Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

THIÊN NHIÊN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MARK TWAIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
---------------------



PHẠM ANH HOA




THIÊN NHIÊN TRONG
TIỂU THUYẾT CỦA MARK TWAIN



Chuyên ngành : Văn học Nước ngoài
Mã số : 60 22 30




LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS Đào Ngọc Chương









Thành phố Hồ Chí Minh – 2007


MARK TWAIN
(1835 – 1910)
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mark Twain, bút danh của Samuel Langhorne Clemens (1835 – 1910) được coi là
người đã khai sinh ra nền văn học hiện đại Mĩ, theo cách nhìn của Ernest Hemingway; là
Lincoln của văn học Mĩ như cách gọi của William Dean Howells. Cùng với nhiều tác giả
khác ở thế kỉ XIX, ông đã góp phần tạo nên bản sắc Mĩ cho nền văn học non trẻ vốn chịu
ảnh hưởng văn học Anh quốc. Về mặt này, ngòi bút hiện thực của ông, dựa trên thứ tiếng
Mĩ “bì
nh dân, sống động, khoẻ khoắn” cùng chất uy-mua đặc trưng vùng biên cương, đã vẽ
nên những khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, cuốn hút và đậm chất Mĩ. Nổi bật trong những
bức tranh ấy là hình ảnh dòng Mississipi hùng vĩ và cuộc sống gắn với những chuyến phiêu
lưu của những con người miền Tây…
Tuy nhiên, các sáng tác của Mark Twain, đặc biệt là hai tác phẩm đỉnh cao là Những
cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer và Những cuộc phiê
u lưu của Huckleberry Finn đặt trong
bối cảnh của nước Mĩ cuối thế kỉ XIX, còn chứa đựng cả những vấn đề của thời đại. Trong
các tác phẩm của ông, thiên nhiên miền Tây hoang dã với những dấu tích của văn minh
nông nghiệp được các nhân vật say sưa khám phá. Vì vậy, thiên nhiên hoang dã ấy còn

mang ý nghĩa đặc biệt như là sự phản đối nền văn minh công nghiệp bấy giờ. Một cách nhìn
nào đó, nó gợi lên vấn đề quay về quá khứ để tìm tính cách, bản chất con người.
Như vậy các tác phẩm của Mark Twain, đặc biệt hai tiểu thuyết đỉnh ca
o của ông
không chỉ mang ý nghĩa thẩm mĩ mà còn chứa đựng những vấn đề xã hội và triết học sâu
sắc. Đây là hướng và đồng thời là lí do khiến chúng tôi khảo sát “Thiên nhiên trong tiểu
thuyết của Mark Twain”.
Hơn nữa ở Việt Nam
, ông là một trong số ít tác giả văn học Mĩ được lựa chọn để
giảng dạy cả trong chương trình dành cho sinh viên cũng như học sinh phổ thông trung học.
Các nhà nghiên cứu Việt Nam đã quan tâm đến nhiều phương diện, nhiều vấn đề về ông, về
tác phẩm của ông như chúng tôi sẽ tổng thuật trong phần Lịch sử vấn đề sau đây, nhưng
chưa thực sự tập tr
ung nghiên cứu vấn đề thiên nhiên như biểu tượng đặc biệt của cái nhìn
thẩm mĩ và triết lí. Chính vì thế việc chúng tôi nghiên cứu vấn đề thiên nhiên trong tiểu
thuyết của Mark Twain mang một ý nghiã thiết thực. Những gì luận văn của chúng tôi đạt
được sẽ góp thêm một tiếng nói, một cách đánh giá vào dòng nghiên cứu và giảng dạy tác
phẩm của Mark Twain, ít nhất là ở nước ta hiện nay.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi chỉ khảo sát, lí giải vấn đề thiên nhiên
trong tiểu thuyết của Mark Twain với hai ý nghĩa chính : thiên nhiên như là tự nhiên và
thiên nhiên như là bản chất con người nhân vật. Ở ý nghiã thứ nhất chúng tôi tìm hiểu
không gian gắn với những cuộc phiêu lưu của các nhân vật. Còn trong ý nghĩa thứ hai đó là
sự thuần phác trong đời sống tinh thần của các nhân vật được bộc lộ qua các hành động.
Chính trọng tâm này đã dẫn chúng tôi đến việc giới hạn chỉ tìm hiểu vấn đề thiên
nhiên trong hai tiểu thuyết nổi tiếng của Mark Twain là Những cuộc phiêu lưu của T
om
Sawyer và Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn. Bởi vì, chỉ trong hai tác phẩm
đỉnh cao này của Mark Twain thì hai ý nghĩa trên của thiên nhiên mới được nhà văn thể
hiện trong mối tương tác hoàn chỉnh nhất của chúng.

3. Lịch sử vấn đề
Từ việc xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu như trên, chúng tôi, trong quá
trình thu thập tài liệu cho luận văn của mình, đã đặc biệt chú ý đến những ý kiến của các
nhà nghiên cứu về hai ý nghĩa tự nhiên và bản chất của thiên nhiên trong tiểu thuyết của
Mark Twain.
3.1. Thiên nhiên như là tự nhiên
Ở nước ngoài, các nhà nghiên cứu khi hướng sự chú ý vào yếu tố thiên nhiên trong
sáng tác của Mark Twain đã đưa ra những lí giải khác nhau. Năm 1948, trong lời giới thiệu
nhân dịp xuất bản cuốn Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn, NXB Holt, Rinehart
and Winston, Lionel Trilling đã đặc biệt chú ý đến hình ảnh dòng sông, dòng Mississippi,
như một thế giới đối lập với nước Mĩ công nghiệp cuối thế kỉ XIX và nhìn nhận nó như một
vị thần trong hành trình của Huck và Jim.
Đối diện với thần tiền (
money-god) vẫn là vị thần sông (river-god), với những vũ khí
phê phán lặng lẽ – ánh sáng, không gian, những khoảng lặng, sự tĩnh mịch và sự đe
dọa… [74, tr.15].
Còn Leo Marx, trong bài viết “The Pilot and Passenger : Landscape Conventions
and the Style of Huckleberry Finn” được in trong cuốn Mark Twain a collection of critical
essays do Henry Nash Smith biên soạn, NXB Prentice – Hall, 1963, đã so sánh ba đoạn văn
tả cảnh bình minh trên sông Mississippi trong ba tác phẩm Cuộc sống trên dòng Mississippi,
Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer và Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn. Từ
đó, Leo Marx chỉ ra những nét đặc biệt của cảnh đẹp thiên nhiên trong cuốn Huckleberry
Finn. Nét riêng ấy được tác giả lí giải thông qua điểm nhìn của người kể chuyện :
Là người tham dự, Huck nhiều lúc hòa vào dòng sông mà mì
nh đang kể. Do đó cảnh
vật là sự trần thuật trực tiếp của cậu. Phong cảnh được miêu tả bằng nhiều chi tiết
cụ thể, nhưng chúng đến với chúng ta như những ấn tượng chủ quan. Tất cả các giác
quan của người kể chuyện thì sống động và thông qua chúng, tính chất quí giá của
những sự việc cụ thể trở nên nổi bật. [72, tr.56].
Đồng thời, khi xem

xét những bức tranh phong cảnh của Mark Twain, tác giả Leo
Marx còn tiến hành liên hệ với những qui ước và phong cách miêu tả thiên nhiên trong văn
chương nói chung để chỉ ra những nét địa phương của phong cảnh miền Tây và văn phong
của ông. Cảnh bình minh trên đảo Jackson trong cuốn Những cuộc phiêu lưu của Tom
Sawyer được đánh giá là “một cách nói mới về phong cảnh” vì bên cạnh việc sử dụng nghệ
thuật nhân cách hóa quen thuộc đến mức nhàm chán trong văn c
hương tả cảnh truyền thống,
Mark Twain đã “phá vỡ phong cách của một họa sĩ” khi ông đặc tả một con sâu xanh (the
microscopic focus upon the green worm) vốn được coi là chi tiết không quí phái, không
xứng với những cảnh đẹp như tranh. [72, tr.53].
Có thể nói đây là bài viết khá chi tiết về thiên nhiên trong các sáng tác của Mark
Twain. Tác giả đã xem xét các bức tranh phong cảnh từ góc độ văn phong của nhà văn miền
Tây này. Điều này chỉ có thể tiến hành khi xe
m xét nguyên tác.
Còn giới nghiên cứu trong nước khi nhắc đến thiên nhiên trong các sáng tác của
Mark Twain thường lí giải chúng như những biểu hiện của bút pháp hiện thực. Các nhà
nghiên cứu hầu hết đều ca ngợi thành công của Mark Twain ở phương diện miêu tả rất sống
động những nét đặc trưng của thiên nhiên biên cương miền Tây trong các tác phẩm của
mình.
Trước năm 1975, trong cuốn sách giáo khoa dành cho chương trình Đệ nhất ABC
sinh ngữ Đại cương văn học sử Mĩ của Đắc Sơn, NX
B Khai Trí, Sài Gòn 1961, tác giả viết :
Những cuộc sinh hoạt trên dòng sông, ngoài nội cỏ hay trong cảnh hoang dã của
Hoa Kì đều được mô tả một cách thực thể dưới ngòi bút của Mark Twain qua các tác
phẩm “Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn”, “Cuộc sống trên sông
Mississippi”… [49, tr.43].
Bối cảnh thiên nhiên miền Tây còn được đánh giá là một trong ba điểm tạo nên tính
hấp dẫn, lôi cuốn người đọc trong các tác phẩm của Mark Twain, bên cạnh “tài kể chuyện
sống động, duyên dáng” và chất “humour”. Đó chính là nhận định của Trần Văn H
oàn

nhân dịp xuất bản cuốn “Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer”, trên tạp chí Diễn đàn Mĩ
năm 1967:
… khoảng giữa thế kỉ XIX đã chiếm một địa vị quan trọng trong sáng tác của Mark
Twain : theo chân tác giả, độc giả lần lượt tái diễn cuộc thám hiểm trên trường
giang Mississippi hùng vĩ, cuộc khai phá những đồng cỏ mênh mông đến tận chân
trời của vùng Trung Mĩ…[30, tr.138].
Như vậy, dù mới chỉ dừng ở mức độ giới thiệu nhưng cả hai bài viết đều coi thiên
nhiê
n như là yếu tố tạo nên nét địa phương trong các sáng tác của Mark Twain.
Sau thời điểm 1975, bài phê bình đầu tiên về các sáng tác của Mark Twain là của tác
giả Lê Đình Cúc. Đó là bài viết “Ngòi bút hiện thực phê phán và nghệ thuật hài hước của
Mark Twain” đăng trên Tạp chí Văn học số 3, tháng 5 – 6 năm 1986. Trong quá trình lí giải
tính hiện t
hực, Lê Đình Cúc có nhắc đến hai không gian “… trường học, nhà thờ đối lập
hoàn toàn với đời sống, với thiên nhiên…”. Tác giả đã viết khá chi tiết về cái tù túng, ngột
ngạt của không gian nhà thờ, trường học mà chưa nói đến nét hấp dẫn của không gian dòng
sông, hòn đảo trong những cuộc phiêu lưu của Tom, Huck và các bạn. Đối với hành trình
của Huck và Jim, tác giả đánh giá là để “chuồn khỏi cái “thế giới văn minh”của tầng lớp
quí tộc tư sản” nhưng chưa c
hú ý đến sự liên hệ giữa hành trình ấy và các hình ảnh thiên
nhiên. Đây là điều chúng tôi sẽ nói kĩ trong chương thứ hai của luận văn này.
Đến năm 1988, khi xuất bản cuốn Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer, nhà xuất
bản Văn học đã in bài giới thiệu của tác giả Hồng Sâm. Các hình ảnh thiên nhiên trong cuốn
tiểu thuyết này cũng được Hồng Sâm nhắc đến như là một sự đối lập với nhà thờ, trường
học. Đồng thời bài viết còn c
hỉ ra được nét lôi cuốn, hấp dẫn của các hình ảnh thiên nhiên
trong những chuyến phiêu lưu của Tom :
… Và thiên nhiên được miêu tả tuyệt vời : Dòng sông Mississippi mênh mang, bãi cát
trắng ngập ánh mặt trời, khu rừng vắng diễm lệ, hang Mc Daugal huyền bí kì ảo.
Thiên nhiên có tâm hồn, “trầm tư mặc tưởng”, “sáng láng” “ru cái ngủ để sắp sửa

bước vào lao động” rồi “tỉnh hẳn và hoạt động lao xao. Thiên nhiên dịu dàng an ủi
khi các em buồn, nghiêm khắc hoặc nổi giận khi các em thấy mình có lỗi. [62, tr.13].
Đây có thể coi là ý kiến đầu tiên thể hiện sự chú ý tới các hình ảnh thiên nhiên cụ thể
với ý nghĩa
là không gian phiêu lưu mặc dù trọng tâm mà tác giả muốn bàn luận vẫn là giá
trị phê phán của tác phẩm.
Sau này, trong một bài viết khác của Lê Đình Cúc, điều đó cũng được nhắc đến. Khi
bàn luận về cuốn Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn, Lê Đình Cúc nhìn nhận :
Chương XIX của “Huck Finn”là một trong những chương thơ mộng nhất của
tác phẩm và của văn c
hương Mark Twain. Trong khi Huck khám phá hai bờ sông với
bao nhiêu quang cảnh kì thú và hùng vĩ của thiên nhiên thì cũng là dịp Huck chứng
kiến những truyền thống văn hóa của người Mĩ ở những thị trấn tỉnh lẻ. [16, tr.349 –
350].
Đó là nhận định từ bài viết “Truyện thiếu nhi của Mark Twain” đăng trên Tạp chí
Văn học số tháng 6 năm 1997. Tuy ra đời sau bài viết đầu tiên về Mark Twain mà chúng tôi
đã nêu ở trên khá lâu nhưng tác giả vẫn chú trọng tới ngòi bút hiện thực và đánh giá thiên
nhiê
n như là một nét bổ sung cho tính hiện thực ấy và do đó mọi hình ảnh thiên nhiên sẽ có
“giá trị lịch sử”. Phải chăng vì vậy mà sau này tác giả Lê Đình Cúc đã ghép hai bài viết
thành một và cho in trong cuốn Tác gia văn học Mĩ, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội 2004,
dưới tiêu đề “Mark Twain (1835 – 1910) – “Đến người bán quan tài cũng phải xót xa
thương tiếc” khi nhà văn qua đời”.
Như vậy có thể thấy các nhà nghiên cứu đã quan tâm
nhiều đến tính hiện thực của
yếu tố thiên nhiên trong các tác phẩm của Mark Twain mà chưa gắn nó với truyền thống
phiêu lưu cũng như thể loại tiểu thuyết phiêu lưu của Mĩ để xem xét. Chỉ đến bài viết
“Những cuộc phiêu lưu của Huckle Berry Finn”- nhân vật người kể chuyện và hành trình
của thời đại”, 1997 (bản photocopy) của tác giả Đào Ngọc Chương, vấn đề này mới đư
ợc

được đề cập đến. Theo chúng tôi, Đào Ngọc Chương đã lí giải một cách khá thuyết phục ý
nghĩa xã hội, lịch sử của hành trình “chối bỏ” văn minh đi về phía thiên nhiên hoang dã của
hai nhân vật Huck và Jim khi đánh giá thiên nhiên như là những biểu tượng :
Cả hai cuộc chạy trốn trên (của Huck và Jim) đều hướng đến tự do theo nghĩa thoát
thoát khỏi những qui định xã hội, tìm về với thiên nhiên mà rừng và sông là những
biểu trưng. Chính vì thế mà cả hành trình là một biểu trưng. [11, tr.19].
Chính sự lí giải này về các hình ảnh thiên nhiên sẽ soi rọi những đặc điểm riêng của
chủ nghĩa hiện thực Mĩ trong tiểu thuyết của Mark Twain. Đây chính là một gợi ý để chún
g
tôi tiến hành tìm hiểu vấn đề thiên nhiên trong sáng tác của nhà văn miền Tây này.
Một bài viết khác về Mark Twain khá ngắn gọn nhưng có nhắc đến thiên nhiên trong
tiểu thuyết Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn. Đó là phần giới thiệu về Mark
Twain trong cuốn Phác thảo văn học Mĩ của Kathryn Vanspanckeren, Nxb Văn nghệ thành
phố Hồ Chí Minh, 2001 do Lê Đình Sinh và Hồng Chương dịch :
Đoạn kết mang đến cho độc giả phiên bản trái ngược với huyền thoại cổ điển về
thành c
ông của nước Mĩ : đó là con đường rộng mở dẫn đến miền đất hoang dã chưa
bị xâm phạm, cách xa những ảnh hưởng suy đồi đạo đức của cái gọi là “văn minh”.
[68, tr.122].
Và trung tâm của miền đất hoang dã ấy là “hình ảnh con sông hùng vĩ nhưng đầy
cạm bẫy, luôn luôn thay đổi cũng là nét chính trong bức tranh phong cảnh giàu tưởng
tượng của ông.” [6
8, tr.123].
Tuy chỉ mang tính chất giới thiệu, nhưng tác giả đã nêu được ý nghĩa của thiên nhiên
khi thể hiện cái nhìn của Mark Twain về xã hội công nghiệp.
Một tác giả khác là Lê Huy Bắc trong cuốn Văn học Mĩ, NXB Đại học Sư phạm 2002
đã dành hẳn chương hai viết về Mark Twain. Không gian trong Những cuộc phiêu lưu của
Tom Sawyer và Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn chỉ được nhắc đến như là
“không gian tồn tại” của các nhân vật. Và sau khi phâ
n tích các sự kiện trả thù, rượt đuổi

mà Huck và Jim tình cờ được chứng kiến trong hành trình của mình, tác giả Lê Huy Bắc kết
luận :
Thế giới của Tom và Huck càng hoang sơ bao nhiêu thì càng dễ nổ ra bạo lực khốc
hại bấy nhiêu. [5, tr.195].
Như vậy nét hoang sơ của thiên nhiên hai bên bờ dòng Mississippi được gắn với “thế
giới bạo lực” chứ không đư
ợc nhìn nhận như một sự “về nguồn” để phản đối xã hội công
nghiệp.
Khi xem xét thiên nhiên như là không gian sống và hành động của các nhân vật trong
sáng tác của Mark Twain, các nhà nhiên cứu dù chỉ nhắc đến hay có lí giải thì đều chú ý đến
nét hoang sơ của nó. Đây cũng chính là điều chúng tôi chúng tôi sẽ trình bày kĩ trong
chương hai của luận văn. Tuy nhiên chúng tôi sẽ xem xét nó trong mối quan hệ với thể loại
phiêu lưu cũng như với quan niệm của Mark Twain về thời đại.

3.2. Thiên nhiên như là bản chất
Về ý nghĩa thứ hai này của thiên nhiên, bài viết của tác giả Lionel Trilling khi giới
thiệu cuốn Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn mà chúng tôi đã nói đến ở phần
trên có đề cập đến vai trò của dòng sông trong việc dẫn dắt những suy nghĩ và hành động
của Huck. Theo tác giả, chính dòng sông khiến cuốn sách này trở thành một tuyệt tác :
“Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn” là một tuyệt tác bởi nó kể về một vị
thần – đó l
à sức mạnh với ý chí dẫn đường, và đối với con người, là hiện thân của ý
niệm đạo đức vĩ đại. [74, tr.7].
Nhân vật Huck Finn, vì vậy được Lionel Trilling nhìn nhận như một “đầy tớ” của
“thần sông”. Điều này, nhắc đến ảnh hưởng của thuyết Siêu nghiệm lên cách nhìn thiên
nhiên của Mark Twain. Thiên nhiên có vai trò dẫn dắt trực giác và nhờ nó con người có thể
đến với chân lí. Bài viết đã chỉ ra những trạng thái khác
nhau của dòng sông và “tâm trạng
khuây khỏa” cùng “lòng biết ơn” của Huck mỗi khi quay lại dòng sông sau mỗi chuyến vào
đất liền, để từ đó khẳng định vai trò của thiên nhiên trong việc dẫn dắt nhận thức của Huck

trước các vấn đề xã hội.
Tuy nhiên hành trình của Huck và Jim còn gắn với một hình ảnh thiên nhiên khác
cũng trở đi trở lại trong tác phẩm dù ít lần hơn dòng sông, mà Lionel Trilling chưa chú ý
đến. Đó chính là khu rừng, nơi mà Huck nghĩ đến đầu tiên mỗi khi cảm thấy buồn bực; là
không gia
n bình yên có tác dụng che chở, an ủi nhân vật. Chúng tôi sẽ nói kĩ hơn điều này
trong chương hai của luận văn.
Cũng trong bài giới thiệu này, tác giả Lionel Trilling đã nhắc đến “bản chất đạo
đức” của nhân vật Huck Finn sau khi điểm qua nhiều hành động của Huck; từ việc tìm
người cứu bọn cướp trên chiếc tàu sắp đắm đến việc cảnh báo c
ho Đức Vua và Quận Công
những tai họa… đặc biệt là quyết định cứu Jim sau những đấu tranh nội tâm :
…Và tính quả cảm dần hình thành khi dưới sự thúc giục của cảm xúc, Huck bỏ qua
những qui luật đạo đức vốn được xem là mặc nhiên và quyết tâm giúp Jim trốn chạy
khỏi kiếp nô lệ… và ngay khi quyết định đi theo lương tri mách bảo và nói cho Jim
biết, Huck đã lấy được những tình cảm hài lòng và nồng ấm của đức hạnh [74, tr.12].
Chúng tôi, trong chương ba của luận văn sẽ xem xét vấn đề thiên nhiên như là bản
chất thuần phác của các nhân vật m
à trong đó vấn đề lương tâm, đạo đức trên chỉ là một
khía cạnh.
Vấn đề Thiên nhiên - bản chất cũng được Beernard Noel và Stanley Geist nhắc đến
trong Dictionnaire des personnages, Laffont Bompaini – Paris khi nhận xét về hai nhân vật
Tom Sawyer và Huck Finn. Theo Beernard Noel, Tom
là đứa trẻ có ý thức bẩm sinh về những giá trị chân thực của cộng đồng nên đã trở
thành người thích làm sáng tỏ và khôi phục công lí. Dù em chơi trò Robin Hood hay
đi tìm của chôn dấu, em luôn chọc ngang vào các công việc của người đời để khôi
phục lại cái trật tự mà lương tri và lí trí của những người lớn không duy trì được.
[46, tr.67].
Và đây là nhận xét của Stanley Geist về nhân vật Huck Finn :
… xa lạ với những tí

n ngưỡng và tập quán của nền văn minh. Huck chỉ thấy thân
thiết gắn bó với các lực lượng tự nhiên và những điều huyền bí ẩn dấu trong tự
nhiên. Hoài nghi trước những cảnh tượng đời sống của những con người văn mi
nh,
Huck nói về cuộc sống ấy như thể chú bị ngăn cách bởi một bức tường thủy tinh
trong suốt. [46, tr.69].
Cả hai tác giả đã nhắc đến bản chất thuần phác trong các nhân vật của Mark Twain.
Bản chất ấy bộc lộ trong các trò phiêu lưu trẻ con của Tom; còn đối với Huck, nó bộc lộ
thông qua những suy nghĩ và hành động trong suốt cuộc hành trình về với thiên nhiên. Điều
này nhắc đến cái nhìn triết lí về thiên nhiên của Mark Twain mà chúng tôi sẽ lí giải ở
chương ba của luận văn.
Về vấn đề thiên nhiên như là bản chất trong sáng tác của Mar
k Twain, các nhà
nghiên cứu trong nước dường như chưa thật sự quan tâm. Nó thường chỉ được nhắc đến mà
chưa chú ý lí giải. Tác giả Lê Hồng Sâm, năm 1988, trong lời giới thiệu cuốn Những cuộc
phiêu lưu của Tom Sawyer, có nhắc đến sự chống đối “
có tính chất bản năng” của nhân vật
khi phân tích giá trị phê phán xã hội của tác phẩm thông qua những hành động nghịch ngợm
của Tom ở nhà thờ và trường học. Lê Huy Bắc thì lại đánh giá việc Huck cứu Jim là “hành
động theo lương tri, theo bản chất của con người.” [5, tr.187]. Do đó “Hành trình đơn độc
đưa Jim chạy trốn của Huck là hành trình mang tính cách mạng nhất trong tư duy của một
người da trắng.” [5, tr.193].
Như vậy cái bản chất mà Lê Huy Bắc nhắc đến nghiêng về ý thức, về lí trí nhiều hơn
sự thuần phác mà chúng tôi muốn nói đến khi
tìm hiểu các nhân vật trong chương thứ ba.
Cho đến nay, theo chúng tôi, tác giả Đào Ngọc Chương là người đã có những chú ý
về vấn đề này. Trong bài viết “Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn”- nhân vật
người kể chuyện và hành trình của thời đại” mà chúng tôi đã nhắc đến ở trên, tác giả đã chỉ
ra một ý nghĩa mới mẻ là “đi tìm bản sắc
dân tộc” trong hành trình hướng về thiên nhiên

của Huck và Jim. Bản chất thuần phác của các nhân vật có thể xem như một phần trong bản
sắc ấy. Sau này, như một sự nhân tiện khi bàn về yếu tố phiêu lưu trong đặc điểm kết cấu -
cốt truyện tiểu thuyết của Hemingway, Đào Ngọc Chương đã nhắc đến Mark Twain:
Kiệt tác “Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn”của M
ark Twain ở nửa sau
thế kỉ XIX là một trường hợp đặc biệt vừa kết hợp cảm quan về một thiên nhiên khoáng đạt
như là cái nôi của con người đầy chất tư tưởng với cảm quan về một hiện thực xã hội Mĩ
đang sống trong thứ văn hóa Thanh giáo đầy chất giáo điều. [13, tr.139].
Khi nhắc đến vấn đề tư tưởng và tinh thần trong tiểu thuyết phiêu lưu Mĩ, mà t
rong
đó các hình ảnh thiên nhiên chứa đựng những ý nghĩa tượng trưng đặc biệt, ý kiến nói trên
của Đào Ngọc Chương đã mở ra một hướng cần thiết để có thể lí giải vấn đề thiên nhiên –
bản chất trong tiểu thuyết của Mark Twain.
Trên đây là các ý kiến, kiến giải của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về các
phương diện mà chúng tôi quan tâm trong sáng tác của Mark Twain. Dĩ nhiên việc tổng
thuật không thể nà
o đầy đủ nhưng chắc rằng đã phác họa được những nét chính của các vấn
đề một cách nghiêm túc và trung thực. Điều rõ ràng là có rất nhiều hướng tiếp cận sáng tác
của Mark Twain mà hướng nào cũng nhằm khám phá thế giới nghệ thuật của ông.
Tuy vậy, chưa có công trình nào thực sự đi sâu vào khảo sát, lí giải vấn đề thiên
nhiên trong tiểu thuyết của Mark Twain một cách có hệ thống theo hai ý nghĩa tự nhiên và
bản chất. Hướng đi này, theo chúng tôi, sẽ mở ra một cách nhì
n nhận mới về chủ nghĩa hiện
thực và tiểu thuyết phiêu lưu Mĩ trong hai sáng tác đỉnh cao của Mark Twain.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Trong các sáng tác của Mark Twain, ta thấy trở đi trở lại những hình ảnh của
vùng sông nước biên giới phiá Tây gắn với dòng Mississipi hùng vĩ. Điều này có mối quan
hệ với cuộc đời ông, nhất là trong thời kì tuổi thơ và những ngày tháng tuổi trẻ say mê học
việc lái tàu. Trong trường hợp này, phương pháp nghiên cứu tiểu sử tác giả được coi là cần
thiết khi chúng tôi tiến hành lí giải vấn đề cụ thể là thiên nhiên trong tác phẩm của Mark

Twain.
4.2. Nếu không gắn c
ác tác phẩm của Mark Twain với bối cảnh ra đời của chúng là
Nước Mĩ thế kỉ XIX khi mà sự quan tâm đến nền văn hóa nông nghiệp như là một phản ứng
của thời đại thì sẽ không thể lí giải đầy đủ ý nghiã của các hình ảnh thiên nhiên. Do đó, từ
đây phương pháp nghiên cứu xã hội học có lúc sẽ được chúng tôi vận dụng đến để tìm hiểu
ý nghĩa biểu trưng của thiên nhiên trong sáng tác của Mark Twain.
4.3. Mặc dù trong trong hai cuốn tiểu t
huyết Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer
và Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn có cùng bối cảnh là sông nước miền biên
giới phía Tây, các nhân vật thì trở đi trở lại trong cả hai tác phẩm nhưng chúng ra đời cách
nhau tám năm và chứa đựng những ý nghiã cũng không hoàn toàn giống nhau mà có sự phát
triển. Vì thế khảo sát thiên nhiên trong hai tác phẩm ấy, chúng tôi còn vận dụng phương
pháp so sánh đối chiếu để tìm ra sự phát triển của các ý nghiã chứa đựng trong hình ảnh
thiên nhiên.
4.4. Các hì
nh ảnh thiên nhiên chỉ được xác định là có chứa đựng những ý nghiã sâu
rộng hơn ý nghĩa thông thường khi chúng xuất hiện liên tục trong tác phẩm. Chính vì vậy
mà chúng tôi sẽ sử dụng phương pháp thống kê để khảo sát tần số xuất hiện của các hình
ảnh thiên nhiên cụ thể nhằm lí giải ý nghiã của thiên nhiên nói chung trong sáng tác của
Mark Twain.
Trên đây là những phương pháp nghiên cứu chính mà chúng tôi sẽ vận dụng trong
quá trình khảo sát thiên nhiên trong tiểu thuyết của Mark Twain. Dĩ nhiê
n trong trường hợp
thật cần thiết chúng tôi sẽ vận dụng thêm những phương pháp hỗ trợ khác.

5. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát vấn đề thiên nhiên trong tiểu thuyết của Mark Twain, chúng tôi trước hết
hướng tới lí giải một vấn đề cụ thể mang ý nghĩa thẩm mĩ, xã hội và triết học mà nhà văn
thể hiện như một thành công của dòng văn học mang tính chất miền rất đặc trưng trong văn

học Mĩ thế kỉ XIX.
Đồng thời, khi lí giải vấn đề trong phạm vi cụ thể ấy, chúng tôi cũng muốn khẳng
định những đóng góp hết sức cơ bản của Ma
rk Twain cho nền văn xuôi hiện thực Mĩ , cũng
như góp thêm một ý kiến vào việc nghiên cứu và giảng dạy các sáng tác của Mark Twain.

6. Bố cục luận văn
Luận văn gồm 3 phần chính : Phần mở đầu, Phần nội dung có ba chương và Phần kết
luận
6.1. Mở đầu
Trong phần này, chúng tôi khẳng định sự cần thiết của đề tài thông qua việc nêu lí do
chọn đề tài, trình bày đối tượng và phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu, bố cục của
luận văn.
Trong mục Lịch sử vấn đề chúng tôi tổng thuật những kiến giải của các nhà nghiên
cứu viết về hai phương diện của thiên nhiên trong hai tiểu thuyết quan trọng của Mark
Twain. Từ đó, chúng tôi xác định cụ thể đề tài nghiê
n cứu của mình.
Riêng trong mục Phương pháp nghiên cứu, chúng tôi không chỉ liệt kê các phương
pháp được vận dụng trong luận văn mà còn chỉ ra ý nghĩa cần thiết của các phương pháp ấy
trong việc triển khai đề tài

6.2. Chương 1 : Thiên nhiên trong văn học
Chương này chúng tôi lí giải hai ý nghĩa của thiên nhiên là tự nhiên và bản chất.
Đồng thời sẽ làm sáng tỏ chúng thông qua một số dẫn chứng cụ thể trong một số tác phẩm
văn chương thế giới. Tiếp theo chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu vấn đề thiên nhiên trong văn học
Mĩ thế kỉ XIX để từ đó chỉ ra những nét kế thừa và phát triển của Mark Twain khi miêu tả
thiên nhiên. Đây sẽ là chương có vị trí nền tảng để từ đó khảo sát các nội dung trong hai
chương sau.

6.3. Chương 2 : Thiên nhiên như là tự nhiên – không gian phiêu lưu

Đây là chương mà chúng tôi sẽ khảo sát các hình ảnh thiên nhiên cụ thể trong hai tiểu
thuyết của Mark Twain là Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer và Những cuộc phiêu lưu
của Huck Finn với ý nghĩa là không gian sống và hành động của các nhân vật. Các hình ảnh
thiên nhiên sẽ được chúng tôi tìm hiểu trong mối quan hệ với tiểu thuyết phiêu lưu và chủ
nghĩa hiện thực Mĩ. Từ đó, chúng tôi hướng đến việc làm rõ cách nhìn của nhà văn đối với
xã hội công nghiệp.

6.4. Chương 3 : Thiên nhiên như là bản chất – sự thuần phác của các nhân
vật
Chúng tôi sẽ lí giải một ý nghĩa khác của thiên nhiên ở chương này. Đó là bản chất
thuần phác của con người được biểu hiện qua thái độ đối với những chuẩn mực xã hội; qua
suy nghĩ và hành động, qua cách xử lí tình huống của các nhân vật Tom Sawyer, Huck Finn
trong các cuộc phiêu lưu. Vấn đề bản chất thuần phác cũng sẽ được tìm hiểu để có thể làm
sáng tỏ được quan niệm của Mark Twain về con người, về xã hội đư
ơng thời thông qua thái
độ đề cao sự thuần phác trong bản chất các nhân vật của nhà văn.


6.5. Phần kết luận
Trong phần này chúng tôi tổng kết những ý kiến của luận văn. Từ đó khẳng một
cách nhìn đối với các tác phẩm của Mark Twain.
Chương 1
THIÊN NHIÊN TRONG VĂN HỌC

1.1. Thiên nhiên - đối tượng miêu tả của văn chương
Khái niệm Thiên nhiên (nature) vốn chứa nhiều nội dung phong phú; trong đó hai ý
nghĩa thường được nhắc đến nhiều nhất là : tự nhiên và bản chất. Về ý nghiã thứ nhất, Từ
điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên, NXB Khoa học học xã hội, Hà Nội – 1977 định nghiã
:
Thiên nhiên (tự nhiên) là toàn bộ những vật tồn tại ở chung quanh con người và

không phải do sức người làm nên.
Còn trong Oxford Advanced Learner’s Dictionary, 7
th
edition – 2006 ngoài ý nghĩa
thứ nhất giống như trên còn đưa ra ý nghĩa thứ hai của nature như sau :
Use to describe behavious that is part of the character that a person or an animal
was born with.
Do đó cũng dễ hiểu khi Thiên nhiên trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học từ điạ lí, sinh học đến triết học, xã hội học… Mỗi ngành sẽ tìm hiểu, nghiên cứu
Thiên nhiên từ những góc độ, những quan điểm khác nhau. Thành quả của các nghiên cứu
ấy ngày càng khẳng định vai trò, ảnh hưởng to lớn của thiên nhiê
n với toàn bộ đời sống trên
trái đất.
Trong văn học, khi bước vào tác phẩm, thiên nhiên trở thành một thành tố đặc biệt,
hàm chứa những ý nghĩa sâu sắc thường góp phần tạo hiện tượng đa nghĩa. Nói cách khác,
trong tác phẩm văn chương thiên nhiên một mặt đã được nâng lên thành hình tượng không
gian – thứ không gian mang nghĩa không gian tâm trạng… Mặt khác trở thành những biểu
hiện của bản chất người nơi nhân vật.
Trong tác phẩm văn chương t
hiên nhiên luôn luôn tồn tại như những “không gian
thực” mà ta có thể bắt gặp ở bất cứ nơi nào trong vũ trụ này; đồng thời nhiều khi nó đạt đến
mức biểu tượng, chứa đựng những ý nghiã sâu xa, khái quát. Trong văn chương thế giới từ
cổ đại cho đến đương đại, từ phương Đông sang phương Tây, thiên nhiên luôn tồn tại song
hành cùng các nhân vật. Những hình ảnh thiên nhiên cụ thể xuất hiện trong các tác phẩm
văn chương (đặc biệt là tác phẩm tự sự) có vai trò quan trọng trong việc thể hiện hành động,
tư tưởng tình cảm của nhân vật. Việc miêu tả thiên nhiên trong những trường hợp này chính
là tạo ra bối cảnh cho câu chuyện diễn tiến. Có thể nói yếu tố thiên nhiên là “vật liệu” không
thể thiếu trong quá trình sáng tác văn chương của các tác giả. Tuy nhiên có thể biến t
hiên
nhiên thành những hình tượng đa chiều, giàu sức biểu hiện hay không thì còn tùy thuộc vào

điểm nhìn, vào cảm quan, vào năng lực… của từng tác giả, vào cấu trúc văn bản, vào đặc
điểm của từng thể loại văn học…
Bên cạnh đó, sự song hành của yếu tố thiên nhiên với các nhân vật trong tác phẩm
văn chương còn chứa đựng một nội hàm nữa. Đó chính là sự thể hiện bản c
hất tự nhiên của
con người. Khi để nhân vật gần gũi với thiên nhiên, suy nghĩ và hành động theo trực giác là
các tác giả muốn khắc hoạ bản chất thuần phác của nhân vật. Ý nghĩa này của thiên nhiên
trong các tác phẩm văn chương có nguồn gốc từ những đặc điểm lịch sử – xã hội – văn hoá
cụ thể mà chúng tôi sẽ trình bày chi tiết hơn trong mục 1.1.2 - Thiên nhiên như là bản chất,
ở phần sau.
Tiếp theo, chúng tôi sẽ đi vào tì
m hiểu những biểu hiện hai ý nghĩa trên của thiên
nhiên trong một số tác phẩm văn chương cụ thể.


1.1.1. Thiên nhiên như là tự nhiên
Về ý nghiã này, khái niệm thiên nhiên trùng khớp với khái niệm không gian tự nhiên
quen thuộc. Khi được hiểu là không gian, thì thiên nhiên
gắn không tách rời với thời gian, vừa là nơi chứa đựng những gì có thể xảy ra – theo
ý nghiã đó, nó tượng trưng cho trạng thái hỗn mang của các gốc nguồn – vừa là nơi
chứa đựng những gì đã thực hiện – khi đó nó tượng trưng cho vũ trụ, cho thế giới đã
được tổ chức. [8, tr.486]
.
Như vậy một khu rừng, một dòng sông, một ngọn núi… đều là không gian tự nhiên
hiện thực, đều thuộc về thiên nhiên, về vũ trụ. Vì không gian hiện thực là cơ sở làm nảy sinh
nhận thức, cảm nhận về không gian của các tác giả nên trong tác phẩm văn chương chúng
được biểu hiện hết sức đa dạng, phong phú. Dưới ngòi bút miêu tả của các nhà văn, thiên
nhiên hiện ra có khi rất cụ thể, chân thực; c
ó khi lung linh, huyền ảo, sâu lắng. Tìm hiểu một
cách chi tiết, đầy đủ tất cả những biểu hiện như thế của thiên nhiên quả thật không dễ dàng

gì. Do đó, với mục đích xây dựng cơ sở lí luận và thực tế cho nội dung chương hai của luận
văn (Thiên nhiên như là tự nhiên – không gian phiêu lưu) chúng tôi, ở đây sẽ chỉ nói về hai
biểu hiện của hình tượng thiên nhiên: Thiên nhiên – không gian sống và hành động, Thiên
nhiên – không gian nội tâm, mà theo chúng tôi là khá phổ biến trong các tác phẩm văn
chương.
1.1.1.1. Thiên nhiên – không gian sống và hành động
Đây là dạng tồn tại phổ biến, quen thuộc của thiên nhiên trong văn học. Khi nhìn
nhận thiên nhiên như là không gian sống và hành động của các nhân vật trong một tác phẩm
văn chương là chúng ta đang nói đến lớp nghĩa đầu tiên của hì
nh tượng thiên nhiên. Ẩn sau
các hình ảnh thiên nhiên còn có thể có nhiều ý nghĩa khác nữa xa hơn, rộng hơn bản thân
chúng, nhưng thiên nhiên trước tiên được hiểu là bối cảnh cuả câu chuyện gắn liền với mọi
hoạt động của các nhân vật. Thông qua việc miêu tả các bối cảnh khác nhau, chúng ta còn
có thể hiểu được quan niệm về thiên nhiên của các tác giả cũng rất khác nhau từ Đông sang
Tây, từ cổ chí kim.
Với ý nghiã này, thiên nhiên đã xuất hiện trong sử thi Homer, mặc dù tác giả chỉ tập
trung m
iêu tả hành động của các nhân vật anh hùng theo đúng đặc trưng của thể loại sử thi.
Trong Iliad, dù tác giả không trực tiếp miêu tả nhưng chúng ta vẫn nhận ra những nét riêng
của không gian khi theo dõi hoạt động của các nhân vật. Đó là cảnh bình minh khi mà hai
bên giao tranh tạm ngưng chiến để nhặt xác người chết :
Trên đồng rộng mặt trời vừa tỏa s
áng,
Vượt ra khỏi đại dương sâu phẳng lặng
Để băng mình lên bát ngát trời cao,
Thì người Tơ-roa và người Ac-gôx gặp nhau.
Và ở đó khó có thể nhận ra từng kẻ một.
Họ lấy nước rửa lớp bùn máu còn bê bết,
Và lệ tuôn trào, chất xác chết lên xe…
[31, (1), tr.222].

Hay cảnh đêm yên tĩnh trước một trận đánh khác :
Quân Tơ-roa đốt bùng lên bao ngọn lửa hồng trước thành quách I-li-ông
Nghìn đống lửa sáng trưng cháy giữa cánh đồng,
Cạnh mỗi đống, năm chục người ngồi châu bên ánh rọi,
Và lũ ngựa nhai đại mạch trắng và lúa mì dai chờ đợi,…
[31, (1), tr.249 – 250].
Có thể nói trong Iliad, song hành với những trận đánh ác liệt, những người anh hùng
là không gian chiến trận rộng lớn với thành quách, cánh đồng…
Sang đến Odyssey, cùng với hành trình hồi hương gian nan của Ulysses, không gian
mở rộng hơn nhiều và Homer cũng chú ý miêu tả thiên nhiên chi tiết hơn. Khác với Achilles
– chiến binh, Ulysses – kẻ hải hồ phải vượt qua vô số thử thách trên hải trình dài mười năm
của m
ình. Do đó không gian biển cả có thể nói bao trùm tác phẩm. Khi Ulysses bỏ qua lời
cảnh báo của nữ thần Calypso, đóng bè vượt biển, Homer đã miêu tả cảnh bão tố trên biển
rất thực:
… một ngọn sóng cao ngất, khủng khiếp, xông tới, xô vào người và lật úp chiếc bè.
Người bị hất khỏi bè, phải buông rời tay lái. Cột buồm bị mọi thứ gió cùng hợp lực
đánh vào dữ dội, bẻ gãy làm đôi, tung các mảnh ra xa, sàn bè cũng rơi chìm xuống
bể. [32, tr.38].
Và khi Ulysses cố bơi đến c
hiếc bè, trèo lên đó thì :
Những ngọn sóng khổng lồ liền đẩy chiếc bè khắp chốn, lắc lư theo dòng nước. Như
những cây gai mắc chằng vào nhau thành một bó bị gío bắc mùa thu quét đi khắp
cánh đồng, chiếc bè cũng bị gió đẩy đi đó đây trên mặt biển, khi thì gió nam trao c
ho
gió bắc, khi thì gió đông lại nhường cho gió tây đuổi. [32, tr.39].
Tất nhiên, thiên nhiên ở đây không chỉ là không gian mà nó còn là hiện thân của thử
thách mà hành động vùng vẫy chống chọi của người anh hùng “muôn vàn trí xảo” chính là
tinh thần, là khát vọng chinh phục thiên nhiên của người Hy Lạp nói riêng và của người
phương Tây nói chung. Sau khi bước ra khỏi những cuộc chinh chiến, con người bước vào

thời kì xây dựng với khát vọng ấy. Do đó theo bước chân của Ulysses là những không gian
khác
nhau biểu thị sự phát triển khác nhau của nhiều vùng đất. Có khi là vùng đất phát triển
với những lâu đài tráng lệ, những vườn cây xanh tốt :
Trong khi ấy, Ulysses đi về phía lâu đài nổi tiếng của Ankinoos. Trước khi đặt bước
lên ngưỡng của đồng, người dừng lại, lòng rối bời vì bao nhiêu ý nghĩ. Ngôi nhà cao
của Akinoos hào hiệp sáng rực như ánh mặt trời hoặc ánh trăng đêm. Từ ngưỡng
cửa đến cuối nhà, hai bên tả hữu đều là tường đồng, trên có đường diềm bằng men
xanh. Nhà chắc chắn, cửa bằng vàng, bậu cửa bằng bạc, đóng vào ngưỡng cửa
đồng. Mi cửa cũng bằng bạc, và vòng cửa bằng vàng… Xa hơn một quãng là vườn
nho xanh tốt; bên phía vườn dại nắng và bằng phẳng, nho đang phơi dưới ánh mặt
trời, còn ở phía vườn kia, từng tốp thợ gặt, kẻ hái, người đạp nho rộn r
ã… [32, tr.56
– 57].
Nhưng cũng có khi lại là hang động trên núi cao của gã khổng lồ một mắt, hay hòn
đảo hoang vắng “không có một vết chân người khiến dê phải sợ” tượng trưng cho sự lạc
hậu của một vùng đất khác…
Vẫn xem xét ý nghĩa này, khi tìm hiểu các sử thi nổi tiếng của Ấn Độ, chúng ta sẽ
thấy có một sự khác biệt trong cách nhìn thiên nhiên. Khác với tinh thần khát khao chinh
phục thiên nhiên của phương Tâ
y, người phương Đông sống hòa đồng với thiên nhiên, coi
con người là một phần của thiên nhiên. Do đó, trong Mahabharata, không gian núi rừng
thâm sâu mà các anh hùng Pandava sống mười hai năm lưu đầy, rất chú trọng được miêu tả.
Khu rừng mà Arjuna bước vào để bắt đầu thực hành tu luyện quả thực tuyện đẹp :
Chàng một mình dấn bước vào khu rừng khủng khiếp đầy cỏ gai, cây, hoa, trái đủ
loại, đủ loại sinh vật có cánh, đủ loại
muông thú. Khi chàng bắt đầu bước vào khu
rừng không một dấu chân người đó, trên không vang rền tiếng trống, tiếng tù và. Một
cơn mưa xối xả và những đám mây lớn trùm khắp bầu trời làm mặt đất đột nhiên rợp
mát. . . Trên núi muôn ngàn loài cây cối xanh tươi giữa những thảm cỏ xanh, vang

lừng tiếng muôn loài chim ca hát. Những dòng sông uốn lượn, vang tiếng lảnh lót
của vịt nước, thiên nga, cò hạc… Trên bờ sông, tiếng những con chi
m công ngọt
ngào như rót mật vào tai. [28, tr.218].
Bên cảnh vẻ đẹp nên thơ, nguyên sơ của không gian rừng núi, thiên nhiên ở đây còn
mang ý nghĩa giác ngộ tâm linh. Hòa hợp với thiên nhiên con người sẽ tìm được bản ngã
của mình, sẽ trưởng thành và ngộ ra chân lí. Không gian này vì thế đối lập với không gian
kinh đô do con người tạo nên cũng được miêu tả khá chi tiết trong sử thi Mahabharata. Đối
lập, bởi lẽ con người sẽ trở thành nô lệ của dục vọng, của lòng t
ham trong chính những lâu
đài nguy nga tráng lệ kia.
Sử thi An Độ, bên cạnh Mahabharata, không thể không nhắc đến Ramayana. Thiên
nhiên trong Ramayana xuất hiện nhiều hơn và đặc sắc hơn. Tuy nhiên ý nghĩa là không
gian sống và hành động của nhân vật dường như mờ nhạt hơn ý nghĩa Thiên nhiên – không
gian nội tâm. Do đó chúng tôi sẽ nói về thiên nhiên trong sử thi Ramayana ở phần sau.
Khi tìm hiểu thiên nhiên như là không gian sống và hành động của các nhân vật trong
tác phẩm văn chương, chúng ta còn khám phá được những nét vừa riêng biệt vừa tiêu biểu
của thiên nhiên ở những quốc gia khác nhau. Những bức tranh phong cảnh các mùa trong
năm; hình ảnh một ngọn núi, một dòng sông… thường được các nhà văn miêu tả hết sức ch
i
tiết và sống động. Đó chính là những không gian mở thường rất rộng rãi, khoáng đạt. Thông
qua kiểu không gian ấy chúng ta còn có thể hiểu được phần nào phong cách của từng nhà
văn. Cảnh vật mùa xuân qua ngòi bút của Lev Tolstoy, hồi sinh mạnh mẽ, tràn đầy sức sống
và rất Nga:
Cỏ già năm ngoái xanh tốt lại, cỏ non năm nay như kim đâm tủa trên mặt đất; những
chồi cây tuyết cầu, phúc bồn tử và
bạch dương dính nháp, sực nức mùi hương, đều
căng nhựa và quanh rặng liễu tắm nắng vàng tươi, đàn ong bị nhốt suốt mùa đông
trong túp lều bằng cành cây, lại thoát ra, vo ve bay lộn. Chim sơn ca không ai trông
thấy tuôn tiếng hót trên đồng cỏ nhung tơ và ruộng rạ phủ băng, chim te te than vãn

bên bờ những thung lũng và bãi lầy ngập nước lũ còn ứ đọng; tít trên cao, sếu và
ngỗng trời bay qua cất tiếng kêu mừng mùa xuân. Đàn súc vật trụi lông mới loáng

thoáng mọc lại, rống lên chạy trên bãi cỏ, cừu non chân cẳng leo khoeo nhảy lon ton
quanh đàn cừu mẹ đã gọt lông đang kêu be be; trẻ con thoăn thoắt chạy dọc những
con đường nhỏ đang se dần vết chân không của chúng, tiếng phụ nữ rộn lên vui vẻ
bên bờ đầm nơi họ đang giặt vải và tiếng rìu của nông dân đang chữa lại cày bừa,
vang vang trong các sân nhà. Mùa xuân thật sự đã về. [57, tr.268].
Còn với Y
asunari Kawabata, cảnh vật mùa xuân ở cố đô Kioto cũng hồi sinh nhưng
tĩnh lặng, êm ả hơn nhiều.
Họ xuôi lối mòn lại gần hồ. Ngay sát bờ, đám lá nhọn đuôi diều tươi lên mơn
mởn, còn loài hoa súng thì khẽ đung đưa êm ả, trải rộng trên mặt nước những chiếc
lá tròn trĩnh. Gần hồ anh đào không mọc.
Vòng qua hồ, Sinic
hi và Chieko ra tới con đường hẹp. Nơi đây, dưới tán lá
xanh ngự trị cảnh tranh tối tranh sáng. Mùi lá non và đất ẩm phảng phất. Phút chốc
con đường đã dẫn họ tới một khu vườn rộng có hồ ở giữa. Hồ lớn hơn cái hồ mà họ
vừa đi qua. Cảnh vật vụt trở nên sáng sủa nhờ những cây anh đào đầy hoa in bóng
trên mặt nước hồ. [36, tr.19].
Không thể phủ nhận là cả Lev Tolstoy và Yasunari Kawabata đều có biệt tài miêu tả
thiên nhiên. Họ giống nhau ở chỗ đều gắn bó với thiên nhiên, yêu thiên nhiên và cảm nhận
thiên nhiên hết sức tinh tế. Tolstoy từng sống nhiều năm tại trại ấp của mình, thân thuộc với
những cánh đồng bát ngát, những người nông dân chất phác. Còn Kawabata thì đặc biệt yê
u
quí Kioto, ông luôn coi nơi đây như quê hương của mình. Tuy vậy quan điểm của hai ông
về thiên nhiên thì không hoàn toàn giống nhau. Tolsoy cho rằng vẻ đẹp của thiên nhiên là ở
chỗ nó có thực, mang nhiều sắc thái khác nhau và chứa đựng sức sống mạnh mẽ. Do đó ông
thường miêu tả thiên nhiên rất thực và rất chi tiết. Còn Kawabata, với quan điểm duy mĩ đã
chú trọng vào những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên. Các không gian mà Kawabata miêu

tả không chỉ là những bức tra
nh mang đậm màu sắc Nhật Bản mà còn phảng phất trong đó
quan niệm Thần đạo (Shinto) rất quen thuộc của người dân xứ Phù Tang.
Thiên nhiên như là tự nhiên ấy tiếp tục tồn tại trong tác phẩm văn chương đương đại.
Dẫu tác giả có đưa vào nó những hàm nghĩa mới mẻ, những mối quan hệ mới mẻ (ví dụ
trong các tác phẩm hậu hiện đại) thì nó vẫn thế : thiên nhiên – tự nhiên.
Như vậy, chúng tôi vừa nói đến ý nghĩa đầu tiên cũng là ý nghĩa phổ biến nhất của
thiên nhiên trong tác phẩm văn chương : thiên nhiên như là tự nhiên được hiểu là m
ôi
trường hành động của nhân vật. Bây giờ chúng tôi sẽ nói đến ý nghĩa thứ hai của thiên
nhiên. Đó là không gian nội tâm.
1.1.1.2. Thiên nhiên – không gian nội tâm
Mọi hình ảnh thiên nhiên đều mang ý nghĩa là không gian sống và hành động của
nhân vật nhưng không phải tất cả các không gian trong tác phẩm văn chương đều có thể là
không gian nội tâm. T
hiên nhiên chỉ trở thành không gian nội tâm khi các nhà văn dùng việc
miêu tả thiên nhiên như là một phương tiện để diễn tả những những trạng thái tinh thần
phức tạp của con người. Tất nhiên không phải vì bất lực trong việc diễn tả tâm lí mà nhà văn
phải dùng đến cách này. Nhưng quả thật, một bức tranh thiên nhiên xuất hiện đúng lúc tỏ ra
rất đắc địa trong việc thể hiện những rung động của lòng người và với độc g
iả, nó cũng
giúp sự cảm nhận tự nhiên hơn, dễ dàng hơn.
Trong văn học phương Đông, từ xưa, tả cảnh ngụ tình được coi là một bút pháp quen
thuộc. Như trên chúng tôi đã nói, sử thi “Ramayana” của An Độ có thể coi là một dẫn
chứng tiêu biểu. Thiên nhiên trong “Ramayana” được miêu tả với dung lượng nhiều và rất
chi tiết. Trong suốt cuộc lưu đầy mười bốn năm của hoàng tử Rama, mỗi khi buồn bã, nhớ
mong hay đau khổ, các nhân vật đều tìm đến với thiên nhiên. Đây là cảnh hồ Pampa, vào
mùa xuân :
… nước hồ sao mà trong vắt như pha lê, có gì khác chất ngọc lỏng trên nước da màu
lơ? Những bông sen đỏ rộ nở mới nhiều làm sao! Những rặng cây viền quanh bờ mới

duyên dáng chưa! Và những c
ây cối cành lá sum xuê nom mới giống các đỉnh đồi
làm sao!...
… bây giờ là mùa xuân, mùa của tình yêu. Xem, ngọn gió dịu dàng đang nhẹ thổi,
hoa đang nở rộ, và rừng ngào ngạt hương hoa. Trông kìa! Trông những cây nở hoa
đang trút trận mưa hoa có khác gì những giọt mưa từ trên trời đổ xuống…
… Mùa xuân, như lửa, đang thiêu đốt anh đến là khổ – hoa Ashoka đỏ là than hồng,
tiếng vo ve của đàn ong là tiếng lửa vèo vèo, và lá màu đồng thau là ngọn lửa!... [68,

(2), tr.5 – 6].
Thiên nhiên khi nên thơ, đẹp đẽ làm dịu lòng người; khi tràn đầy hương hoa, tương
phản với cảnh ngộ như trêu tức nhân vật; lúc rực rỡ, chói chang thiêu đốt lòng những kẻ yêu
nhau đang phải cách xa. Các sắc thái khác nhau của thiên nhiên rõ ràng đã có tác dụng rất
đáng kể khi thể hiện những diễn biến tình cảm trong nội tâm nhân vật. Không gian rừng núi
đã trở thành không gian nội tâm. Khi ấy thiên nhiên chính là cánh cửa mở vào tâm hồn
nhâ
n vật.
Các tác giả phương Tây cũng thông qua thiên nhiên để diễn tả nội tâm nhân vật. Với
Lev Tolstoy, đó là một phương tiện hữu hiệu để gợi nên “vô số” những ý nghĩa sâu xa mà
một tác phẩm văn chương có thể chứa đựng. Trong tiểu thuyết Anna Karenina, trên sân ga
xe lửa, khi Anna gặp lại Vrolski, cơn bão tuyết “điên cuồng như không gì cản được” mà
nhà văn miêu tả khá chi tiết chính là để nói về cơn gi
ông tố trong cõi lòng Anna lúc đó.
Nàng vừa vui sướng vừa kinh hoàng khi nghe Vrolski nói chàng rời Mạc-tư-khoa cùng nàng
là để “có mặt ở chỗ nào có bà”. Cơn bão tuyết vì thế còn được hiểu như một dự báo về
những đau khổ, dằn vặt mà đôi tình nhân ấy sẽ phải trải qua.
Khi thiên nhiên được miêu tả như những không gian nội tâm, đôi khi nó còn mang
những ý nghĩa ẩn dụ khác nhau tùy theo quan điểm của từng tác giả. Trong tiểu thuyết Xứ
tuyết của Yasunari Kawabata, chúng ta có thể thấy điều nà
y rất rõ. Tác giả đã kể lại một

chuyện tình buồn trên nền không gian trong trắng, thanh bạch của tuyết. Với 131 lần xuất
hiện của từ “tuyết” trong toàn bộ tác phẩm, không gian xứ tuyết vì thế đã trở thành biểu
tượng chứa đựng khát vọng của một lữ khách suốt đời khao khát tìm kiếm cái đẹp. Ý nghĩa
này còn chứa đựng trong những không gian tuyết được miêu tả rất nên thơ. Cũng là tuyết
nhưng lúc thì “lấp lóa dịu dàng trong ánh sáng”; lúc lại “đang rơi vẽ nên những hào
quang, nhảy múa quanh dáng của Komak
o”…
Điều thú vị là không gian tuyết này cũng rất thường gặp trong tác phẩm của Jack
London. Tuy nhiên, với nhà văn Mĩ này, ý nghĩa ẩn dụ của nó lại khác hẳn. Không gian
trắng xóa, lạnh lẽo trở đi trở lại trong các sáng tác của Jack London vừa thể hiện khát vọng
chinh phục thiên nhiên của con người; lại vừa tượng trưng cho sự thách thức của thiên nhiên
m
à con người khó lòng chinh phục. Không gian tuyết mà Jack London miêu tả thường bao
la, trắng toát :
Tuyết trắng một màu, chỗ nào băng ùn lại nhiều, mặt tuyết cuộn lên thành những đợt
sóng gợn lăn tăn. Từ Bắc xuống Nam, xa hút tầm mắt, tuyết trải trắng một màu mênh
mang… [40, tr.268].
Và cũng thường im lặng đến rợn người vì trong đó thường ẩn chứa những tai họa
khôn lường :
Xung quanh là một sự im lặng đến rùng rợn – không một tiếng động nhỏ nào trong
khu rừng bị tuyết ngập trắng. Cái lạnh và sự im lặng làm đông giá trái tim và cặp
môi run run của thiên nhiê
n. [40, tr.82].
Như vậy, khi thiên nhiên được xem là không gian nội tâm thì nó thường trở thành
một nhân vật trữ tình khác bên cạnh nhân vật chính. Nhân vật thiên nhiên này có khi là tấm
gương phản chiếu nội tâm nhân vật; có khi lại trở thành một người bạn thầm lặng cảm thông
cho nỗi niềm của nhâ
n vật. Cũng có khi thiên nhiên đối lập với nhân vật; thách thức ý chí,
bản năng sinh tồn của nhân vật…
Thiên nhiên trong văn học bên cạnh ý nghĩa là không gian sống và hành động của

nhân vật còn mang ý nghĩa như là bản chất tự nhiên, thuần phác của con người. Bây giờ
chúng tôi sẽ trình bày ý nghĩa thứ hai này của thiên nhiên.
1.1.2. Thiên nhiên như là bản chất
1.1.2.1. Quá trình hình thành quan niệm thiên nhiên như là bản chất
Cách hiểu thiên nhiên như là bản chất có liên quan đến ngành nhân học và dân tộc
học. Như chúng ta đã biết , ở phương Tây việc tìm hiểu, nghiên cứu về những vấn đề xã hội
đã được các triết gia quan tâm từ thời cổ đại. Thế kỉ XVIII, các nhà nghiên cứu phương Tây
đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến khái niệm Tự nhiên khi nghiên cứu về những người
nguyên thủy. Những câu chuyện du lịch và mô tả các tập quá
n của các dân tộc xa xôi được
mở rộng. Nếu như trước đó, những người nguyên thủy Châu Phi, Châu Mĩ và Châu Úc
thường được mô tả một cách ghê tởm thì ở thế kỉ XVIII này các nhà nghiên cứu hết sức đề
cao họ. Có thể nói đây là thời kì thắng thế của huyền thoại “người dã man tốt”. Tiêu biểu
cho quan niện này phải kể đến Jean-Jacques Rousseau (1712 – 1778), triết gia Pháp nổi
tiếng. Khác với Platon, người đã qua
n niệm rằng có thể thay đổi bản chất con người bằng
việc thay đổi những thể chế xã hội của con người. Đối với Rousseau, tất cả mọi cái bóp méo
và đè bẹp bản chất con người đều là sai. “Con người tự nhiên cũng có nghĩa là con người
hiện thực”. Do đó quay về với tự nhiên có nghĩa là quay về với tính người căn bản của con
người, là cái phải được giải thoát ra khỏi mọi ràng buộc g
iả tạo. Con người đẻ ra tự do, con
người đáng lẽ phải được tự do nhưng lại phải sống trong xiềng xích.
Trong luận văn “Bàn về nguồn gốc và những cơ sở của sự bất bình đẳng giữa người
và người”, Rousseau đã miêu tả người dã man như là một sự hoàn hảo của nhân loại :
Một con người trong đó không có bất cứ cái gì giả tạo mà một tiến trình lịch sử lâu
dài đem
lại. Đó là một con người từ trong thiên nhiên mà ra, khát thì uống nước
suối, giường là dưới gốc cây đã cung cấp thức ăn, và tình trạng đó chính là tuổi thơ
của thế giới. Mọi sự tiến bộ về sau tưởng như đưa tới sự hoàn chỉnh của con người,
nhưng về thực chất thì lại đưa đến sự suy đồi của nòi giống. [

21, tr.12 – 13].
Trong các tác phẩm của mình, Rousseau thường miêu tả những bức tranh tuyệt đẹp
về cảnh hồ, cảnh đêm trăng, cảnh núi rừng, những con đường nhỏ, con suối… Ông cũng ca
ngợi cuộc sống nơi thôn dã với những người nông dân thật thà, chất phác, bình dị, tốt bụng.
Như vậy có thể thấy Rousseau muốn dựa vào thiên nhiên làm nơi của trật tự, của sự hòa

hợp.
Thực ra quan điểm này cũng đã từng được Montaigne (1533 – 1592), nhà nhân văn
chủ nghĩa người Pháp nói đến từ cuối thế kỉ XVI. Trong chương sách nổi tiếng “Những
người dã man” ông đã viết về những người da đỏ ở Brazil như sau :
Ở họ, những phẩm chất và đức tính có thật, hữu ích nhất và tự nhiên nhất, thể hiện
ra một cách sinh động và mạnh mẽ… Những luật của tự nhiên mà không bị những
luật của chúng ta làm cho hư hỏng đi, còn đang chi phối họ… Như vậy, tôi xem các
dân tộc ấy là dã man, là vì họ còn ít tiếp nhận cách thế của trí tuệ con người và còn
gần gũi với sự chất phác nguyên thủy của họ. Và họ còn đang ở trong tình trạng
trong sáng đến nỗi nhiều khi tôi lấy làm bực rằng người ta không biết đến họ sớm
hơn, từ những ngày mà c
ó những người có thể đánh giá họ đúng hơn chúng ta. [21,
tr.8 – 9].
Điều này cho thấy, nguyên tắc xuất phát điểm của Montaigne là tính tự nhiên và sự
gần gũi với thiên nhiên. Ong còn khẳng định nguyên tắc này nhiều lần trong Những tiểu
luận của
mình: “Tất cả những gì xảy ra đúng như tự nhiên đều đáng tôn trọng”. Hay
“…biết tự biểu hiện ra một cách xứng đáng trong bản chất tự nhiên của mình là một dấu
hiệu của sự hoàn thiện”. [21, tr.10].
Tất cả làm nên một trào lưu tư tưởng về nguồn, tức là quay về tìm hiểu xã hội chất
phác thời nguyên thủy, mà đỉnh cao của nó là ở thế kỉ XVIII.
Sang đến t
hế kỉ XIX, ngành xã hội học bước vào thời kì xây dựng, thường được gọi
là xã hội học cổ điển, các nhà nhân học và dân tộc học bắt đầu sự mô tả khách quan các xã

hội nguyên thủy. Đến đây, ta thấy có sự “gặp nhau” giữa folklore và dân tộc học. Hai phạm
trù cơ bản mà các định nghĩa về folklore thường xoay quanh chính là : phạm trù truyền
thống và phạm trù dân chúng. Do đó, kết quả nghiên cứu của folklore sẽ bổ sung cho những
công trình nghiên cứu của dân tộc học. Vai trò chủ yếu của nó là phát hiện trong các dâ
n tộc
văn minh, những tàn dư của tâm tính nguyên thủy để từ đó có thể hiểu về bản chất của con
người cổ xưa. Những phát hiện trong quá trình tìm kiếm đã khiến các nhà folklore học nhận
ra rằng :
Ở các thời kì trước kia, sự biến đổi chậm chạp hơn và kém thường xuyên hơn, vì vậy
mà những phong tục và tín ngưỡng thuở đó phải mất thời gian để hình thành và trở
nên cố thủ sâu trong tiềm thức chủng tộc. Những mẫu mực nguyên thủy này đã chí
n
muồi và chín mọng giống như những mảnh gỗ đã được đánh bóng và vẫn tồn tại dai
dẳng dưới cái vỏ bề ngoài vội vã của những nền văn minh ngày hôm nay đã làm
chúng ta kinh ngạc bởi vẻ đẹp của chúng mỗi khi chúng ta có dịp bắt gặp và phát
hiện r
a chúng. Chúng có vẻ đẹp đó bởi vì chúng được hình thành và phát triển một

×