Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Nông thôn trong tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 117 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




PHẠM VĂN THIỆU




NÔNG THÔN TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA HOÀNG MINH TƢỜNG







LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam









Hà Nội, 2014

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





PHẠM VĂN THIỆU




NÔNG THÔN TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA HOÀNG MINH TƢỜNG




Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21




Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS Tôn Phƣơng Lan






Hà Nội, 2014

3
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành được luận văn này không chỉ là những nỗ lực cá nhân của
người viết mà còn có sự giúp đỡ to lớn của các thầy, cô trong khoa Văn học
nói chung và PGS.TS Tôn Phương Lan nói riêng.
Trước tiên chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS Tôn
Phương Lan. Cô là người đã tận tình chỉ bảo trong quá trình chọn đề tài, đồng
thời là người cố vấn khoa học vô cùng quan trọng, giúp cho người viết luận
văn có thể hoàn thành được nhiệm vụ. Chúng tôi cũng gửi lời cảm ơn tới các
thầy, cô trong khoa Văn học đã tạo điều kiện, giúp đỡ về mặt tư liệu cũng như
những góp ý quý báu trong quá trình thực hiện đề tài.
Cuối cùng chúng tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã giúp đỡ về mặt
tư liệu cũng như hoàn thiện khâu đánh máy để luận văn này có thể hoàn thành
được như ngày hôm nay.

Hà Nội, Ngày tháng năm
Tác giả luận văn


Phạm Văn Thiệu

4
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của
cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS Tôn
Phương Lan .
Tất cả những số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong
luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về các kết quả nghiên cứu của mình

Học viên

Phạm Văn Thiệu

5
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 7
1.1. Lý do chọn đề tài 7
1.2. Lịch sử vấn đề 8
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 13
1.4. Phương pháp nghiên cứu 14
1.5. Cấu trúc của luận văn 14
NỘI DUNG 15
Chƣơng 1: TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN TRONG NỀN TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 15
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam và diện mạo của tiểu thuyết viết về nông thôn 15
1.1.1. Sự hình thành và vận động của tiểu thuyết Việt Nam 15
1.1.2. Tiểu thuyết viết về đề tài nông thôn trong tiểu thuyết Việt Nam thời
kỳ đổi mới. 21
1.2. Tiểu thuyết viết về nông thôn của Hoàng Minh Tƣờng trong bức
tranh chung của tiểu thuyết viết về nông thôn thời kỳ đổi mới 24
1.2.1. Đôi nét về cuộc đời và văn nghiệp của Hoàng Minh Tường 24

1.2.2. Tiểu thuyết viết về nông thôn của Hoàng Minh Tường 25
1.2.3. Hoàng Minh Tường trong tương quan với một số tác giả viết về
nông thôn sau đổi mới 28
Chƣơng 2: NÔNG THÔN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA HOÀNG MINH
TƢỜNG NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG 33
2.1. Góc nhìn mới về hiện thực nông thôn của Hoàng Minh Tƣờng 33
2.1.1. Hiện thực nông thôn dưới góc nhìn lịch sử - xã hội 33
2.1.1.1. Quá trình chuyển mình từ kinh tế tập thể sang kinh tế hộ gia đình 34
2.1.1.2. Hình ảnh nông thôn từ mô hình bao cấp sang kinh tế thị trường 41
2.1.2. Hiện thực nông thôn được tái hiện dưới góc nhìn văn hóa 45
2.1.2.1. Mô hình làng truyền thống đang bị phá vỡ 47

6
2.1.2.2. Sự thay đổi chức năng và đặc điểm của mô hình gia đình Việt . 53
2.2. Các kiểu con ngƣời trong tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc và Đồng sau bão 58
2.2.1. Con người trung thực 60
2.2.2. Con người tha hóa 64
2.2.3. Con người bi kịch 68
2.2.4. Con người mới mang phong cách thị dân 72
Chƣơng 3: NÔNG THÔN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA HOÀNG MINH
TƢỜNG NHÌN TỪ PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN 77
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 77
3.1.1. Những thủ pháp truyền thống 77
3.1.1.1. Xây dựng nhân vật thông qua ngoại hình 77
3.1.1.2. Xây dựng nhân vật thông qua đời sống nội tâm 79
3.1.2. Những tìm tòi mới trong nghệ thuật xây dựng nhân vật 81
3.2. Không gian - thời gian nghệ thuật 85
3.2.1. Không gian – thời gian hiện thực đời thường 86
3.2.2. Không gian – thời gian hồi tưởng 90
3.2.3. Không gian – thời gian tâm linh. 94

3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật 97
3.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật 97
3.3.1.1. Ngôn ngữ mang phong cách riêng biệt 98
3.3.1.2. Ngôn ngữ nội tâm 101
3.3.2. Giọng điệu nghệ thuật 103
3.3.2.1. Giọng điệu giễu nhại, hài hước 103
3.3.2.2. Giọng điệu buồn thương 107
KẾT LUẬN 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO 113

7
MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Đề tài nông thôn vốn là một đề tài truyền thống trong văn học, là mảng hiện
thực ghi danh nhiều tác giả, tác phẩm tiêu biểu trong văn học Việt Nam. Không
chỉ vậy, với một nước đi lên từ nông nghiệp, dân số hơn 70% là nông dân như
Việt Nam thì đề tài nông thôn luôn có nhiều khoảng trống hứa hẹn và thu hút sự
quan tâm của nhiều thế hệ cầm bút. Thành tựu văn học trong mảng đề tài về
nông thôn đã ghi danh nhiều truyện ngắn, nhiều tiểu thuyết nổi tiếng của nhiều
thế hệ nhà văn khác nhau như: Chí Phèo, Lão Hạc (Nam Cao), Làng (Kim Lân),
Thư nhà (Hồ Phương), Mưa mùa hạ (Ma Văn Kháng), Mảnh đất lắm người
nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không chồng (Dương Hướng), Lão Khổ
(Tạ Duy Anh), Thời xa vắng (Lê Lựu) Trong số những nhà văn viết thành
công về mảng đề tài này không thể không nhắc tới nhà văn Hoàng Minh Tường.
Hoàng Minh Tường thuộc thế hệ nhà văn hậu chiến. Trong ba mươi năm cầm
bút, ông đã có một sự nghiệp văn chương khá lớn với mười ba tiểu thuyết, chín
tập truyện ngắn, năm tập bút kí, phóng sự. Tiểu thuyết là mảng ông có nhiều
thành tựu và Thủy hỏa đạo tặc là tác phẩm đã được hội Nhà văn Việt Nam trao
tặng giải thưởng . Có thể coi ông là nhà văn viết về nông thôn tiếp nối được
những nhà văn lớp trước và có một phong cách riêng. Trong những tác phẩm

của mình, Hoàng Minh Tường đã phản ánh chân xác những những biến đổi phức
tạp của đời sống nông thôn cũng như cuộc sống của người nông dân trên rất
nhiều khía cạnh của đời sống xã hội từ khi đất nước bắt đầu công cuộc đổi mới
(1986) và hội nhập với thế giới.
Từ năm 1975 tới nay, tiểu thuyết viết về nông thôn đã có sự đổi mới mạnh
mẽ từ cảm hứng, đề tài, cấu tứ, thi pháp để tạo nên cách nhìn và tái tạo hiện
thực đầy đủ, sinh động hơn so với tiểu thuyết giai đoạn trước. Sự nở rộ các tác
phẩm viết về nông thôn có giá trị đã tạo nên không khí văn học sôi động cũng
như làm nên một giai đoạn văn học thành công. Hoàng Minh Tường không phải

8
là nhà văn thời hậu chiến duy nhất viết và thành công với mảng đề tài này. Tuy
vậy chọn tiểu thuyết của nhà văn này làm đối tượng nghiên cứu chúng tôi hướng
tới hai mục đích chính sau. Thứ nhất, những đóng góp của nhà văn Hoàng Minh
Tường đối với tiểu thuyết sau đổi mới là không thể phủ nhận, thế nhưng cho tới
nay, những công trình nghiên cứu về tác phẩm của ông chưa nhiều, thiếu tính hệ
thống. Thứ hai, cách khai thác hiện thực nông thôn và xây dựng hình ảnh người
nông dân của nhà văn tuy không vượt trội hẳn so với nhiều nhà văn khác nhưng
có những điểm nhìn mới mẻ, riêng biệt.
Chính vì thế, chọn đề tài Nông thôn trong tiểu thuyết của Hoàng Minh
Tường chúng tôi sẽ đi tìm hiểu cách xây dựng hình ảnh nông thôn và người nông
dân của nhà văn này dưới góc nhìn lịch sử - xã hội, dưới góc nhìn văn hóa. Đồng
thời chúng tôi cũng xác định những thủ pháp nghệ thuật được nhà văn sử dụng
để tạo nên một hiện thực nông thôn khác so với những nhà văn cùng thế hệ. Qua
đó, chúng tôi mong muốn góp một cách nhìn khách quan và tương đối toàn diện
về bức tranh xã hội Việt Nam trong thời kì đổi mới, nhất là giai đoạn hội nhập
nền kinh tế thị trường với những vấn đề mà cho tới hiện nay, chưa bao giờ mất đi
tính thời sự. Từ đó đề tài hướng đến khẳng định tên tuổi nhà văn và phần nào
nhận diện được sự vận động phong phú của tiểu thuyết viết về nông thôn đương
đại. Trong phạm vi luận văn của mình, chúng tôi không có tham vọng giải quyết

tất cả vấn đề được đặt ra trong hệ thống tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường mà
chỉ chọn những tác phẩm tiêu biểu nhất để phân tích, tìm hiểu. Tuy thế, chúng
tôi cũng luôn cố gắng đặt vấn đề trong toàn bộ hệ thống tiểu thuyết của nhà văn
nói riêng và dòng chảy của văn xuôi giai đoạn sau đổi mới nói chung.
1.2. Lịch sử vấn đề
1.2.1. Những nghiên cứu chung về tác giả Hoàng Minh Tường
Bài viết của tác giả Dương Thị Kim Huệ với nhan đề Cái tôi tác giả trong
bút kí Canada màu phong đỏ đã chú trọng giải mã những biểu hiện phong phú về
bản ngã của văn sĩ họ Hoàng. Theo đó Hoàng Minh Tường: “Là một cây bút

9
giàu tài năng, có cá tính và đam mê sáng tạo nhưng Hoàng Minh Tường vẫn luôn
học hỏi, kế thừa tinh hoa của các bậc tiền bối văn chương. Trong số những thần
tượng mà ông ngưỡng mộ có: Nam Cao - một nhà văn có biệt tài miêu tả "con
người bên trong con người", Giắclơndơn - một nhà văn hành động, và đặc biệt
nhất là Nguyễn Tuân - một nghệ sĩ luôn "tôn thờ chủ nghĩa xê dịch", bậc thầy
của thể loại tùy bút. Hoàng Minh Tường tự coi mình là đệ tử trung thành của
Nguyễn Tuân. Bởi lẽ ông cũng là người luôn thích đi, ham đi và ham ghi chép.
Trong mỗi chuyến đi thực tế, ông thường là người luôn muốn đi đến tận cùng.
Khi có điều kiện đến bất kì đâu nhà văn đều muốn khám phá đến sơn cùng, thủy
tận” [58. Tr87].
Xuất hiện trên trang mạng bài viết Ngư Phủ - sức mạnh của người dân biển,
bút lực của nhà văn, tác giả Đặng Hiển đã khẳng định Ngư phủ là một tác phẩm
hay. Nó đại diện cho một nền văn học và chứng minh được tài năng của nhà văn.
“Đọc Ngư phủ, ta vui vì có trong tay mình cuốn tiểu thuyết hay. Nó chứng minh
sức sống của nền văn học hiện đại, sức bút của cây bút văn xuôi Hoàng Minh
Tường. Cuốn sách 299 trang đọc liền một mạch không nghỉ chẳng những vì có
nhiều chi tiết sống, nhiều tình tiết phong phú khéo cài đặt và thủ pháp kể chuyện
biến hoá, đa dạng, mà trước nhất vì cảm xúc yêu ghét của tác giả từ trái tim đầy
nhiệt huyết thắm đượm vào từng câu chữ, lay động lương tâm, dù vẫn phải tuân

thủ phương thức khách quan của thể loại tác phẩm”. [63].
Bài Phê bình tiểu thuyết Thời của thánh thần của tác giả Vũ Nho, nhà phê
bình đã khẳng định Hoàng Minh Tường là một người từng trải, có vốn sống,
kinh nghiệm, sự hiểu biết và một thái độ tập trung làm việc trên con đường nghệ
thuật của mình. Theo tác giả Vũ Nho thì tác phẩm vượt trội này sẽ được đón
nhận một cách nồng nhiệt bởi sự bứt phá mà ông cho là rất ngoạn mục của nó.
Nhà phê bình này viết: “Cải cách ruộng đất; đấu tranh chống Nhân văn Giai
phẩm, chống xét lại; giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước; Hòa hợp dân
tộc… Những vấn đề cốt lõi ấy được xem xét và đánh giá qua những số phận mấy

10
đời chìm nổi của một gia đình. Thời gian đủ độ lùi cần thiết. Nhưng những hiểu
biết của một cây bút phóng sự, tiểu thuyết có hạng, và suy ngẫm một đời viết,
mới là yếu tố quyết định làm nên thành công của tác phẩm này” [64].
Trong khi đó nhà văn Nguyễn Khắc Trường cũng đánh giá rất cao cuốn tiểu
thuyết này. Bản thân là người biên tập và đọc cuốn tiểu thuyết trên ngay từ bản
thảo, có thể nói những nhận xét của nhà văn này đối với tác phẩm rất chân thành,
sâu sắc. Nhà văn Nguyễn Khắc Trường cho rằng: “Đáng lẽ tên của tiểu thuyết
phải là “Những người khốn khổ” hay “Những kẻ khốn khổ”. Quả vậy, nguyên
cuốn tiểu thuyết, Hoàng Minh Tường đã thành công phác họa nên những số phận
nghiệt ngã trong một gia đình có nề nếp gia phong. Đọc những mánh khóe xảo
quyệt, lừa dối trẻ con, mưu mô hại nhau giữa những người từng quen biết nhau
mà ngán ngẩm cho thế thái nhân tình trong thời bao cấp. Thật ra, những “thói
đời” này hoàn toàn có thật ngoài đời, không phải ngày xưa thời bao cấp, mà còn
ngay ngày nay. Những nghiệt ngã này do thời thế gây nên, cũng như là những
cành cây bị gió bụi làm cho ngã bên này, nghiêng bên kia, và khi cơn gió bay
qua thì để lại trên cành cây đầy thương tích. Tôi nghĩ có lẽ đó chính là thông
điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc, và nếu đó là chủ đích thì tác giả đã
thành công” [64].
Tác giả Hà Thế trong bài viết Nếu chỉ tâng bốc, tô hồng trên báo Quân đội

nhân dân cuối tuần đã gián tiếp nhận xét về tiểu thuyết của nhà văn: “Đọc anh,
thấy rõ tính nhân bản vẫn là một yếu tố không thể thiếu trong các tác phẩm.
Nhưng ngược lại, sự bặm trợn, thô thiển đến thô tục, nhân cách méo mó-thể hiện
trong một số nhân vật của tiểu thuyết” [66]. Cũng trên báo này khi bàn về Thời
của thánh thần, tác giả Thái Dương có ý kiến rằng tiểu thuyết này đã đi sâu, khai
quật lại lịch sử, nhắc lại những gì sai lầm của quá khứ một thời mà chúng ta hầu
như muốn quên đi. “Đọc xong cuốn sách của tác giả, có bạn đọc sẽ thấy chạnh
buồn, nhớ về một thời khốn khó với những chuyện đau lòng. Người ít hiểu biết
và nhất là thế hệ trẻ hôm nay đọc cuốn sách loại này dễ hoang mang, nghi hoặc.

11
Như vậy, “Thời của thánh thần” chỉ làm khuấy động lại quá khứ đau buồn chứ
không phải gợi mở ánh sáng cho tương lai. Tác giả không tô hồng nhưng đã sa
đà vào cảm hứng bôi đen”.[65]
Tác giả Phương Ngọc đăng một bài viết về cuốn sách trên một tờ báo mạng
trực thuộc VietnamNet (tuy nhiên khi cuốn sách này bị đồn là phải thu hồi thì bài
này này cũng bị gỡ bỏ - người viết) cho rằng tiểu thuyết Thời của thánh thần đã
chấm dứt những sự kiện của thời cải cách ruộng đất bằng những chi tiết độc đáo
đến nỗi các nhà văn khác không thể khai thác gì thêm được nữa trong sự kiện
lịch sử này. Trong khi đó tác giả Ngô Minh trong bài viết Trò chuyện với tác giả
tiểu thuyết Thời của thánh thần thì cho rằng, đây là tác phẩm rất trung thực, nhân
hậu và rất hấp dẫn, nhà văn đã dồn hết sức lực mình để viết. Dù bị “phạt thẻ
vàng”, bị cảnh cáo, nhưng đó cũng đã biểu hiện của sự cởi mở hơn, “thoáng
hơn” trong việc phán xét và thẩm định tác phẩm văn học của các cơ quản lý của
Đảng và Nhà nước ta.
1.2.2. Những nghiên cứu liên quan tới tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc và Đồng
sau bão
Bàn về Thủy hỏa đạo tặc, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đã có nhận xét rất xác
đáng về tinh thần sáng tạo nghệ thuật và tài năng của Hoàng Minh Tường trong
cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ XX. Theo đó, bằng ngòi bút của mình nhà văn đã

cày tung lên những mảng đen, bóng tối, nỗi đau con người trong một xã hội mà
những định kiến, giáo điều vẫn còn đè nặng lên con người từ cách sống cho tới
lối tư duy làm ăn kinh tế.
Nhà phê bình Bùi Việt Thắng trong Giáo trình Văn học Việt Nam sau 1975
(giáo trình lưu hành nội bộ) đã khẳng định Thủy hỏa đạo tặc nằm trong xu
hướng xông thẳng vào thực tại, trực tiếp viết về các vấn đề sản xuất, quản lý
kinh tế xã hội. “Xu hướng văn xuôi này thể hiện sự dấn thân, nhập cuộc của nhà
văn vào khả năng đáp trả nhanh nhạy các vấn đề bức xúc của đời sống xã hội”.

12
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng trong bài viết Bức tranh nông thôn một thời
qua Gia phả của đất, Tạp chí Nhà văn, số 12/2012 từng khẳng định rằng: “Đây
chính là bức tranh sinh động và sâu sắc của Hoàng Minh Tường khắc họa lại
hiện thực cuộc sống nông thôn và người dân lao động vùng đồng bằng Bắc Bộ
trong những thập niên 80 của thế kỉ XX một cách chân thực”.
Luận văn Nông thôn Việt Nam sau 1975 trong một số tiểu thuyết Việt Nam
hiện đại, tác giả Hoàng Văn Tuân khi nghiên cứu tiểu thuyết Đồng sau bão đã
khẳng định Hoàng Minh Tường có cái nhìn thấu đáo và tin tưởng về sự vươn lên
của nông dân trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước. Trong đó tác
giả này cho rằng tiểu thuyết Đồng sau bão bên cạnh xây dựng được những con
người biết đấu tranh vì lý tưởng tốt đẹp thì cũng xây dựng được những bộ mặt
tương phản của xã hội. Nằm trong cảm hứng phê phán, châm biếm của một xu
hướng văn học nhận thức lại thực tại nên tác phẩm không xây dựng nên một xã
hội lý tưởng mà dồn vào đó tất cả những bộn bề của hiện thực với những mặt
trái, mặt tiêu cực của nó. Thông qua cuộc đấu tranh giữa tốt – xấu, thiện – ác,
nhà văn đã xây dựng nên bộ mặt nông thôn đầy tính biểu tượng và đặc trưng cho
một thời đại đã từng xuất hiện trong lịch sử xã hội chúng ta chưa lâu nhưng vẫn
còn nguyên tính thời sự.
Luận văn Tiểu thuyết viết về nông thôn thời kỳ đổi mới (Qua một số tác phẩm
đạt giải), tác giả Phùng Thị Hồng Thắm đánh giá cao giá trị hiện thực của tiểu

thuyết Thủy hỏa đạo tặc cũng như sự dũng cảm của người viết trước bối cảnh
mà xã hội vẫn còn những định kiến tư tưởng khá nặng nề. Tác giả này cho rằng:
“Trở lại đề tài nông thôn ở Thủy hỏa đạo tặc, nhà văn Hoàng Minh Tường như
muốn nói hết những băn khoăn của cây bút là con đẻ của đồng ruộng. Tác phẩm
đã phản ánh trung thực, cắt nghĩa và dự báo trước sự tan rã tất yếu của mô hình
Hợp tác xã nông nghiệp theo lối bao cấp” [55. Tr42]. Tác giả này cũng đánh giá
cao sự dũng cảm, trung thực của người cầm bút đã khiến cho Thủy hỏa đạo tặc là
tác phẩm nhiệt thành viết về thời kỳ suy vi của mô hình kinh tế bao cấp nông thôn.

13
Bên cạnh đó còn có những luận án, luận văn tuy không trực tiếp viết về hai
tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc và Đồng sau bão nhưng khi đề cập tới những tiểu
thuyết tiêu biểu viết về nông đều nhắc tới hai cuốn này. Các tác giả đánh giá khá
cao thành công của tác phẩm, đặc biệt là ở phương diện nội dung khi đã lột tả
chân thực bức tranh nông thôn Việt Nam trước và sau đổi mới. Đặc biệt là thái
độ dám đương đầu với những định kiến cũ trong xã hội và giới sáng tác. Điều đó
một phần giúp tác giả tạo nên thương hiệu cũng như phong cách riêng trong
mảng tiểu thuyết viết về nông thôn thời kỳ đổi mới.
1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Lựa chọn đề tài này, chúng tôi sẽ chọn hai tiểu thuyết là Thủy hỏa đạo tặc và
Đồng sau bão làm đối tượng để khảo sát những vấn đề hiện thực và con người
nông thôn. Tất nhiên trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ liên hệ, so sánh
nhiều tiểu thuyết khác của Hoàng Minh Tường cũng như của các tác giả cùng
thời để làm sâu hơn vấn đề mình tìm hiểu.
Sở dĩ chọn hai tác phẩm này vì chúng được coi là những tác phẩm xuất sắc
nhất của Hoàng Minh Tường viết về đề tài nông thôn. Đặc biệt là tiểu thuyết
Thủy hỏa đạo tặc đã nhận được giải thưởng của hội Nhà văn năm 1997. Không
những vậy hai tác phẩm trên cũng là hai tiểu thuyết sáng tác gần đây nhất của
Hoàng Minh Tường nên nó tích hợp trong mình những tư tưởng, những nội dung

quan trọng đã được nhà văn thể hiện ở những tác phẩm trước. Đặt trong hệ thống
các tiểu thuyết của ông, có thể nhận thấy tuy nội dung mỗi tác phẩm khác nhau
nhưng đều hướng chung tới hiện thực nông thôn và cuộc sống người nông dân.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ đối tượng nghiên cứu như vậy, chúng tôi xác định phạm vi của luận văn là
nghiên cứu đặc điểm của nông thôn trong tiểu thuyết dưới hai góc độ là nội dung
và phương thức thể hiện. Bằng việc đi phân tích cách xây dựng hiện thực nông
thôn và người nông dân của nhà văn Hoàng Minh Tường chúng tôi sẽ khái quát

14
được những đặc điểm chung nhất trong tiểu thuyết viết về mảng đề tài này của
nhà văn. Qua đó thấy được những đóng góp quan trọng, có ý nghĩa của Hoàng
Minh Tường trong tiến trình đổi mới văn xuôi Việt Nam sau năm 1986, đặc biệt
trong mảng tiểu thuyết viết về nông thôn.
1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, khảo sát, thống kê.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học
- Phương pháp lịch sử - xã hội
- Thi pháp học
1.5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được triển khai
thành ba chương:
- Chương 1: Tiểu thuyết viết về nông thôn trong nền tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại
- Chương 2: Nông thôn trong tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường nhìn
từ phương diện nội dung
- Chương 3: Nông thôn trong tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường nhìn
từ phương thức thể hiện




15
NỘI DUNG
Chƣơng 1: TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN TRONG NỀN
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam và diện mạo của tiểu thuyết viết về nông thôn
1.1.1. Sự hình thành và vận động của tiểu thuyết Việt Nam
Tiểu thuyết từ khi xuất hiện trong nền văn học Việt Nam với tư cách là
một thể loại văn học có rất nhiều lợi thế trong việc tái tạo lại hiện thực đời sống
xã hội đã nhanh chóng xác lập được vai trò, vị trí, thành tựu của mình. Những
hình thái đầu tiên của tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ được hình dung ban
đầu là: “một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự người ta, phong tục xã
hội hay những sự lạ tích kỳ, đã làm cho người đọc hứng thú” [19. Tr 123]. Minh
chứng cho nhận định này là sự ra đời của các tiểu thuyết như Truyện thầy Lazarô
Phiền của Nguyễn Trọng Quản, Truyện đời xưa (1886), Kiếp phong trần (1882)
của Trương Vĩnh Ký, Truyện giải buồn (1886) của Huỳnh Tịnh Của. Tuy nhiên
tiểu thuyết không chỉ dừng ở phóng tác, ở việc miêu tả ngoại cảnh đơn thuần mà
dần hướng vào chiều sâu tâm lý con người và dần thay đổi theo hướng hiện đại.
Sự thành công của tiểu thuyết Tố tâm của Hoàng Ngọc Phách cho thấy một bước
tiến mới của tiểu thuyết Việt nam trong buổi đầu. Tất nhiên trong ba thập niên
đầu của thế kỷ trước, nông thôn vẫn là đề tài chủ yếu trong văn xuôi nói chung
và tiểu thuyết nói riêng.
Đến giai đoạn văn học 1930 – 1945 thì tiểu thuyết Việt Nam đã chuyển
mình sang hiện đại với kỹ thuật viết được các trí thức tây học người Việt áp
dụng triệt để. Tư tưởng sáng tác của lớp nhà văn trẻ gần như “đoạn tuyệt” hẳn so
với những thời kỳ trước đó khi mà cảm hứng cá nhân được đề cao và biên độ
hiện thực được các nhà văn mở rộng và đào sâu. Nếu như các nhà văn của Tự
lực văn đoàn tập trung khai thác đời sống cá nhân với những khát vọng hạnh
phúc, khát vọng tư do yêu đương, khát vọng một tinh thần dân chủ thực sự trong


16
cuộc sống như tiểu thuyết Con đường sáng của Hoàng Đạo, Hồn bướm mơ tiên,
Nửa chừng xuân của Khái Hưng, Gánh hàng hoa, Đôi bạn của Nhất Linh thì
các nhà văn hiện thực lại tập trung vào phản ánh những mảnh đời cơ cực của
người nông dân bị giai cấp địa chủ chèn ép, bóc lột đến tận cùng như tiểu thuyết
Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Bỉ vỏ của
Nguyên Hồng, Chí phèo của Nam Cao, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng
Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, xã hội Việt Nam nói chung và tiểu
thuyết Việt Nam nói riêng đã bước sang một giai đoạn mới. Việt Nam trở thành
một nước độc lập, tự chủ. Hiện thực sau cách mạng và hai cuộc kháng chiến đã
làm cho văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng có bước chuyển biến quan
trọng. Từ chỗ bộc lộ khát vọng giải phóng cá nhân, mưu cầu hạnh phúc (thể hiện
thông qua các tiểu thuyết của các nhà văn trong Tự lực văn đoàn như Nhất Linh,
Khái Hưng, Hoàng Đạo ); miêu tả đời sống người nông dân nghèo trong cảnh
sưu cao thuế nặng, bị bóc lột trắng trợn, dã man của chế độ phong kiến (thể hiện
thông qua tiểu thuyết của các nhà hiện thực phê phán như Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan, Nam Cao ), tiểu thuyết đã chuyển mình sang thời kỳ mới: Đề tài
công – nông – binh trở thành một đề tài xuyên suốt của văn học. Đây là thời kỳ
dân tộc ta thoát khỏi ách ngoại xâm và trở thành một quốc gia độc lập, Văn học
cách mạng đã đặt những bước chân non trẻ đầu tiên trong một hành trình mới.
Với đối tượng là công – nông – binh, các nhà văn bước đầu thâm nhập vào thực
tế cuộc sống sản xuất và chiến đấu. Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Vùng mỏ
của Võ Huy Tâm, Xung kích của Nguyễn Đình Thi là những tiểu thuyết tiêu biểu
của giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Những năm miền Bắc hòa bình bước vào
công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa rồi bước vào cuộc chiến đấu chống
lại cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, một mùa gặt mới với nhiều tác phẩm
ở những đề tài khác nhau ra đời như Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Sống
mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, Cái
sân gạch, Vụ lúa chiêm của Đào Vũ, Đi bước nữa, Nắng của Nguyễn Thế


17
Phương… rồi tiếp đến là Dấu chân người lính, Cửa sông của Nguyễn Minh
Châu, Bão biển của Chu Văn, Những tầm cao của Hồ Phương, Vùng trời của
Hữu Mai, Chiến sỹ của Nguyễn Khải, Mặt trận trên cao của Nguyễn Đình Thi,
Hòn Đất của Anh Đức, Gia đình má Bảy của Phan Tứ, Đất Quảng (tập I) của
Nguyên Ngọc Nhà văn, với tư cách chiến sỹ, làm nghĩa vụ của một công dân,
đã sử dụng văn chương như một vũ khí hữu hiệu. Sử thi là cảm hứng, cũng là âm
hưởng chủ đạo của văn học thời kỳ này. Bên cạnh đề tài về chiến tranh cách
mạng và người lính thì nông thôn cũng là một đề tài lớn. Nông thôn với việc
“vào, ra” hợp tác xã trong thời kỳ trước chiến tranh, là hậu phương lớn của tiền
tuyến lớn trong những năm chống Mỹ đã được các nhà văn tái hiện. Các tiểu
thuyết viết về nông thôn thời kỳ này đã thể hiện được vai trò của người nông dân
trong cách mạng dân tộc dân chủ và bảo vệ Tổ quốc. Đương nhiên, vì viết theo
cảm hứng sử thi nên những vấn đề tiêu cực, vấn đề thân phận con người ở nông
thôn còn chưa được đề cập nếu không muốn nói đấy là vấn đề nhạy cảm (do suy
nghĩ nó sẽ ảnh hưởng tới nhiệm vụ cổ vũ cho cuộc chiến đấu) nên nhà văn chưa
được phép nói tới. Thế cho nên mới có một Cái sân gạch được ca ngợi, một Đi
bước nữa bị phê phán kịp thời. Và bức tranh nông thôn, trong xu hướng chung
của bức tranh văn học toàn cảnh mang vẻ đẹp sử thi không có nhiều hình khối,
màu sắc mặc dù càng về cuối cuộc kháng chiến, tiểu thuyết viết về nông thôn
cũng bắt đầu đi vào những vấn đề của một hiện thực nông thôn có phần bộn bề,
phức tạp.
Cùng với bước chuyển mình của đất nước vào thời kỳ đổi mới, tiểu thuyết
với tư cách là một loại hình tự sự cỡ lớn cũng đã có sự chuyển động. Đổi mới tư
duy nghệ thuật, đặc biệt là quan niệm về hiện thực và con người không chỉ là
nhiệm vụ đặt ra với nhà văn mà thực tế là đòi hỏi của tự thân văn học và công
chúng. Trong sự vận hành chung của thể loại, nhìn lại những năm tiền đổi mới
(1975 – 1985) không thể không ghi nhận sự xuất hiện của một loạt tiểu thuyết
gây tiếng vang một thời như những tín hiệu dự báo mở ra một thời kỳ mới trong


18
sáng tạo và tiếp nhận văn chương hiện đại như Miền cháy (1977) của Nguyễn
Minh Châu, Cha và con và (1979) của Nguyễn Khải, Đứng trước biển (1984)
của Nguyễn Mạnh Tuấn, Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985)
của Ma Văn Kháng các tác phẩm thời kỳ này đã có khuynh hướng vừa mở
rộng đề tài, vừa tiếp tục phát huy cảm hứng từ văn học giai đoạn trước. Đề tài
nông thôn lúc này đáng chú ý nhất là tiểu thuyết Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh
Tuấn. Cuốn tiểu thuyết này gây tiếng vang lớn vì nó động đến những hạn chế
trong quản lý, điều hành, là tình trạng mất dân chủ ở nông nghiệp và nông thôn,
khiến cho đất nước ra khỏi chiến tranh đã không ít năm rồi mà sản xuất ở nông
thôn vẫn đình trệ. Căn bệnh cố hữu kéo dài đã mấy thập niên và để lại những di
chứng không nhỏ trong đời sống. Đây chính là vấn đề đã được Hoàng Minh
Tường trở lại, ở một góc nhìn khác và cấp độ khác trong Thủy hỏa đạo tặc và
Đồng sau bão.
Từ năm 1986 trở đi, chủ trương “cởi trói” cho văn nghệ được Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh phát biểu tại buổi gặp mặt hơn 100 văn nghệ sĩ tại Hà Nội đã
trở thành một động lực để họ phát huy khả năng sáng tạo. Có thể khẳng định
rằng tư duy nghệ thuật của các nhà văn sau năm 1986 đã vận động theo hướng
dân chủ hóa trên tất cả các cấp độ từ thể tài, nội dung cho tới hình thức tác phẩm.
Điều này đã làm thay đổi về cơ bản cả cốt truyện, hệ thống nhân vật, lời văn,
giọng điệu.
Tiểu thuyết giai đoạn này cũng tập trung miêu tả vấn đề cách sống, cách
quản lý sản xuất, vai trò của gia đình và bản lĩnh cá nhân. Cùng với cảm hứng
ngợi ca, đã xuất hiện cảm hứng phê phán. Biên độ hiện thực được mở rộng.
Điểm nhìn tới con người được dịch chuyển dần về nhiều phía, nhiều góc độ.
“Các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đặt ra vấn đề mất – còn trong chiến
tranh, vấn đề đạo đức, nhân cách và thân phận con người. Các tác phẩm của
Nguyễn Khải được tổ chức như một cuộc đối thoại giữa những lối sống và lối
nghĩ khác nhau. Ma Văn Kháng đặt con người trong quan hệ đời thường,


19
Nguyễn Mạnh Tuấn đặt ra những vấn đề quản lý kinh tế ở nông thôn và xí
nghiệp Đó là một dấu hiệu cho thấy ý thức đổi mới về thể loại đang rõ dần”
[53. Tr22]. Tư duy nghệ thuật những năm sau đổi mới đã thay đổi. Từ cảm hứng
sử thi là chủ đạo, các tác phẩm thời kỳ này đã cho thấy có nhiều cảm hứng khác
đến với nhà văn, như cảm hứng thế sự, đời tư; con người cá nhân với đầy đủ tâm
tư, suy nghĩ, bản tính “người” nhất thay thế cho con người tập thể, con người
cộng đồng. Chính nhà văn Nguyễn Khải đã từng thừa nhận: “Thời nay rộng cửa
gợi được rất nhiều thứ để viết. Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang
bề bộn, ánh sáng và bóng tối, màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những biến động,
những bất ngờ mới thật là mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút mặc sức khai
thác” [21. Tr 23].
Sự đổi mới tư duy tiểu thuyết không chỉ được thể hiện ở phương diện tiếp
cận hiện thực mà còn được thể hiện ở sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về
con người của các nhà văn. Nếu như con người trong tiểu thuyết giai đoạn 1945-
1975 được miêu tả ở phương diện con người cộng đồng, con người anh hùng xả
thân vì nghĩa lớn và ít có dịp đối diện với chính bản thân mình thì trong tiểu
thuyết thời kỳ đổi mới con người được nhận thức như một thực thể riêng tư,
“được nhà văn đi vào thế giới nội tâm, đi vào số phận của họ,tìm đến những vấn
đề cụ thể, đời thường mà vẫn mang ý nghĩa nhân loại” [62. Tr43].
Có thể khẳng định sự thay đổi quan niệm về con người đã phản ánh chân
xác những thay đổi trong tư duy sáng tác của các nhà văn giai đoạn này. Hướng
tiểu thuyết vào những giá trị nhân bản, những phần giá trị sâu nhất trong bản thể
mỗi con người không chỉ trở thành mục tiêu mà còn là nhu cầu bức thiết của mỗi
nhà văn trên hành trình khám phá lại con người. Con người trong tiểu thuyết giai
đoạn này được đặt trong mối quan hệ riêng – chung, gia đình – xã hội, được
quan sát kỹ càng từ nhân phẩm, tính cách đến đời sống riêng tư. Nhân vật trong
tiểu thuyết là những con người với trăm nghìn mảnh đời khác nhau với những số
phận khác nhau như Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Khuê trong


20
Dòng sông Mía của Đào Thắng, Giang Minh Sài trong Thời xa vắng của Lê
Lựu… Nhà văn từ các góc nhìn khác nhau đã đưa đến cho độc giả một cái nhìn
đa dạng về cuộc sống và của thân phận con người. Con người hiện lên với những
biểu hiện đời sống nội tâm phong phú. Sự hòa hợp giữa con người tự nhiên và
con người xã hội đã khiến cho hình tượng về con người trở nên hoàn thiện hơn,
đa diện và chân thực hơn. Bởi thế con người được hình dung từ nhiều chiều,
được tái hiện với đầy đủ các cung bậc cảm xúc, đan xen cái tốt- cái xấu, biết yêu
thương - căm thù, biết lừa lọc – thành thực và luôn đấu tranh giằng xé giữa đúng
– sai, thiện – ác, hạnh phúc – khổ đau. Người nông dân thì nhìn thấy mặt tích
cực ở bản tính tư hữu trong lao động sản xuất, trong sự vun vén cho cuộc sống
gia đình. Đó là nét nổi bật mang đậm ý nghĩa nhân văn khi nhìn nhận con người,
khiến cho nhân vật trong văn học không còn mặc đồng phục. Bức tranh xã hội
nói chung và bức tranh nông thôn nói riêng đã có màu sáng - tối. Những tiểu
thuyết tiểu biểu có thể kể đến như: Ăn mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc của Chu
Lai, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Ma làng của
Trịnh Thanh Phong, Bến không chồng của Dương Hướng…Và Thủy hỏa đạo
tặc, Đồng sau bão của Hoàng Minh Tường cũng nằm trong số đó.
Ngoài một số tiểu thuyết có xu hướng quay về với mô hình tự sự truyền
thống, kết cấu rõ tràng, mạch lạc như Thời xa vắng của Lê Lựu, Giời cao đất dày
của Bùi Thanh Minh, Ma làng của Trịnh Thanh Phong, Bến không chồng của
Dương Hướng thì tiểu thuyết bắt đầu chuyển sang những kết cấu phức hợp hơn.
Kết cấu tiểu thuyết như một trò chơi rubich, tạo nên sự lỏng lẻo, rời rạc, lắp
ghép, gấp khúc, khó nắm bắt như tiểu thuyết Giã biệt bóng tối, Đi tìm nhân vật
của Tạ Duy Anh Kết thúc mở, bỏ lửng nhằm đưa người đọc tự do suy nghĩ, tự
do sáng tạo riêng theo quan niệm của mỗi cá nhân như Mảnh đất lắm người
nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Dòng sông Mía của Đào Thắng. “Chính tư
duy tiểu thuyết và những biến đổi thi pháp đã chi phối nguyên tắc xây dựng tác
phẩm, tạo ra nhiều mô hình cấu trúc mới mẻ: Cấu trúc theo đường đời nhân vật,


21
cấu trúc đan cài số phận mỗi con người với mỗi dòng họ, gia đình, làng quê, đan
cài hiện tại với các lớp trầm tích văn hóa, lịch sử, cấu trúc theo ký ức hồi cố, cấu
trúc tập trung vào nhân vật cá nhân dị biệt, cấu trúc đảo lộn thời gian xen kẽ quá
khứ và hiện tại, cấu trúc dồn tụ chất liệu hiện thực để khắc sâu một tư tưởng, một
luận đề nào đó mà nhà văn muốn thông qua tác phẩm để gửi gắm tới bạn đọc ”
[71]. Đó là cách làm phong phú đời sống nông thôn vốn không yên ả trước
những biến động của lịch sử, trước những tệ nạn mà thời nào cũng có, những va
đập của lối sống hiện đại với truyền thống, những tiêu cực trong quản lý, điều
hành… trong các tiểu thuyết về nông thôn, mà tiểu thuyết của Hoàng Minh
Tường là một ví dụ.
Sự vận động của tiểu thuyết vẫn sẽ tiếp tục đồng hành cùng với sự vận
động của lịch sử - xã hội trên chặng đường đi tới. Việc đổi mới tư duy nghệ thuật
suy cho cùng là đổi mới nhận thức của nhà văn trước những biến động của xã
hội và thế giới. Tất nhiên văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng cũng giống
như bất cứ một hình thái ý thức xã hội đặc thù nào, điều tối cần thiết để vận động
là yếu tố nội lực. Việc đổi mới tư duy nghệ thuật trong hoàn cảnh đất nước bước
ra khỏi chiến tranh, chuyển sang thời kỳ xây dựng và hội nhập là sự vận động
hợp quy luật phát triển của lịch sử văn học. Nó mở ra những khả năng để tiểu
thuyết có thể đi sâu vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội cũng như đời sống
tâm hồn con người.
1.1.2. Tiểu thuyết viết về đề tài nông thôn trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ
đổi mới.
Sau công cuộc “cởi trói” cho văn học, nghệ thuật năm 1986, tiểu thuyết
viết về nông thôn bước vào vận hội mới để thể nghiệm trọn vẹn tính linh hoạt
của nó. Cùng với sự đổi thay về quan điểm đạo đức, thẩm mĩ do công cuộc đổi
mới đem lại thì việc chuyển từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng đời tư thế sự là
một điều rất đáng lưu ý của tiểu thuyết giai đoạn này. Đổi mới tư duy nghệ thuật


22
dẫn đến sự thay đổi hàng loạt các yếu tố quan trọng như quan niệm nghệ thuật về
hiện thực và con người, cảm hứng sáng tác, phương thức biểu hiện Sự biến
đổi từ hệ thống chủ đề, đề tài cho tới các phương thức thể hiện, ngoài việc tạo
dựng nên một diện mạo văn học mới thì còn từng bước hình thành, thiết lập
những quy tắc, kết cấu mới để thay thế những quy tắc, kết cấu không còn phù
hợp. Quá trình phát triển chồng lấn giữa những nguyên tắc cũ - mới trong một
thời gian ngắn đã tạo nên tính chất lưỡng thể cho văn học. Điều này thể hiện qua
việc cùng một nhà văn nhưng viết ở hai thời kỳ với hai hệ thẫm mỹ khác nhau
với những thành công khác nhau. Hoặc như như cùng một kết cấu, đề tài nhưng
lại được nhà văn sử dụng để phản ánh hai vấn đề đối nghịch
Khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới từ năm 1986 thì tiểu thuyết viết
về nông thôn đã đạt được những thành tựu mới. Tiểu thuyết đề cập thẳng vào
những vấn đề đặt ra trong thực tại, trực tiếp viết về các vấn đề sản xuất, quản lý
kinh tế - xã hội với những khó khăn, bất cập từ lối tư duy sản xuất cũ. Nhu cầu
nhận thức lại thực tại trên tinh thần “chân lý phải được phát hiện nhiều lần” và
trên cảm quan “cuộc sống và con người ngày càng trở nên phức tạp hơn” chiếm
ưu thế trong cảm hứng sáng tác của các nhà tiểu thuyết thời kỳ này. Những tiểu
thuyết có thể kể đến như Thời xa vắng của Lê Lựu, Mảnh đất lắm người nhiều
ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không chồng của Dương Hướng , Lão Khổ
của Tạ Duy Anh
Mỗi nhà văn đều có cách nhìn nhận riêng về hiện thực nông thôn với
những góc khuất, những vấn đề vốn dĩ luôn tồn tại nhưng cho đến bây giờ mới
dám nói, dám viết. Có thể nói nông thôn trong những tiểu thuyết này cũng “đổi
mới” theo tinh thần của đại hội VI. Đúng như nhà văn Hà Xuân Trường nhận
xét: “Đổi mới trong văn học, điều quan trọng nhất, quyết định nhất là cái nhìn và
cái tâm của nhà văn. Đề tài, nhân vật, phong cách, cá tính không là cái gì nếu
không có cái nhìn thời đại sâu sắc, thấu suốt nhân tình, nếu không có được một
cái tâm trong sáng, nhân ái, cộng với ý thức đầy đủ về chức trách cao cả của văn


23
học đối với con người, đối với cuộc đời, với nhân dân mình. Không có cái đó thì
không có đổi mới [61. Tr 49-50].
Quả là như vậy khi mà chủ đề trong tiểu thuyết viết về nông thôn thường
hướng tới những khiếm khuyết cần phải khắc phục của xã hội như: tham nhũng,
trộm cắp, cường hào Do quan niệm sáng tác là nhìn thẳng vào sự thật nên các
nhà văn đã xây dựng qua tác phẩm của mình hình ảnh bức tranh nông thôn
xuyên suốt thế kỉ XX với tất cả những biến động lớn từ cách mạng tháng 8, cuộc
cải cách ruộng đất, đến quá trình sửa sai và hợp tác hóa nông nghiệp cho tới khi
đất nước chuyển mình sang cơ chế thị trường. Tiểu thuyết giai đoạn này giống
vai trò của một người phản ánh và phản biện xã hội với những vấn đề nhức nhối
như quan hệ giữa con người với con người hay như con người với xã hội đều
được mổ xẻ và đưa ra trước bạn đọc. Ngoài những tiểu thuyết mà chúng tôi đã
nhắc đến, còn phải kể đến những tiểu thuyết như Ma làng của Trịnh Thanh
Phong, Dòng sông Mía của Đào Thắng, Dưới chín tầng trời của Dương Hướng,
Ba người khác của Tô Hoài, Thần thánh và bươm bướm của Đỗ Minh Tuấn
Có thể thấy rằng, tiểu thuyết sau đổi mới đã tái hiện được một bức tranh
nông thôn với đủ gam màu sáng, tối. Người nông dân hiện lên chủ yếu trong mối
quan hệ giữa con người với con người. Trong mối quan hệ đó cả phần “con” và
phần “người” đều được khai thác triệt để với những mâu thuẫn gia đình, dòng
họ, ý thức hệ và mâu thuẫn ngay trong bản thân mỗi nhân vật. Con người được
trả về với đúng nghĩa của nó với một thế giới nội tâm đầy phức tạp. Những “tiểu
vũ trụ” đó va chạm với nhau, đấu tranh lẫn nhau và dần tạo nên một bức tranh
đầy màu sắc với đủ những cung bậc cảm xúc. Các nhà văn viết về nông thôn sau
1986 đã có nhìn nhận và phản ánh hiện thực nông thôn một cách kỹ càng ở nhiều
phương diện. Họ nhìn vào tầng sâu, mạch ngầm của đời sống nông thôn và thấu
hiểu những cái tốt đẹp trong nông thôn truyền thống cũng như những mặt trái
trong tính cách của người nông dân cũng như nông thôn với những bất cập khi

24

bước vào thời kỳ hội nhập, kinh tế thị trường. Từ đó họ góp một tiếng nói chung
để xây dựng một nông thôn mới.
1.2. Tiểu thuyết viết về nông thôn của Hoàng Minh Tƣờng trong bức tranh
chung của tiểu thuyết viết về nông thôn thời kỳ đổi mới
1.2.1. Đôi nét về cuộc đời và văn nghiệp của Hoàng Minh Tường
Nhà văn Hoàng Minh Tường sinh năm 1948 tại một gia đình thuần nông ở
thôn Động Phí, xã Phương Tú, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội).
Hoàng Minh Tường vốn xuất thân không liên quan đến văn chương. Ông tốt
nghiệp đại học với bằng cử nhân chuyên ngành địa lý. Ông đến với văn chương
trong một lần bộ Giáo dục mở cuộc thi viết về ngành khi ông đang dạy học ở
Việt Bắc. Thông thường các nhà văn bắt tay viết truyện dài, tiểu thuyết khi đủ
vốn sống và đã có trải nghiệm từ truyện ngắn. Nhưng Hoàng Minh Tường ngược
lại, đặt viên gạch đầu tiên bằng tiểu thuyết Đầu Sông cho sự nghiệp viết văn của
mình. Đây là cuốn sách, được cho là “hiền lành“ nhất của ông và nghe đâu cũng
ẵm được giải của ngành chủ quản. (Tiểu thuyết này viết trước nhưng xuất bản
lần đầu sau hai năm so với tiểu thuyết Đồng chiêm)
Hoàng Minh Tường thuộc thế hệ nhà văn hậu chiến. Trong hơn 30 năm
cầm bút ông đã có sự nghiệp văn chương với 13 cuốn tiểu thuyết, 7 tập truyện
ngắn, 5 tập bút ký, phóng sự. Là người đi nhiều, viết nhiều, nhưng Hoàng Minh
Tường vẫn gắn bó với đề tài nông thôn, với những người nông, ngư dân, bán mặt
cho đất, bán lưng cho trời. Phải thấy rằng ông là nhà văn âm thầm và can trường.
Bằng ngòi bút của mình, ông cày tung lên những mảng đen, bóng tối, nỗi đau
con người trong xã hội đương thời.
Trong những tác phẩm của mình, nhà văn đã phản ánh một cách chân xác
bức tranh hiện thực cuộc sống và con người nông thôn, đặc biệt là bức tranh của
nông thôn đồng bằng Bắc Bộ truyền thống. Sự tạo lập một phong cách khác

25
trong việc thể hiện bức tranh nông thôn đã đem lại cho nhà văn những thành
công mới. Tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc đã được hội Nhà văn trao giải nhất về

tiểu thuyết năm 1997. Sau đó ít lâu, ông viết tiếp Đồng sau bão. Đây là một sự
tiếp nối với Thủy hỏa đạo tặc ở không gian, nhân vật trong một bối cảnh mới,
một thời điểm mới của lịch sử từ khoán sản phẩm đến thời của kinh tế thị trường.
Gia phả của đất chính là gộp hai tiểu thuyết liên hoàn Thủy hỏa đạo tặc và Đồng
sau bão. Tập tiểu thuyết này là một trong mười tiểu thuyết xuất sắc nhận Tặng
thưởng Tiểu thuyết về Nông nghiệp và Nông thôn 1985-2010 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn cùng hội Nhà văn trao.
1.2.2. Tiểu thuyết viết về nông thôn của Hoàng Minh Tường
Hoàng Minh Tường là một nhà văn không chỉ viết về đề tài nông thôn mà
còn thử sức ở nhiều lĩnh vực khác như: giáo dục, giao thông, ngư dân Tuy
nhiên những thành công của ông lại chủ yếu ở mảng đề tài viết về nông thôn và
nông dân. Từ tiểu thuyết đầu tiên viết về nông thôn là Đồng chiêm cho đến Thủy
Hỏa đạo tặc, Đồng sau bão và cuối cùng là Thời của Thánh thần, hình ảnh nông
thôn và người nông dân hiện lên như một cuốn băng quay chậm, phô bày ra tất
cả những biến đổi của bộ mặt đời sống nông thôn Việt Nam những năm trước và
sau đổi mới. Chính nhà văn đã thừa nhận khi viết một tác phẩm này thì không
khí, bối cảnh đã dần định hình cho tác phẩm sau. Nhà văn Hoàng Minh Tường
nói: “Không khí Thời của thánh thần đã xuất hiện ngay từ Thủy hỏa đạo tặc,
Đồng sau bão. Ngay cả Ngư phủ, trong nhân vật của tôi vẫn là những con người
lý tưởng. Đó có thể gọi là sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại của tác giả với các
nhân vật Họ là những người thừa sự thông minh dũng cảm, lòng nhân hậu vị
tha, vậy mà cuối cùng họ cũng không thắng nổi cái ác, thói ti tiện, vô nhân ” [65]
Tiểu thuyết Đầu sông giống như một kỷ niệm đẹp của một thời học và
làm nghề thầy giáo đối với nhà văn. Tuy nhiên tiểu thuyết đầu tay viết về đề tài
nông thôn của Hoàng Minh Tường là tiểu thuyết Đồng chiêm. Đây giống như là

×