau thƣơng của đất nƣớc. Thêm vào đó là ông đƣợc
lớn lên trong không khí của chiến tranh và nỗi căm uất trƣớc sự xâm lƣợc của bọn
Đế quốc thực dân, dần dần Phan Bội Châu hiểu ra rằng “cần phải nuôi chí diệt thù”
để cứu nƣớc, cứu dân tộc.
Phan Bội Châu cũng là một nhà Nho, nhƣng lại ở vào giai đoạn cuối thời khi
mà chế độ Phong kiến đã đi đến hồi kết thúc, nên ông khác với các nhà Nho khác
mà nhƣ Trần Đình Hƣợu đã viết: “Ông từ một nhà Nho, thành một ngƣời hoạt động
cứu nƣớc, thành nhà chính trị, rồi ông trở thành một nhà văn. Con đƣờng trở thành
nhà chính trị, nhà văn của Phan Bội Châu đã trải qua nhiều hoàn cảnh cụ thể mà
qua đó, thời đại khắc họa những dấu ấn sâu sắc, làm cho ông khác những nhà Nho
khác, mà cũng tiêu biểu nhất cho những nhà Nho đó” [32/135]. Đối với lịch sử đấu
tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam, Phan Bội Châu nhƣ là ngƣời tiếp nối những
trang sử đó, ông “đã đóng một vai trò trọng đại, tiếp nối phong trào Cần Vƣơng
cuối thế kỷ XIX, nuôi dƣỡng truyền thống quật khởi, bất khuất, anh hùng của ngƣời
Việt Nam trƣớc đợt sóng dập dồn của nạn xâm lăng” [72/294]. Đối với văn chƣơng,
Phan Bội Châu là một tác gia lớn, một nhân cách lớn, ông có một sự nghiệp vĩ đại
trong bƣớc ngoặt của lịch sử văn chƣơng dân tộc. Phan Bội Châu là ngƣời viết nhiều
với ý thức làm văn để phục vụ chính trị cứu nƣớc, và rất ít tác phẩm của ông viết ra
để tiêu khiển, trừ những năm cuối đời bị giam lỏng ở Huế. Cho nên, có thể nói văn
4

chƣơng của Phan Bội Châu là bộ phận khăng khít trong quá trình hoạt động cách
mạng của ông:
Mõ chuông là cái lƣỡi đây
Lôi đình trên ngọn bút này nổi lên!
Những sáng tác của Phan Bội Châu chủ yếu nhằm xây dựng tƣ tƣởng yêu nƣớc
và tinh thần chiến đấu cho nhân dân chống quân xâm lƣợc. Ông ca ngợi những trang
quốc sử oanh liệt, các bậc anh hùng của đất nƣớc qua các thời đại Đồng thời, ông
cũng tố cáo mọi chính sách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp, để mọi ngƣời dân
thấy rõ bản chất của cuộc xâm lƣợc, đồng thời thức tỉnh nhân dân không nên có một

chút ảo tƣởng về cái gọi là “sứ mệnh khai hóa văn minh” của Pháp. Ông đã sáng tác
rất nhiều những thơ văn yêu nƣớc và cách mạng, thơ văn đó của ông không chỉ cổ
vũ cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trong giai đoạn lịch sử lúc bấy giờ,
mà nó còn “soi sáng cho những thời đại đến sau trên con đƣờng đấu tranh vì đại
nghĩa” [72/294].
Phan Bội Châu hƣớng đến nhiều đối tƣợng trong quần chúng nhân dân nhằm
tuyên truyền con đƣờng cách mạng và cứu nƣớc. Trong đó, ông có hƣớng đến đối
tƣợng là những đồng bào Thiên chúa giáo, những ngƣời mà có ảnh hƣởng rất lớn tới
xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, đặc biệt là ảnh hƣởng đến công cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc. Một điểm đặc biệt trong cuộc đời Phan Bội Châu ở chỗ ông nhƣ là
con đẻ của các phong trào cứu nƣớc, lại đƣợc sinh ra trên đất Nghệ Tĩnh – tâm điểm
của phong trào “bình Tây sát tả” lúc bấy giờ đang sôi sục trên quê hƣơng, nhƣng
ông lại có một ứng xử tiến bộ đối với ngƣời công giáo và đạo Thiên chúa mà các thế
hệ lãnh tụ cứu nƣớc trƣớc đó không có. Ông có cái nhìn khách quan mang tính tích
cực về con ngƣời cũng nhƣ tín ngƣỡng của tôn giáo này. Ông là ngƣời đã đề cập đến
vấn đề giai cấp và đoàn kết dân tộc trong phong trào đấu tranh cứu nƣớc đối với
đồng bào Thiên chúa giáo. Vấn đề Thiên chúa giáo trong trƣớc tác của Phan Bội
Châu có ý nghĩa vô cùng to lớn trong sự nghiệp cứu nƣớc của dân tộc. Tuy nhiên,
cho đến nay, các nhà nghiên cứu mới chỉ có một vài công trình nhỏ nghiên cứu về
Thiên chúa giáo trong sự nghiệp trƣớc tác của ông, và các công trình này cũng mới
chỉ giải quyết một phần nào về khía cạnh đoàn kết tôn giáo, mà chƣa đi sâu vào
những đóng góp tích cực của ông đối với vấn đề Thiên chúa giáo. Tiếp tục công việc
trên, tôi đã chọn đề tài: Đề tài Thiên chúa giáo trong trƣớc tác Phan Bội Châu để
tìm hiểu sâu hơn về vấn đề Thiên chúa giáo trong tƣ tƣởng của Phan Bội Châu, đồng
5

thời để thấy đƣợc những điểm mới của Phan Bội Châu về loại hình tôn giáo đƣợc du
nhập từ phƣơng Tây này so với các thế hệ nhà Nho trƣớc đó trong thực tiễn đấu
tranh cách mạng lúc bấy giờ.
2. Lịch sử vấn đề

Xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là một trong những giai
đoạn đầy biến động. Thời kỳ này đã xuất hiện nhiều khuynh hƣớng, đƣờng lối, và
phƣơng pháp duy tân đất nƣớc của các nhà Nho yêu nƣớc. Tƣ tƣởng của họ tuy có
khác nhau nhƣng cùng chung một mục đích là cứu dân, cứu nƣớc và phát triển xã
hội. Trong đó, Phan Bội Châu đƣợc xem nhƣ một ngôi sao sáng, là ngọn cờ đầu
trong phong trào duy tân, giải phóng dân tộc. Phan Bội Châu đã để lại cho chúng ta
một kho tƣ liệu quý giá và đồ sộ trên nhiều lĩnh vực nhƣ văn học, sử học, tƣ tƣởng,
triết luận Cho đến nay, lịch sử nghiên cứu về Phan Bội Châu vẫn đang tiếp tục và
ngày càng thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều thế hệ chính trị gia, các nhà nghiên
cứu, hay các văn nghệ sĩ đánh giá về toàn bộ sự nghiệp trƣớc tác cũng nhƣ cuộc đời
của ông.
Ngƣời có nhiều công trình nghiên cứu về Phan Bội Châu nhất có lẽ là nhà sử
học Chƣơng Thâu. Ông đã có trên 90 công trình nghiên cứu đƣợc đăng trên các báo,
tạp chí và hội thảo khoa học, và hơn 40 công trình sách chuyên khảo, biên soạn hoặc
viết riêng, hoặc viết chung với các nhà nghiên cứu khác về Phan Bội Châu và những
vấn đề liên quan tới nhà ái quốc vĩ đại này. Đồng thời, nhà sử học Chƣơng Thâu
cũng là ngƣời sƣu tầm và biên soạn bộ sách Phan Bội Châu toàn tập gồm 12 tập
trong đó có 10 tập trƣớc của Phan Bội Châu toàn tập đƣợc xuất bản năm 1990 (đến
nay đã tái bản nhiều lần) và hai tập bổ di 1 và bổ di 2 bổ xung một số thơ văn chƣa
đƣợc công bố trƣớc đó, mà một trong hai tập bổ di này đã đƣợc xuất bản năm 2012.
Với sự biên khảo sƣu tầm Phan Bội Châu toàn tập này của nhà sử học Chƣơng
Thâu “xứng đáng đƣợc coi là một mẫu mực của niềm hiếu kính và say mê của một
nhà khoa học đối với bậc tiền liệt, cũng tiêu biểu cho tính toàn vẹn, khách quan và
độ tin cậy văn bản học mà một cá nhân nhà khoa học có thể làm trên tinh thần tự
nguyện và về cơ bản là tự cấp tự túc” [70/491].
Một trong những công trình nghiên cứu về Phan Bội Châu đƣợc đánh giá cao
nhất, đáng chú ý nhất là hai công trình nghiên cứu của giáo sƣ Đặng Thai Mai và
giáo sƣ Trần Đình Hƣợu mà theo giáo sƣ Trần Ngọc Vƣơng cho rằng đây là “những
6


công trình đã có nhiều phƣơng diện đạt tới độ cơ bản cổ điển và tính hàm súc văn
hóa” [70/490].
Trong công trình của mình với nhan đề Văn thơ Phan Bội Châu, Đặng Thai
Mai đã nhận xét một cách khá chắc chắn khi cho rằng Phan Bội Châu là ngƣời mở
đƣờng về phƣơng diện dùng văn chƣơng phục vụ chính trị: “Một điều mà mọi ngƣời
đều có thể nhận thấy là với Phan Bội Châu, văn học bắt đầu có một nhiệm vụ xứng
đáng, cao cả, nhiệm vụ phục vụ cho chính trị” [17/454]. Ông là ngƣời dẫn đầu và
thành công rõ rệt hơn ai hết về thơ ca yêu nƣớc. Đặng Thai Mai đã chỉ ra sự thành
công rõ rệt đó trong những sáng tác thơ ca của Phan bội Châu ở chỗ đã biểu hiện
đƣợc tất cả cái tinh thần yêu nƣớc nồng nàn của cả một dân tộc trong thời đại lúc
bấy giờ. Cái yếu tố chan chứa trong thơ Phan Bội Châu là “tình cảm” và “tƣởng
tƣợng”, có cả một pho tình cảm vĩ đại về hai phƣơng diện yêu và ghét đó là “yêu
nƣớc nhà, yêu nòi giống, yêu nhân dân Việt Nam. Ghét quân thực dân cƣớp nƣớc
với lũ tôi đòi của chúng”. Qua thơ văn của Phan Bội Châu, nét đặc biệt nổi lên là
tấm lòng tin tƣởng, không hoài nghi về tình đồng chí, đồng bào.
Về ảnh hƣởng đến tƣ tƣởng Phan Bội Châu cũng nhƣ sự nghiệp văn chƣơng
của ông, ngoài quê hƣơng ông là xứ Nghệ, với những sinh hoạt vật chất và tinh thần
truyền thống đấu tranh của nhân dân xứ Nghệ trong các phong trào yêu nƣớc, thì
ông còn chịu ảnh hƣởng bởi những yếu tố của xã hội, thời đại Sự tiếp xúc với các
nhà cải lƣơng và các nhà cách mạng ở Trung Hoa, Nhật Bản cũng đã làm đổi mới
lời văn và tƣ tƣởng của Phan Bội Châu, chính điều đấy mà: “Văn chƣơng chữ Hán
Phan Bội Châu sẽ hùng hồn, lƣu loát, khác hẳn với lối viết khúc mắc, nặng nề của
các danh Nho lớp trƣớc ở nƣớc ta” [17/421].
Một phát hiện khá mới mẻ về sáng tác của Phan Bội Châu ở chỗ Đặng Thai
Mai cho rằng Phan Bội Châu có thể xem nhƣ là nhà văn, nhà thi sĩ đầu tiên đã sáng
tác theo tinh thần lãng mạn cách mạng trong văn học nƣớc nhà: “Tinh thần lãng mạn
cách mạng là đặc điểm và cũng là phần thành công, là giá trị của văn thơ Phan Sào
Nam” [17/469], bởi theo tác giả thì có một dòng văn học lãng mạn xuất phát từ một
cơ sở hiện thực, từ một tình yêu vĩ đại là yêu Tổ quốc, yêu nhân loại, ghét cái giả
dối, hống hách, sự bóc lột, thù địch của nhân loại chân chính, cho nên: “Văn học

lãng mạn đó cũng có tác dụng tố cáo cái hiện thực xấu xa cần phải tiêu diệt”
[17/471]. Thêm vào đó thì văn lãng mạn tích cực có thể làm cho ngƣời đời một hi
vọng đẹp đẽ, củng cố lòng tin con ngƣời vào tƣơng lai tƣơi sáng, mang lại cho họ
7

tinh thần lạc quan và ý chí đấu tranh kiên quyết. Hiện thực và tinh thần tích cực là
giá trị chân chính của văn học lãng mạn cách mạng và “văn thơ Phan Sào Nam,
trong một thời kỳ, quả có những yếu tố trữ tình hiện thực và tích cực đó” [17/471].
Trong giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 – 1930, Trần Đình
Hƣợu đã dành 1 chƣơng để viết về Phan Bội Châu. Đây là một công trình nghiên
cứu công phu, đầy đủ nhất từ con ngƣời và cuộc đời của Phan Bội Châu đến sự
nghiệp cứu nƣớc cũng nhƣ những đóng góp và cách tân trong văn chƣơng của ông.
Với một sự nghiên cứu cần mẫn và nghiêm túc của mình, Trần Đình Hƣợu đã
chỉ ra cuộc đời của Phan Bội Châu không giống nhƣ những nhà Nho lớp trƣớc mặc
dù ông đƣợc sinh ra trong một gia đình truyền thống Nho học. Từ một nhà Nho,
Phan Bội Châu trở thành một nhà hoạt động chính trị, rồi trở thành nhà văn, “con
đƣờng trở thành nhà văn chính trị của Phan Bội Châu trải qua những hoàn cảnh cụ
thể, độc đáo, qua đó, thời đại khắc lại nhiều dấu ấn sâu sắc, làm cho ông khác họ
mà lại tiêu biểu nhất cho họ” [32/135]. Văn học của Phan Bội Châu là văn học gắn
với chính trị, Trần Đình Hƣợu đã phân tích con đƣờng trở thành nhà văn chính trị
của Phan Bội Châu, với gần 60 năm hoạt động trong lĩnh vực văn chƣơng của mình,
với sự đổi thay của thời đại, tƣ tƣởng chính trị và sáng tác văn học của Phan Bội
Châu cũng có những bƣớc thay đổi, thăng trầm, và ông là “ngƣời táo bạo đi đầu
không ngần ngại đổi mới”. Sự đổi mới đó bắt nguồn từ những điều kiện tự nhiên,
lịch sử và xã hội đã ảnh hƣởng đến con ngƣời ông. Mà trong đó, có lẽ chính quê
hƣơng ông, quê hƣơng xứ Nghệ đã làm thay đổi nhận thức của ông về thời cuộc và
cách mạng. Thêm vào đó, Phan Bội Châu lại là một danh sĩ, nổi tiếng về văn chƣơng
và tinh thần yêu nƣớc. Chính vì thế mà “cá tính và màu sắc địa phƣơng để lại dấu
ấn đậm nét trong văn chƣơng của ông, tạo thành đặc sắc, nét nhất quán trong văn
chƣơng, từ thể phú của văn chƣơng cử tử đến truyện thơ cổ động, đến cả tính cách

nhân vật trong truyện ngắn và tiểu thuyết” [32/142].
Bắt nguồn từ lòng yêu nƣớc tha thiết, từ tình cảnh không chịu cái nhục nô lệ
mất nƣớc mà Phan Bội Châu đã đứng lên đoàn kết dân tộc chống kẻ thù. Trần Đình
Hƣợu đã đƣa ra nhận xét về tƣ tƣởng đoàn kết của Phan Bội Châu “tuy có những
nhƣợc điểm lớn trong cơ sở lý luận, tƣ tƣởng đoàn kết dân tộc của Phan Bội Châu
là một bƣớc phát triển cao so với tƣ tƣởng truyền thống ” [32/164]. Phan Bội Châu
đã khôi phục đƣợc truyền thống đoàn kết trong nhân dân. Bên cạnh đó Trần Đình
Hƣợu cũng nói đến những cách tân văn chƣơng trong các thể loại viết về ngƣời anh
8

hùng cứu nƣớc. Những ngƣời cứu nƣớc với phẩm chất đặc biệt sẽ đƣợc thể hiện
trong ngƣời cộng sản Việt Nam đó là “yêu nƣớc, tình đồng chí, gắn bó với dân tộc”
[32/184].
Về đề tài Thiên chúa giáo cũng đã có một số bài viết nói về tƣ tƣởng đoàn kết
lƣơng – giáo của Phan Bội Châu. Trƣớc hết ta kể đến bài nghiên cứu khá sớm về đề
tài này vào năm 1967 trên Tạp chí nghiên cứu Lịch sử của tác giả Đặng Huy Vận
với nhan đề Phan Bội Châu và công cuộc vận động đồng bào Thiên chúa giáo đầu
thế kỷ XX
1
. Ở bài viết này, Đặng Huy Vận đã chỉ ra nguyên nhân của âm mƣu chia
rẽ dân tộc là những bọn gián điệp đội lốt thầy tu lợi dụng chính sách cấm đạo của
triều Nguyễn cũng nhƣ những phong trào yêu nƣớc của các sĩ phu cuối thế kỷ XIX.
Với những âm mƣu chia rẽ đó đã “khiến cho những ngƣời sĩ phu kháng chiến không
đoàn kết đƣợc nhân dân chống Pháp mà còn để lại những hệ quả rất tai hại cho
phong trào cách mạng sau này” [57/191]. Trong bài viết, tác giả đã nêu chủ trƣơng
của Phan Bội Châu về vấn đề đoàn kết lƣơng giáo. Đặng Huy Vận đã phân tích một
cách sâu sắc những bằng chứng mà Phan Bội Châu đƣa ra về tinh thần yêu nƣớc của
đồng bào công giáo cũng nhƣ việc thực dân Pháp lợi dụng tôn giáo để xâm chiếm
nƣớc ta. Mặc dù “Phan chƣa thấy rõ đƣợc nguồn gốc xã hội cũng nhƣ chƣa thấy rõ
đƣợc cơ sở giai cấp của vấn đề tôn giáo để đặt vấn đề đoàn kết tôn giáo” [57/203],

nhƣng mặt khác Phan Bội Châu đã “khẳng định tinh thần yêu nƣớc của những ngƣời
giáo dân và chủ trƣơng đoàn kết lƣơng giáo, nhƣng một mặt ông cũng thấy khá rõ
giã tâm và âm mƣu chính trị của bọn gián điệp đội lốt thầy tu. Ông đã vạch rõ thủ
đoạn xảo quyệt của bọn thực dân Tƣ bản chủ nghĩa trong việc sử dụng tôn giáo làm
công cụ xâm lƣợc và bành trƣớng thuộc địa” [57/194]. Đặng Huy Vận cũng đã chỉ
ra đƣợc quan điểm tích cực của Phan Bội Châu về đạo Thiên chúa so với các nhà
Nho đƣơng thời: “Phan Bội Châu chủ trƣơng mọi ngƣời đều đƣợc tự do tín ngƣỡng.
Tuy nhận thức của ông còn đơn giản, nhƣng so với quan niệm cực đoan của những
ngƣời sĩ phu yêu nƣớc cuối thế kỷ XIX thì đã là một tiến bộ và có lợi cho việc đoàn
kết lƣơng giáo lúc bây giờ” [57/193]. Chính vì thế mà phải sang đầu thế kỷ XX với
Phan Bội Châu “vấn đề đoàn kết lƣơng giáo mới đƣợc đặt trong cƣơng lĩnh đấu
tranh cách mạng và hố sâu chia rẽ giữa lƣơng và giáo mới phần nào đƣợc giải
quyết” [57/191]. Bên cạnh đó, tác giả cũng đƣa ra những bằng chứng, những tƣ liệu

1
: Bài viết này sẽ đƣợc lấy trong cuốn Phan Bội Châu trong lòng thời đại do Chƣơng Thâu sƣu tầm và
tuyển chọn [57]
9

về phong trào yêu nƣớc chống Pháp của đồng bào công giáo đầu thế kỷ XX. Đó là
những tƣ liệu quý giá để chúng ta tiếp tục nghiên cứu về mối quan hệ giữa ngƣời
công giáo với phong trào chống Pháp đầu thế kỷ XX.
Đề cập đến vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo chống Pháp, Phạm Hồng
Tung trên Tạp chí nghiên cứu Lịch sử số 6 năm 1999 có bài viết: Tìm hiểu thêm về
Phan Bội Châu và vấn đề đoàn kết lƣơng – giáo chống Pháp đầu thế kỷ XX. Trong
bài viết, tác giả đã nói rõ về sự hình thành và nội dung tƣ tƣởng đoàn kết lƣơng –
giáo của Phan Bội Châu. Từ điều kiện gia đình, bản thân, đặc biệt là những bài học
rút ra từ những thất bại các phong trào yêu nƣớc, những trải nghiệm và suy ngẫm
của bản thân, Phan Bội Châu đã sớm xƣớng lên ngọn cờ đoàn kết lƣơng – giáo:
“Ngay từ những ngày đầu dấn thân vào con đƣờng cứu nƣớc, Phan đã có dịp thông

qua hoạt động thực tiễn để tìm hiểu, nắm bắt, cảm nhận đƣợc tình hình, tâm tƣ, đặc
biệt là lòng yêu nƣớc của giáo dân Việt Nam. Đây chính là cơ sở quan trọng nhất
của việc hình thành nên tƣ tƣởng đoàn kết lƣơng – giáo của Cụ” [66/77]. Trên cơ sở
đó, tác giả đã phân tích nội dung tƣ tƣởng đoàn kết lƣơng – giáo thông qua ba tác
phẩm: Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thƣ và Tân Việt Nam, nội dung đó là
vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân Việt Nam, bất kể lƣơng hay giáo, đoàn
kết để đánh đuổi giặc Pháp.
Bài viết của Phạm Hồng Tung đã nêu đƣợc những đóng góp lớn của Phan Bội
Châu trong vấn đề đoàn kết dân tộc trƣớc hết ở tính kịp thời và nhận ra rằng chính
Phan Bội Châu là “một trong số những ngƣời Việt Nam đầu tiên dũng cảm dƣơng
lên ngọn cờ đoàn kết lƣơng – giáo chống Pháp hồi cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX”
[66/77]. Và cơ sở hình thành lên tƣ tƣởng đoàn kết lƣơng – giáo của Phan Bội Châu
không chỉ bắt nguồn từ lòng yêu nƣớc thƣơng dân sâu sắc, từ lòng quyết tâm sắt đá
muốn khôi phục lại giang sơn đất nƣớc, hay từ sự nghiền ngẫm về các bài học kinh
nghiệm rút ra từ những thất bại của các phong trào yêu nƣớc cuối thể kỷ XIX, mà nó
còn là “kết quả của việc khảo sát thực tế, từ kinh nghiệm của chính bản thân Phan
khi mới bƣớc vào hoạt động cứu nƣớc trong những năm đầu của thế kỷ này”
[66/17].
Về vấn đề Thiên chúa giáo trong sáng tác của Phan Bội Châu cũng đề cập ít
nhiều trong một số bài viết khác nhƣ: Quan điểm của Phan Bội Châu về tôn giáo và
văn hóa tôn giáo của Lê Tuấn Đạt trên Nghiên cứu Tôn giáo số 4 năm 2010, Văn
10

hóa tôn giáo và quan niệm của Phan Bội Châu và Trần Trọng Kim về văn hóa tôn
giáo của Nguyễn Quang Hƣng trên Nghiên cứu Tôn giáo số 3 năm 2013
Sẽ là quá dài dòng và lan man, thậm chí còn đi lạc đƣờng nếu chúng ta phân
tích hết các công trình nghiên cứu về Phan Bội Châu, cho nên, tôi chỉ đi vào một số
công trình nghiên cứu quan trọng gần với đề tài mà luận văn thực hiện. Mặt dù còn
rất ít những bài viết nghiên cứu về vấn đề tôn giáo, đặc biệt là Thiên chúa giáo trong
sự nghiệp trƣớc tác của Phan Bội Châu, nhƣng những công trình trên cũng đã khái

quát đƣợc những vấn đề căn bản mà Phan Bội Châu đã viết về đạo Thiên chúa, đã
nêu bật đƣợc những điểm tích cực về vấn đề đoàn kết lƣơng – giáo vào công cuộc
cứu nƣớc của các đồng bào công giáo so với các nhà Nho đƣơng thời.
3. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi nghiên cứu đến một số vấn đề về Thiên chúa giáo
trong trƣớc tác của Phan Bội Châu, cách nhìn nhận, những quan niệm của Phan Bội
Châu về đạo Thiên chúa và đồng bào Thiên chúa giáo, từ đó thấy đƣợc ý đồ của tác
giả khi viết về mảng đề tài này. Đề tài cũng có sự mở rộng đến những bài viết về
Thiên chúa giáo trong những giai đoạn trƣớc đó để chúng ta có thể hình dung những
chặng đƣờng phát triển trong nhận thức của các nhà Nho đối với đạo Thiên chúa,
cũng nhƣ những điểm mới của Phan Bội Châu so với các thế hệ trƣớc về một tôn
giáo mới đƣợc du nhập từ phƣơng Tây.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đối với đề tài này, luận văn sẽ sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu sau:
Phƣơng pháp lịch sử – xã hội: Sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu này là đặt hiện
tƣợng văn học vào bối cảnh xã hội để nghiên cứu. Phƣơng pháp này giúp cho hiện
tƣợng văn học bám chặt vào hoàn cảnh xã hội với những chứng cớ xác thực từ đời
sống thực tiễn của con ngƣời và xã hội. Phƣơng pháp nghiên cứu này rất phù hợp
khi nghiên cứu về nền văn học dân tộc, đặc biệt là văn học trong quá khứ, bởi văn
học quá khứ có mối liên hệ mật thiết dƣờng nhƣ không thể tách rời lịch sử xã hội.
Sử dụng phƣơng pháp này sẽ tránh cho chúng ta khỏi sa vào lối phê bình siêu hình,
xa rời thực tiễn, thậm chí sẽ đi quá xa vào việc bình luận vô căn cứ.
Phƣơng pháp so sánh: Sử dụng phƣơng pháp này để chúng ta nhấn mạnh nét
đặc thù của một nền văn học, một giai đoạn văn học hay một tác giả văn học so với
giai đoạn trƣớc đó hoặc cùng thời điểm đó. So sánh là để “hiểu một sự vật thông qua
các sự vật khác”. Đồng thời, phƣơng pháp này giúp cho chúng ta hiểu rõ bản chất và
11

vị trí của một hiện tƣợng văn học, một giai đoạn văn học hay một tác giả văn học
trong mối tƣơng quan đa chiều của nó. Cụ thể với đề tài này, sẽ so sánh cái nhìn,

quan niệm, tƣ tƣởng của Phan Bội Châu về đạo Thiên chúa với các thế hệ, các tác
giả văn học nhà Nho ở giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX và trƣớc đó. Từ đó làm nổi bật
nét đặc sắc về tƣ tƣởng cũng nhƣ những đóng góp của Phan Bội Châu với đạo Thiên
chúa.
Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: Đối với đề tài Thiên chúa giáo không chỉ
là vấn đề quan tâm của văn học với tƣ cách là một đề tài trong văn học, mà nó còn
liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhƣ triết học, tôn giáo, lịch sử, tƣ tƣởng Cho
nên, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu liên ngành thì mới có thể nắm bắt đƣợc ý nghĩa
rộng lớn và đích thực của nó. Việc nghiên cứu từ nhiều góc độ sẽ cho phép ta tiếp
cận đƣợc vấn đề về Thiên chúa giáo một cách thấu đáo.
Bên cạnh đó bài viết sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu khác nhƣ
phƣơng pháp tiểu sử, phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học kết hợp với các thao tác
phân tích, bình luận văn học
5. Đóng góp của đề tài
Thực hiện đề tài này mang lại ý nghĩa nhất định trong nghiên cứu văn học cũng
nhƣ nghiên cứu triết học, tôn giáo, lịch sử Đối với văn học, chúng ta sẽ tìm ra một
mảng đề tài mới trong sáng tác văn học mà bấy lâu nay ít đƣợc chú ý và thấy đƣợc
những đóng góp của Phan Bội Châu đối với văn học Việt Nam trung cận đại về
phƣơng diện chủ đề, đề tài. Bên cạnh đó, đề tài này sẽ giúp cho chúng ta hình dung
đƣợc con đƣờng phát triển của tƣ tƣởng các nhà Nho trên con đƣờng nhận thức đấu
tranh giải phóng dân tộc và thấy đƣợc cách ứng xử tiến bộ của Phan Bội Châu đối
với đạo Thiên chúa lúc bấy giờ.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thƣ mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc
trình bày trong ba chƣơng:
Chƣơng 1: Sự du nhập của đạo Thiên chúa vào Việt Nam và sự hình thành
mảng đề tài viết về Thiên chúa giáo trong văn học Việt Nam trung cận đại. Trong
chƣơng này chúng tôi nói những điểm khái quát về quá trình truyền bá đạo Thiên
chúa vào Việt Nam với sự bành trƣớng thế lực của Pháp tại Việt Nam, và đề tài
Thiên chúa giáo trong các tƣ liệu lịch sử cũng nhƣ trong sáng tác văn học giai đoạn

nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX.
12

Chƣơng 2: Quan niệm của Phan Bội Châu về Thiên chúa giáo. Về quan niệm
của Phan Bội Châu đối với đạo Thiên chúa đƣợc trình bày chủ yếu ở hai vấn đề là:
quan niệm về văn hóa, tín ngƣỡng tôn giáo của đạo Thiên chúa và thái độ của ông
đối với mối quan hệ giữa đạo Thiên chúa và sự xâm lƣợc của thực dân Pháp.
Chƣơng 3: Những điểm mới về đề tài Thiên chúa giáo của Phan Bội Châu. Ở
chƣơng này, luận văn đi sâu vào những điểm mới của Phan Bội Châu về đề tài
Thiên chúa giáo, mà một trong những điểm mới nhất là vấn đề đoàn kết lƣơng –
giáo trong phong trào chống Pháp. Bên cạnh đó, chƣơng 3 này cũng trình bày quá
trình chuyển biến tƣ tƣởng của các nhà Nho nửa cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
trên con đƣờng nhận thức trong cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc.
























13

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: SỰ DU NHẬP CỦA ĐẠO THIÊN CHÚA VÀO VIỆT NAM VÀ
SỰ HÌNH THÀNH MẢNG ĐỀ TÀI VIẾT VỀ THIÊN CHÚA GIÁO
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG CẬN ĐẠI

1.1. Sự du nhập của đạo Thiên chúa vào Việt Nam
1.1.1. Những tiền đề và quá trình truyền bá đạo Thiên chúa vào Việt Nam
1.1.1.1. Mầm mống của sự truyền bá đạo Thiên chúa ra vùng đất ngoại
Ở Tây Âu, từ giữa thế kỷ XV, khi nền kinh tế Phong kiến đang bắt đầu có dấu
hiệu suy yếu, và có sự xuất hiện manh nha của nền kinh tế Tƣ bản chủ nghĩa. Sự
tƣớc đoạt tƣ liệu sản xuất của nông dân tại chỗ cũng nhƣ lợi nhuận thƣơng mãi trong
vùng dƣờng nhƣ không thể đáp ứng đủ nhu cầu của xã hội đang phát triển. Cho nên,
các thƣơng nhân phƣơng Tây muốn vƣơn tới những vùng đất mới giàu tài nguyên,
hàng hóa quý hiếm có thể đƣa lại lợi nhuận cao và nhanh, nhằm xúc tiến sự định
hình của nền kinh tế Tƣ bản chủ nghĩa, đồng thời nâng cao địa vị chính trị của giai
cấp Tƣ sản.
Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế Tƣ bản chủ nghĩa ở Tây
Âu, công nghiệp đóng tầu và kỹ thuật hàng hải đã có những bƣớc tiến bộ lớn. Nhiều
loại máy móc, đồng hồ đƣợc sáng chế cho phép tính tƣơng đối chính xác kinh tuyến,
vĩ tuyến, tọa độ, hƣớng đi của các tàu Những điều kiện ấy đã cho phép các nhà
thám hiểm tổ chức những chuyến đi xa nhằm đáp ứng những nhu cầu của nền kinh

tế mới. Năm 1497, Vasco de Gama – nhà hàng hải Bồ Đào Nha đã khám phá ra
đƣờng đi sang Ấn Độ bằng cách đi qua mũi Hải Vọng; năm 1500, Alvares Cabral
tìm ra Brasilia. Cuộc thám hiểm của Christophe Colomb đã tìm ra châu Mỹ. Bên
cạnh đó còn có các cuộc thám hiểm của Anh, Pháp Sự tồn tại của một tân lục địa
mới (Châu Mỹ) cũng nhƣ con đƣờng ngắn nhất để đến vùng Viễn Đông của các nhà
thám hiểm đã khẳng định địa vị của các nƣớc Tây Âu trên bản đồ thế giới [36/12 –
13].
Các cuộc phát kiến địa lý đó đã thúc đẩy các nhà chinh phục muốn tìm kiếm sự
nghiệp và một cuộc sống mới ở các miền đất lạ, và các thƣơng nhân hăm hở đi tìm
những thị trƣờng mới. Cuộc chạy đua đó đã dẫn tới hiện tƣợng các nƣớc phƣơng
Tây xô nhau đi xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trƣờng. Trong các cuộc thám
14

hiểm và chạy đua xâm lƣợc thuộc địa đó không chỉ có mặt của các nhà chinh phục
và các thƣơng nhân, mà còn thấy có mặt thƣờng xuyên và đông đảo các giáo sĩ của
các nƣớc phƣơng Tây đƣợc phái đi theo để thực hiện xứ mệnh truyền bá đạo Thiên
chúa. Cuộc truyền bá Thiên chúa giáo La Mã trên thế giới vẫn chủ yếu nằm dƣới sự
đỡ đầu và điều hành của ba quốc gia lớn là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Pháp.
Thế kỷ XVI – XVII, giáo hội Thiên chúa giáo La Mã đã mở rộng việc truyền
đạo ra khắp ba châu lục: Á, Phi, Mỹ. Sang thế kỷ XVIII, giáo hội Thiên chúa giáo
La Mã bị trào lƣu tƣ tƣởng triết học mới của giai cấp Tƣ sản phƣơng Tây đả kích
mạnh mẽ, và lại bị tấn công dữ dội trong cách mạng Tƣ sản Pháp 1789, hầu hết các
giáo đoàn Thiên chúa giáo bị giải thể, khiến cuộc truyền giáo trên thế giới bị chậm
lại một thời gian dài. Tuy nhiên, từ sau thỏa hiệp ký kết giữa Napoléon I với tòa
thánh La Mã năm 1801, và sự ra đời tác phẩm Tinh thần Cơ Đốc giáo (Génie du
Christianisme) của Chateaubriand năm 1802, ca ngợi tính nhân văn của tôn giáo
này, thì vị thế của Thiên chúa giáo đƣợc phục hồi, các dòng tu, giáo đoàn đƣợc hoạt
động trở lại, việc truyền giáo ra ngoài Châu Âu tiếp tục đƣợc đẩy mạnh.
Nhƣ vậy, việc truyền bá đạo Thiên chúa luôn gắn bó mật thiết với các cuộc
thám hiểm, và sau này là cuộc xâm lƣợc thuộc địa, cũng nhƣ công cuộc thực dân ở

các vùng đất ngoại của giai cấp Tƣ sản phƣơng Tây. Để có thể thực hiện đƣợc các
cuộc truyền giáo ra vùng đất ngoại thì cần có sự giúp đỡ về vật chất của các quốc
gia Thiên chúa giáo có nền kinh tế Tƣ bản sớm phát triển nhƣ: Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha và Pháp. Các quốc gia này đã đứng ra tổ chức và tài trợ cho các đoàn
truyền giáo từ việc chuyên chở, nuôi dƣỡng, bảo vệ cho các giáo đoàn đến cả việc
phải cung cấp cho họ những tiền bạc, những tặng phẩm quý để họ lấy lòng các vua
chúa bản địa. Chính vì thế các giáo sĩ thừa sai trả ơn các việc làm đó bằng cách làm
một số việc có lợi cho quốc gia đó nhƣ cung cấp cho các nhà chức trách những
thông tin quan trọng về mọi mặt của miền đất truyền đạo hay làm môi giới cho việc
buôn bán giữa thƣơng nhân nƣớc ấy với bản địa và trong nhiều trƣờng hợp, họ đã
tạo cớ cho một cuộc xâm lƣợc vũ trang với tƣ cách là để bảo vệ các giáo sĩ thừa sai,
bảo vệ giáo dân đang bị chính quyền bản địa gây khó dễ. Đặc biệt, việc mở rộng sự
truyền bá đạo Thiên chúa ra phạm vi toàn thế giới từ thế kỷ XV đến XIX đã có sự
gắn kết chặt chẽ với sự bành trƣớng thế lực của chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây thể
hiện ở động cơ và vai trò của nó trong sự hợp thức hóa chủ nghĩa thực dân và có
phần đóng góp quan trọng vào thành công của sự bành trƣớng thực dân này [36/38].
15

1.1.1.2. Quá trình truyền bá đạo Thiên chúa vào Việt Nam
Bắt đầu từ thế kỷ XV, vùng Viễn Đông là nơi lui tới của nhiều đoàn thám hiểm,
các thƣơng nhân và các giáo sĩ đến từ phƣơng Tây, để buôn bán, truyền đạo rồi qua
đó chiếm đất đai vùng này làm thuộc địa. Philippines đã trở thành thuộc địa của Tây
Ban Nha (1527), còn các giáo sĩ Bồ Đào Nha, lúc này chủ yếu thuộc dòng Jésuite
2

đã thâm nhập vào Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản Việt Nam tuy nằm trong khu vực
Viễn Đông, song cũng chƣa đƣợc các giáo sĩ quan tâm. Việc truyền bá đạo Thiên
chúa vào Việt Nam mới đƣợc coi thực sự là bắt đầu từ năm 1615 khi trung tâm
truyền giáo của Bồ Đào Nha cử hai giáo sĩ Francois Bujomi và Diego Carvalho sang
Hải Phố thuộc tỉnh Quảng Nam để truyền giáo. Sở dĩ hai giáo sĩ này sang Hải Phố là

do lúc này ở Nhật đang có cuộc bắt đạo rất gắt, các giáo dân Nhật Bản đã đến đây
cƣ trú, thêm vào đó, ở đây cũng có nhiều thƣơng nhân Nhật Bản có đạo đến buôn
bán. Cho nên, hai giáo sĩ trên thay vì đi Nhật, họ đƣợc cử sang Hải Phố để duy trì
đời sống đạo của những ngƣời này. Nhân đó, họ (hai giáo sĩ trên) có nhiệm vụ khai
thác thuận lợi để tiến hành cuộc truyền giáo ở đây, nhƣ một thƣơng nhân Bồ Đào
Nha cho biết về “một triển vọng tốt đẹp của việc cải giáo cho vƣơng quốc này”
[36/51]. Và họ đã đạt đƣợc kết quả tốt đẹp, sau một năm với ba trăm ngƣời Việt đã
cải giáo. Trƣớc tình hình thuận lợi đó, sáu giáo sĩ đã đƣợc gửi sang Đàng Trong từ
Ma Cao vào năm 1624, trong đó có giáo sĩ Alexandre de Rhodes – “ngƣời có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng nền móng cho giáo hội Thiên chúa giáo La
Mã ở Việt Nam, ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài trong nửa đầu thế kỷ XVII”
[36/52].
D. Rhodes đã mở ra một trang sử mới trong sự phát triển của Thiên chúa giáo ở
Viễn Đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng khi ông có công to lớn trong cuộc
vận động tòa thánh La Mã cử các thế diện tông tòa ngƣời Pháp đảm đƣơng việc
truyền giáo ở Viễn Đông (1658) khi mà Bồ Đào Nha không còn đủ sức đảm đƣơng,
và sự ra đời của Hội Thừa sai Paris (1663) nhằm đào tạo các giáo sĩ thừa sai ngƣời
Pháp đi làm nhiệm vụ truyền giáo ở vùng này.
Sau cuộc vận động của tòa thánh Vatican đến năm 1658, Giáo hoàng đã đồng ý
cử các giáo sĩ Pháp sang Viễn Đông với điều kiện họ phải tự lo liệu về mặt vật chất
và phƣơng tiện đi lại. Ba giáo sĩ quốc tịch Pháp là Pallu, Lambert, Cotolendi đƣợc

2
: Dòng tu do Ignace de Loyola (ngƣời Tây Ban Nha) thành lập năm 1534, là dòng tu chiến đấu chống
lại dị giáo, tuyệt đối trung thành với Giáo hoàng [36/14]
16

cử làm thế diện Tông tòa ở Viễn Đông. Do không thể vận động thành lập một công
ty thƣơng mại để buôn bán và chuyên chở các giáo sĩ nên họ phải đi bộ sang Viễn
Đông. Cotolendi đã bị chết giữa đƣờng còn hai giáo sĩ trên, Lambert đến Thái Lan

vào năm 1662 và Pallu đến năm 1664. Tuy nhiên, trƣớc khi đi Viễn Đông, vào tháng
10 năm 1663, Pallu đã cùng các giáo sĩ Pháp đứng ra thành lập hội Thừa sai Paris
với việc đào tạo các giáo sĩ thừa sai để gửi đi Viễn Đông. Hội Thừa sai Pari đƣợc
nhà vua Pháp Louis XIV và các nhà quyền quý nhiệt liệt ủng hộ cả về vật chất lẫn
tinh thần. Điều này đánh dấu một bƣớc ngoặt lớn của cuộc truyền bá đạo Thiên chúa
vào Việt Nam. Kể từ đây, nƣớc Pháp nắm độc quyền truyền giáo cũng nhƣ bành
trƣớng thế lực ở đây [36/57]. Nhƣ theo Thomazi nhận xét trong tác phẩm Sự chinh
phục xứ Đông Pháp nói: “Họ là những ngƣời giúp đỡ đắc lực nhất cho một chính
sách thuộc địa Pháp, nếu không phải chính họ là những ngƣời đề xƣớng ra chính
sách đó” [22/324]. Hai phƣơng diện truyền giáo và bành trƣớng thế lực đó không hề
tách rời trong nhận thức và hành động của các giáo sĩ thừa sai Pháp đến truyền giáo
ở Việt Nam.
Trong cuộc đời hoạt động của Pallu, mặc dù chƣa đƣợc đặt chân đến Việt Nam,
nhƣng Pallu cũng nhƣ Lambert đã có đƣợc những thành tựu lớn đóng góp vào cuộc
truyền giáo ở Việt Nam. Từ nửa sau thế kỷ XVII đến hết thế kỷ XVIII, mặc dù có
những trở ngại lớn nhƣ chiến tranh và việc cấm đạo của các triều đại Phong kiến,
việc truyền đạo vẫn đƣợc duy trì và mỗi khi có cơ hội thuận lợi lại đƣợc đẩy mạnh
và tiến triển dần dần.
Quá trình truyền bá đạo Thiên chúa vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XV tuy vẫn
chƣa tạo đƣợc nhiều thay đổi đáng kể trên bình diện đời sống văn hóa tinh thần của
cƣ dân ngƣời Việt. Trong mấy trăm năm đó, Thiên chúa giáo mới chỉ bắt rễ vào
những ngƣời dân nghèo khổ và địa vị thấp kém, cho nên, suốt thời gian đó “Thiên
chúa giáo ở Việt Nam chỉ tồn tại nhƣ một thứ tín ngƣỡng ít nhiều nguyên thủy mà
không phải nhƣ một trong những tôn giáo có hệ thống giáo lý và hệ tƣ tƣởng thần
học phát triển vào bậc nhất các tôn giáo thế giới nhƣ nó vốn đạt tới trong thực tế”
[70/401]. Tuy nhiên, với sự du nhập của Thiên chúa giáo vào Việt Nam đã bƣớc đầu
hình thành lên cộng đồng giáo dân bản xứ mà nó sẽ có tác động to lớn và lâu dài
trong bƣớc ngoặt của đời sống tinh thần ngƣời Việt.
1.1.2. Đạo Thiên chúa và sự bành trướng thuộc địa của Pháp tại Việt Nam
17


Trong thời kỳ lịch sử các giáo sĩ thừa sai của các dòng đạo ở phƣơng Tây tìm
luồng thƣơng mãi của nƣớc này hay nƣớc khác, ngoài việc truyền đạo còn phải quan
tâm thực hiện những gì có lợi cho những mục đích của nƣớc đã cử họ đi. Và, đóng
góp quan trọng của các giáo sĩ thừa sai với lợi thế của họ, là môi giới cho việc
thƣơng mãi, cung cấp những thông tin nhiều mặt phục vụ đắc lực cho cuộc thực dân
của các nƣớc phƣơng Tây. A.de Rhodes đã cung cấp những thông tin về tài nguyên
và khả năng giao thƣơng nhƣ sau: “Đây là chỗ nên chiếm lấy, nếu đến lập cơ sở
buôn bán ở đây, các lái buôn Âu Châu sẽ tìm thấy một nguồn lợi nhuận và của cải
dồi dào” [36/121].
Nhƣ vậy, A.de Rhodes cũng nhƣ các giáo sĩ thừa sai phƣơng Tây, ngoài việc
truyền đạo thì việc làm của họ cũng đã đóng góp cho sự bành trƣớng của các thế lực
phƣơng Tây. Đặc biệt, sau này, một số giáo sĩ của Hội thừa sai Paris sẽ tham gia
trực tiếp vào công việc chính trị ở Việt Nam. Khởi đầu của sự bành trƣớng thế lực
của Pháp tại Việt Nam là các Thế diện tộng tòa và giáo sĩ thừa sai Pháp. Khi họ ở
Việt Nam, song song với sự điều hành việc đạo thì họ cũng luôn quan tâm tới việc
tạo điều kiện thuận lợi nhƣ cung cấp thông tin, vạch kế hoạch cho sự bành trƣớng
thế lực của Pháp tại Việt Nam.
Lambert và Pallu là những ngƣời tiên phong dẫn dắt thực dân Pháp thâm nhập
vào Việt Nam. Các hoạt động truyền giáo của Lambert và Pallu luôn luôn gắn liền
với yêu cầu bành trƣớng thế lực thực dân Pháp. Bên cạnh Lambert và Pallu có hai
giáo sĩ cùng đi sang Viễn Đông là Bourges và Deyblier. Hai giáo sĩ này có quan hệ
mật thiết với công ty Đông Ấn ở Ấn Độ
3
, họ luôn đề cao uy thế của Pháp và ra sức
hoạt động tạo điều kiện thuận lợi cho thƣơng nhân Pháp xâm nhập Việt Nam. Cơ
hội thuận lợi đã đến vào những năm 70 của thế kỷ XVIII, khi giáo mục Pigneau (Bá
Đa Lộc) thiết lập đƣợc mối quan hệ chặt chẽ với Nguyễn Ánh. Pigneau thay mặt
Nguyễn Ánh cầu viện Pháp, ký kết với Pháp hiệp ƣớc Versailles 1787, rồi sau đó ra
sức giúp Nguyễn Ánh phục hồi ngôi vua, đánh dấu sự can thiệp trực tiếp của chính

quyền Pháp vào nội bộ chính trị Việt Nam.
1.1.2.1. Công cuộc truyền giáo với sự bành trƣớng thế lực của thực dân Pháp
tại Việt Nam đến nửa đầu thế kỷ XIX

3
: Công ty Đông Ấn thành lập năm 1664 với mục đích truyền giáo và thƣơng mại. Những thƣơng điếm
của công ty là căn cứ của hội truyền giáo. Nếu ở trên bộ thì các giáo sĩ giả làm con buôn, mà thực tế
thì họ cũng buôn bán ít nhiều [22/324].
18

Khi Pigneau trở lại Hà Tiên lần thứ hai cũng là lúc tình hình Đàng Trong đang
rối loạn, Nguyễn Ánh đang bị quân Tây Sơn truy đuổi. Nhân đó, Pigneau đã dự kiến
một kế hoạch lớn là giúp Nguyễn Ánh đánh đuổi nhà Tây Sơn, dành lấy ngôi vua.
Bằng sự giúp đỡ đó, “Đức cha muốn phục hƣng một triều đại, nhƣ thế, chế độ mới
tất yếu phải dành cho giáo hội quyền tự do truyền giáo, tự do ấy đƣợc đảm bảo
bằng sự có mặt của ngƣời Pháp, đồng thời cũng đem lại những lợi ích không kém
thiết thực cho đất nƣớc ông” [11/29]. Pigneau mong rằng Nguyễn Ánh sẽ cải giáo
và biến Đàng Trong thành một quốc gia Thiên chúa giáo thuộc Pháp.
Sau khi giúp Nguyễn Ánh trốn thoát khỏi quân Tây Sơn ra đảo Phú Quốc,
Pigneau thực sự trở thành cố vấn của Nguyễn Ánh kể từ đó. Pigneau đã khuyên
Nguyễn Ánh tha cấm đạo, giảm thuế cho dân, trừng trị bọn tham quan, tập hợp thêm
lực lƣợng để tổ chức một đội hải quân mạnh. Vị linh mục này cũng đã ra sức giúp
đỡ Nguyễn Ánh tổ chức lại quân sự, xây pháo đài, huấn luyện binh lính theo phƣơng
pháp Âu Châu, tổ chức cho Nguyễn Ánh đội quân tình nguyện ngƣời Hoa trấn giữ
Bình Thuận và Phú Yên [36/137]. Sau nhiều lần bị tấn công bởi nhà Tây Sơn, quân
đội của Nguyễn Ánh dƣờng nhƣ bị tan rã hoàn toàn ngay cả khi đã cầu viện một số
nƣớc ngoài. Đứng vào bƣớc đƣờng cùng, Nguyễn Ánh đã đồng ý với Pigneau cầu
viện nƣớc Pháp và đã đƣợc Tòa thánh La Mã ủng hộ. Hành động của Pigneau đã
thực sự minh chứng về vai trò giữa việc truyền giáo với việc tham gia vào bộ máy
chính trị, mà đây không phải là nhiệm vụ của một vị linh mục truyền giảng Phúc âm,

cho nên, Pigneau đã vấp phải sự phản kháng của những ngƣời Bồ Đào Nha.
Tháng 2 năm 1787, Pigneau đến Pháp, đầu tháng 5 ông đƣợc yết kiến vua cùng
với sự có mặt của Bá tƣớc Montmorin và thống chết De Castries. Trong buổi gặp,
Pigneau đã trình bày ý kiến của mình xung quanh lợi ích của việc làm chủ đƣợc xứ
Đàng Trong. Đây là một vị trí thƣơng mãi và quân sự hết sức quan trọng đối với
việc củng cố và phát triển thế lực của Pháp ở Viễn Đông. Ông cho biết:
“Một căn cứ ngƣời Pháp ở Đàng Trong sẽ cho phép ta cân bằng đƣợc thế lực
đối với nƣớc Anh trong việc kiểm soát vùng Ấn Độ, sẽ tìm thấy ở đây nguồn của cải
đảm bảo hơn, sự viện trợ gần gũi hơn là sự viện trợ mà ta buộc phải trông chờ từ
Châu Âu, cho phép ta thống trị cả vùng biển Trung Hoa và các bán đảo của nó, và,
sau hết là làm chủ sự thƣơng mãi của cả miền này. Chúng ta sẽ có một địa điểm an
toàn để đỗ tàu trong trƣờng hợp có chiến tranh, để sửa chữa tàu với giá rẻ và ngay
cả đóng những cái mới. Căn cứ này cũng còn cho ta những phƣơng tiện dễ dàng để
19

tiếp tế cho các hạm đội của chúng ta và cung cấp cho các thuộc địa Ấn Độ Dƣơng
và Phi Châu của chúng ta những hàng hóa thật cần thiết.
Nhƣ vậy, chúng ta sẽ có trong tay mọi phƣơng tiện có hiệu quả không những để
ngăn cản ngƣời Anh trong ý đồ đẩy chúng ta ra khỏi Ấn Độ để bành trƣớng thế lực
của họ về phía Đông, mà còn làm cho họ sau này phải run sợ ngay ở Bengale, vị trí
then chốt của thế lực của họ, miễn sao cái căn cứ Đàng Trong ấy đƣợc mọi ngƣời
hiểu rõ và thực hiện đúng mức ” [36/141 – 142].
Những lời thuyết phục dài ngày cuối cùng cũng đã đạt đƣợc kết quả, ngày 28
tháng 11 năm 1787, đại diện cho nhà vua Pháp – Bá tƣớc Montmorin đã ký một bản
điều ƣớc tƣơng trợ với Pigneau – đại diện cho nhà vua Đàng Trong. Trong đó có
quy định một số điều nhƣ: vua Pháp sẽ viện trợ cho vua Đàng Trong lấy đƣợc ngai
vàng; bù lại, vua Đàng Trong sẽ phải nhƣợng bộ cho ngƣời Pháp quyền sở hữu cửa
biển Đà Nẵng và đảo Côn Lôn; ngƣời dân nƣớc Pháp có quyền đƣợc tự do buôn
bán; tất cả mọi tàu bè của nƣớc ngoài đi lại, buôn bán ở đây đều phải đặt dƣới quyền
bảo trợ của nƣớc Pháp Tuy nhiêu, điều ƣớc đã không đƣợc thi hành bởi cuộc cách

mạng ở Hà Lan và nguồn tài chính của Pháp đang bị hao hụt.
Thất bại trong dự mƣu tổ chức một cuộc can thiệp vũ trang vào Việt Nam,
Pigneau lập một kế hoạch mới để giúp Nguyễn Ánh với ý đồ tự mình làm lên
chuyện lớn, tạo ra những điều kiện thuận lợi để xác định vị thế của Pháp tại Đàng
Trong. Với số tiền ba trăm nghìn livres của Bộ ngoại giao cấp và hai triệu francs của
vua Louis XVI cho, Pigneau mua súng đạn, mua chuộc binh lính, xúi giục họ đảo
ngũ để theo Pigneau về Đàng Trong. Ngày 24 tháng 7 năm 1789, Pigneau trở về
Đàng Trong, từ đó Pigneau ra sức giúp đỡ Nguyễn Ánh khôi phục lại cơ đồ trong
mƣời năm cuối cùng của đời mình. Mặc dù bị lôi cuốn vào con đƣờng chính trị,
Pigneau vẫn không quên nhiệm vụ của một vị linh mục Thiên chúa giáo. Pigneau
vẫn ra sức lôi kéo Nguyễn Ánh theo đạo, thuyết phục Nguyễn Ánh công nhận Thiên
chúa giáo là tôn giáo ƣu việt. Ông cũng tận tâm dạy dỗ hoàng tử Cảnh với hy vọng
sẽ cải giáo Nhƣ vậy, với những việc làm của Pigneau de Béhaine, chúng ta có
thêm một dẫn chứng khá rõ ràng về mối quan hệ khá khăng khít giữa truyền giáo và
thực dân ở Việt Nam.
Bƣớc sang đầu thế kỷ XIX, chính quyền Tƣ sản Pháp đã quan tâm trở lại vấn
đề bành trƣớng thuộc địa mà Việt Nam là một trọng điểm. Và cũng chính các giáo sĩ
thừa sai Pháp đã tạo cớ cho Pháp thực hiện cuộc xâm lƣợc Việt Nam.
20

Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại quân Tây Sơn, lên ngôi Hoàng đế, trong thời
gian ở ngôi của mình, vua Gia Long đã để cho việc truyền đạo đƣợc tự do. Song, nó
là sự đe dọa cho sự ổn định của chế độ Phong kiến ở Việt Nam. Từ vua Minh Mạng
ngày càng nhận rõ nguy cơ bên trong cũng nhƣ sự đe dọa từ bên ngoài của sự truyền
giáo kết hợp với sự bành trƣớng thế lực thực dân phƣơng Tây. Từ vua Minh Mạng
đến vua Thiệu Trị, những sắc lệnh cấm giáo sĩ truyền giáo và giáo dân theo đạo
đƣợc ban hành. Tuy nhiên các giáo sĩ Pháp không những không tuân theo mà càng
hoạt động mạnh, các giáo dân vẫn kiên trì với đạo, che giấu giáo sĩ, ngang nhiên đối
đầu với chính quyền. Do đó mà chính sách cấm đạo của triều Nguyễn ngày trở lên
gay gắt dẫn tới sự đổ máu đáng tiếc của giáo sĩ và giáo dân. Trƣớc tình hình đó, các

giáo sĩ thừa sai Pháp đã kêu gọi sự giúp đỡ của chính quốc dẫn tới sự can thiệp của
Pháp vào Việt Nam
4
.
Tự Đức lên ngôi, việc cấm đạo trở lên gay gắt hơn. Các giáo sĩ đã khẩn thiết
cầu cứu nhà vua Pháp. Napoléon III đã can thiệp vào Việt Nam, cử Montigny đi
xem xét tình hình ở Viễn Đông, đồng thời có nhiệm vụ đến Việt Nam đƣa yêu cầu
đƣợc thông thƣơng và đòi hỏi nhà vua Việt Nam phải đảm bảo an toàn cho các giáo
sĩ. Sau những cuộc gặp gỡ giữa Montigny với triều đình Huế bị thất bại, Napoléon
III quyết định can thiệp vũ trang vào Việt Nam. Nhƣng những ngƣời tích cực thúc
đẩy chính quyền Pháp thực hiện cuộc viễn chinh lại chính là các giáo sĩ thừa sai
Pháp mà tiêu biểu là hai giáo sĩ Huc và Pellerin
5
.
Trong thƣ văn gửi lên hoàng đế, linh mục Huc đã nêu những thuận lợi về chiến
lƣợc, kinh tế, thƣơng mại và tôn giáo khi Pháp chiếm Việt Nam: “Đà Nẵng nằm
trong tay ngƣời Pháp sẽ là một hải cảng không ai tấn công nổi và là cứ điểm quan
trọng nhất để chế ngự Bắc Á”, và “Lãnh thổ Cochinchine (Việt Nam) màu mỡ có thể

4
: Sự can thiệp của Pháp vào Việt Nam thể hiện rõ nhất bắt đầu từ tháng 2/1843, khi đƣợc tin triều đình
Huế giam giữ năm giáo sĩ Pháp (Galy, Berneux, Charrier, Miche và Duclos), Favin Lévêque đem tàu
đến Đà Nẵng yêu cầu đƣợc gặp quan trấn thủ để thƣơng lƣợng. Lévêque đòi tha năm giáo sĩ Pháp và
đe dọa sẽ làm dữ. Trƣớc tình hình đó, triều đình đã giao năm giáo sĩ này cho Lévêque. Tuy nhiên, ba
trong năm giáo sĩ trên đã quay lại Việt Nam hoạt động, chỉ có hai giáo sĩ về Pháp.
Năm 1844, giáo sĩ Lefèbre – phó giám mục địa phận Nam Kỳ Hạ bị bắt giam đã gửi thƣ cầu cứu
Cécille – chỉ huy hạm đội Pháp ở Đông Hải. Lefèbre đƣợc tha nhƣng sau đó lại trở lại Nam Kỳ.
Lefèbre một lần nữa lại bị bắt và giải về Huế. Lần này, vua Thiệu Trị ra lệnh trục xuất Lefèbre cho
ngƣời dẫn về Singapore năm 1847. Tƣởng rằng Lefèbre chƣa đƣợc tha, đô đốc Cécille cử hải quân
đại tá Lapierre cùng với R.De.Genouilly đem hai chiến hạm đến Đà Nẵng bắn phá năm chiếc thuyền

đồng của triều đình, làm chết và bị thƣơng khá nhiều binh lính nhằm mục đích đòi thả tự do cho
Lefèbre và đòi đƣợc tự do truyền đạo [36/151 – 152].
5
: Linh mục Huc là hội viên của Hội thánh Lazarre, cựu sứ bộ tòa thánh ở Trung Quốc, Tartarie và Tây
Tạng, đồng thời là tác giả của sách Gia Tô giáo ở Trung Quốc, Tartarie và Tây Tạng. Giám mục
Pellerin là giám mục địa phận Đàng Trong [61/50]
21

sánh vai với các vùng nhiệt đới giàu có nhất. Xứ này thích hợp cho việc trồng trọt
mọi sản phẩm thuộc địa. Các sản phẩm chính và phƣơng tiện trao đổi hiện có là
đƣờng, gạo, gỗ xây dựng, ngà voi, v.v ; sau hết là vàng và bạc mà các mỏ rất
phong phú đã đƣợc khai thác từ lâu” [61/50]. Thêm nữa là: “Dân chúng hiền hòa,
cần mẫn, rất dễ dãi đối với việc truyền bá đức tin Gia Tô chỉ cần một ít thời gian
là có thể cải hóa toàn bộ thành tín đồ Gia Tô và con dân trung thành với Pháp”
[61/51]. Còn giám mục Pellerin viết về tình trạng của các thừa sai và những ngƣời
theo đạo ở Việt Nam nhƣ sau: “Xin Hoàng thƣợng cho phép hạ thần nhắc lại một
lần nữa về những ngƣời mới cải đạo khốn khổ ở xứ Cochinchine và các thừa sai
Pháp ở nƣớc An Nam; hiện giờ máu họ đang đổ và tình cảnh họ còn kinh khủng hơn
từ khi có cuộc vận động sau chót của nƣớc Pháp. Nếu bây giờ chẳng ai làm gì cả
cho chúng tôi, e rằng Gia Tô giáo sẽ bị tận diệt tại các vùng đất có vẻ rất sẵn sàng
đón nhận ân đức của tôn giáo này và của văn minh Chúng tôi kính xin Hoàng
thƣợng đừng bỏ rơi chúng tôi. Điều mà Hoàng thƣợng ban cho chúng tôi sẽ khiến
cho ân phúc của Thiên chúa ban xuống cho Hoàng thƣợng và triều đại huy hoàng
của Hoàng thƣợng ”[61/53]. Rõ ràng, những lời thỉnh cầu của hai vị linh mục trên
chứng tỏ họ rất mong muốn một cuộc viễn chinh thuộc địa vì: “Nó nhằm xây dựng
một thuộc địa Pháp vĩnh viễn ở góc này của Viễn Đông” [61/53].
Thêm vào đó là lời tuyên bố của hai vị linh mục này trƣớc Ủy ban Nam Kỳ là
cuộc xâm lăng này thật dễ dàng khi có tới 600.000 con chiên bản xứ, tuyệt đối trung
thành với những thừa sai sẽ giúp đỡ ngƣời Pháp, và đặc biệt là dân chúng – những
ngƣời bị đè nén dƣới sự áp bức của triều đình và quan lại Huế, sẽ tiếp đón ngƣời

Pháp nhƣ những ngƣời giải phóng. Trƣớc lời thỉnh cầu tha thiết của hai vị linh mục
trên, thái độ của Ủy ban Nam Kỳ đã rất tán thành cuộc viễn chinh. Và vào ngày 1
tháng 9 năm 1858, tiếng súng đại bác của liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã nổ ra tại
cửa biển Đà Nẵng, mở màn cho cuộc xâm lƣợc Việt Nam. Lúc này, các giáo sĩ thừa
sai vẫn là những ngƣời cộng tác nhiệt tình và đắc lực cho thực dân Pháp.
1.1.2.2. Những mƣu toan chính trị của các thừa sai nửa cuối thế kỷ XIX
Trƣớc những lời thỉnh cầu và lời hứa về một triển vọng khá tốt đẹp của một
cuộc viễn chinh vào Viễn Đông, Rigault de Genouilly lên đƣờng đến Nam Kỳ với
sứ mệnh bảo vệ sự truyền giáo của các thừa sai (bảo vệ bằng súng và đại bác) và
mang ánh sáng văn minh đến cho dân tộc Việt Nam. Nhân dịp này, ông thăm dò khả
năng thiết lập một chế độ bảo hộ tại Nam Kỳ.

×