Tải bản đầy đủ (.pdf) (310 trang)

Tri thức địa phương về sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của người Mường ở huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.6 MB, 310 trang )

Đại học Quốc gia hà Nội
Tr-ờng Đại học khoa học xã hội và nhân văn





Mai văn tùng



Tri thức địa ph-ơng về sử dụng và
quản lý nguồn tài nguyên thiên
nhiên của ng-ời m-ờng ở huyện
bá th-ớc, tỉnh thanh hoá




Luận án tiến sĩ lịch sử













Hà Nội - 2011
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
1
2. Mục đích nghiên cứu của luận án
3
3. Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu của luận án
3
4. Nguồn tài liệu của luận án
4
5. Đóng góp của luận án
4
6. Bố cục của luận án
5
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu
6
1.1. Về các khái niệm tri thức địa phương và nguồn tài nguyên thiên nhiên
6
1.2. Tình hình nghiên cứu
11
1.3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
20
1.4. Về người Mường ở Bá Thước, Thanh Hoá
30
1.5. Tiểu kết
36

Chương 2: Tri thức địa phương về sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên
đất
38
2.1. Nhận thức của người Mường về các loại đất
38
2.2. Tri thức địa phương về sử dụng tài nguyên đất
39
2.3. Tri thức địa phương về quản lý tài nguyên đất
74
2.4. Tiểu kết
84
Chương 3: Tri thức địa phương về sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên
nước
86
3.1. Phân loại nguồn nước
86
3.2. Tri thức địa phương trong việc sử dụng tài nguyên nước
88
3.3. Tri thức địa phương trong việc quản lý tài nguyên nước
110
3.4. Tiểu kết
120
Chương 4: Tri thức địa phương về sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên
rừng
122
4.1. Khái quát về các loại rừng
122
4.2. Tri thức địa phương trong việc sử dụng tài nguyên rừng
124
4.3. Tri thức địa phương trong việc quản lý tài nguyên rừng

147
4.4. Tiểu kết
157
Chương 5: Tài nguyên thiên nhiên và tri thức địa phương đối mặt với xã
hội hiện đại
159
5.1. Tài nguyên đất
159
5.2. Tài nguyên nước
166
5.3. Tài nguyên rừng
174
5.4. Tiểu kết
191
Kết luận
193
Chú thích
197
Danh mục các công trình đã công bố của tác giả liên quan đến luận án
201
Tài liệu tham khảo
202
Phụ lục
226















BẢNG KÊ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQL
Ban quản lý
GS.TS
Giáo sư, Tiến sĩ
KTCTTL
Khai thác công trình thuỷ lợi
KHXH&NV
Khoa học Xã hội và Nhân văn
NN&PTNT
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Nxb
Nhà xuất bản
PCCCR
Phòng cháy chữa cháy rừng
PGS
Phó giáo sư
PGS.TS
Phó giáo sư, Tiến sĩ
TS
Tiến sĩ
Tr

Trang
UBND
Uỷ ban nhân dân
VHTT
Văn hóa thông tin



















DANH MỤC BẢNG
Trang
1. Bảng 1.1: Phân bố các tộc người ở 11 huyện miền núi Thanh Hoá
32
2. Bảng 2.1: Nông lịch của người Mường huyện Bá Thước
60

3. Bảng 2.2: Những giống cây trồng cơ bản ở vườn của người Mường huyện
Bá Thước
69
4. Bảng 5.1: Biến động đất đai thời kỳ 1995 - 2000
161
5. Bảng 5.2: Biến động đất đai thời kỳ 2001 - 2005
161
6. Bảng 5.3: Tổng hợp hiện trạng sử dụng đất huyện Bá Thước năm 2008
165
7. Bảng 5.4: Mô hình quản lý khai thác công trình thuỷ lợi ở huyện Bá
Thước
171
8. Bảng 5.5: Chỉ tiêu phát triển nuôi trồng thuỷ sản huyện Bá thước
173
9. Bảng 5.6: Hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp huyện Bá Thước năm 2008
183
1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Mỗi tộc ngƣời ở các giai đoạn khác nhau vẫn bảo lƣu những tri thức địa
phƣơng về môi trƣờng sống của mình. Các phƣơng thức quản lý tài nguyên, các kỹ
thuật canh tác truyền thống… của ngƣời dân địa phƣơng đôi khi còn phù hợp hơn,
bền vững hơn sự tác động của các yếu tố kỹ thuật hiện đại. Tuy nhiên, điều này
không dễ đƣợc thừa nhận.
Trong thực tế, không phải lúc nào, ở đâu việc áp dụng các tiến bộ khoa học -
kỹ thuật và công nghệ hiện đại cũng mang lại kết quả tốt nhƣ mong muốn. Cuộc
Cách mạng Xanh ở Ấn Độ và Inđônêxia những năm 1960 và 1970 thế kỷ trƣớc
đƣợc thế giới thừa nhận nhƣ một đóng góp to lớn làm tăng sản lƣợng lƣơng thực.
Nó đã góp phần đảm bảo an ninh lƣơng thực ở một số quốc gia. Tuy nhiên, thực tế

cho thấy, Cuộc Cách mạng Xanh không xoá đƣợc đói nghèo và thiếu an ninh lƣơng
thực ở nông thôn. Nó khuyến khích các biện pháp canh tác dựa vào đầu tƣ bên
ngoài (tức xa lạ với hệ sinh thái nông nghiệp của địa phƣơng) nhƣ hoá nông; độ phì
tự nhiên của đất và hàm lƣợng các chất hữu cơ bị suy giảm; tình trạng xói mòn đất
tăng; sức khỏe bị ảnh hƣởng, thực tế đã có những trƣờng hợp bị tử vong do nhiễm
độc thuốc trừ sâu. Trong nhiều thập kỷ qua đã tạo ra những áp lực đối với tài
nguyên đất, rừng, nƣớc dần dần làm suy thoái môi trƣờng và gia tăng sự nghèo đói
[77, tr.83-84].
Ngày nay, các nhà khoa học càng nhận thấy tầm quan trọng của tri thức địa
phƣơng đối với sự phát triển bền vững ở miền núi. Trong khi đó, hệ thống tri thức
địa phƣơng (tri thức bản địa) đang có chiều hƣớng bị xói mòn, bỏ quên. Và không ít
các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, đa dạng sinh học, đa dạng văn hoá và tri thức
địa phƣơng luôn luôn có mối quan hệ qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Ví dụ, nạn phá
rừng tại nhiều địa phƣơng trƣớc đây và hiện nay đã và đang làm xói mòn đất, làm
mất nguồn cây thuốc quý, dồi dào trong thiên nhiên, do đó đã kéo theo sự thất thoát
nguồn tri thức địa phƣơng có liên quan đến y học dân gian, thậm chí còn dẫn đến
tình trạng mất hẳn những tri thức về cách sử dụng cây thuốc để chữa bệnh. Việc sử
2

dụng rộng rãi phân hoá học và thuốc hoá học đã làm mất đi nhiều giống lúa địa
phƣơng mang gien kháng bệnh cao và thích nghi với môi trƣờng khí hậu khắc
nghiệt, mặt khác còn làm suy giảm nguồn thuỷ sinh nhƣ cá, tôm cua, ốc trên đồng
ruộng.v.v… Do vậy, nếu chúng ta nhận thức và đánh giá đúng vai trò của tri thức
địa phƣơng thì chắc chắn sẽ góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị của tri thức
địa phƣơng ở các tộc ngƣời nƣớc ta nói chung và ngƣời Mƣờng nói riêng.
Nhận thức đúng vị trí cũng nhƣ vai trò tri thức địa phƣơng của mỗi cộng
đồng, tộc ngƣời cụ thể, vận dụng những tri thức hiện đại sẽ giúp cho sự phát triển
bền vững ở các dân tộc hiện nay. Thực tế đã chứng minh, khi triển khai các mô hình
phát triển kinh tế bền vững, ngƣời ta không thể không chú ý đến những điều kiện sinh
thái, thực trạng phát triển kinh tế - xã hội và văn hoá tộc ngƣời ở từng vùng miền cụ

thể. Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy vốn tri thức mà các tộc ngƣời tích luỹ đƣợc
trong lao động sản xuất, trong quản lý xã hội, ứng xử với môi trƣờng tự nhiên trải
qua dòng thời gian và đƣợc trao truyền qua các thế hệ trong quá trình thích nghi với
các điều kiện sinh thái nhân văn, đang có vai trò nhất định trong thực tiễn. Bởi lẽ, tri
thức địa phƣơng không chỉ có giá trị về mặt kỹ thuật, về giải pháp phát triển bền
vững, mà còn là kho tài nguyên văn hoá dân gian vô giá của nhân loại.
Việc nghiên cứu các tộc ngƣời ở Việt Nam nói chung và tri thức địa phƣơng
của ngƣời Mƣờng nói riêng đang là vấn đề đặt ra không chỉ nhận thức trong di sản
văn hoá tộc ngƣời, mà còn là đòi hỏi cấp bách trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nƣớc nhƣ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng
sản Việt Nam chỉ rõ: “Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá dân tộc, các giá trị văn
học, nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết, thuần phong mỹ tục của các dân tộc; tôn tạo các
di tích lich sử, văn hoá. Tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú thêm nền văn
hoá của nhân loại” [41, tr.38].
Ngoài ra, việc nghiên cứu văn hóa nói chung và tri thức tộc ngƣời nói riêng,
đặc biệt là ứng xử của con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên là vấn đề đặt ra không chỉ
trong việc nhận thức di sản văn hoá tộc ngƣời, di sản văn hoá dân tộc mà còn là đòi
hỏi cấp bách trong việc phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc nhƣ Nghị quyết Đại
3

hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ đối với nƣớc
ta hiện nay là: “Phát triển toàn diện kinh tế nông thôn , gắn phát triển nông, lâm,
ngƣ nghiệp với phát triển ngành kinh tế thủ công nghiệp ”
Là ngƣời con quê hƣơng xứ Thanh, làm công việc giảng dạy và nghiên cứu
Dân tộc học, trong nhiều năm qua chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhiều vấn đề có
liên quan đến ngƣời Mƣờng, có dịp đi điền dã tại nhiều địa bàn có ngƣời Mƣờng sinh
sống ở miền núi Thanh Hoá. Nhận thấy, ngƣời Mƣờng có cả một kho tàng tri thức
địa phƣơng rất phong phú và đa dạng, trong đó đặc sắc nhất là tri thức địa phƣơng
về sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên. Cũng bởi lý do đó chúng tôi
chọn đề tài: “Tri thức địa phương về sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên

của người Mường ở huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá” làm luận án Tiến sỹ khoa học
lịch sử, chuyên ngành dân tộc học của mình.
Những trình bày trên cho thấy nghiên cứu: “Tri thức địa phương về sử dụng
và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của người Mường ở huyện Bá Thước, tỉnh
Thanh Hoá” là một yêu cầu bức thiết, không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn có ý
nghĩa về thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu của luận án
Luận án này đƣợc thực hiện nhằm 3 mục đích chính sau đây:
Một là, phác họa một cách hệ thống về tri thức địa phƣơng và phân tích vai
trò của tri thức địa phƣơng trong đời sống ngƣời Mƣờng ở huyện Bá Thƣớc.
Hai là, nghiên cứu thực trạng tri thức địa phƣơng và nguồn tài nguyên thiên
nhiên trong xã hội Mƣờng hiện đại.
Ba là, góp một phần tƣ liệu khoa học giúp các nhà quản lý hoạch định việc
sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên sao cho hợp lý và hiệu quả nhất.
3. Đối tƣợng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu của luận án
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là tri thức địa phƣơng của ngƣời Mƣờng
huyện Bá Thƣớc, tỉnh Thanh Hoá.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tri thức sử dụng và quản lý nguồn tài
nguyên thiên nhiên, bao gồm tài nguyên đất, tài nguyên rừng và tài nguyên nƣớc.
4

Trong đó, tập trung nghiên cứu tri thức địa phƣơng truyền thống (tính từ 1954 trở
về trƣớc, đƣợc trình bày trong các chƣơng 2, 3 và 4 của luận án). Ngoài ra, nghiên
cứu những biến đổi về tri thức địa phƣơng và nguồn tài nguyên thiên nhiên trong xã
hội hiện đại (từ năm 1954 đến nay, đƣợc trình bày trong chƣơng 5 của luận án). Sở
dĩ chúng tôi lấy năm 1954 (không phải năm 1945) để làm mốc phân định các nội
dung nghiên cứu đề tài luận án là vì, lịch sử Việt Nam lấy năm 1945 làm mốc chấm
dứt thời kỳ phong kiến, xã hội bƣớc sang kỷ nguyên dân chủ. Nhƣng trên thực tế
thiết chế lang đạo trong xã hội Mƣờng vẫn còn duy trì ít năm sau đó, nhiều vùng
mãi đến khi hoà bình lập lại (năm 1954) tầng lớp lang đạo mới hoàn toàn hết vị thế.

Địa bàn nghiên cứu là huyện Bá Thƣớc, tỉnh Thanh Hoá. Đây là huyện có
ngƣời Mƣờng sinh sống lâu đời, có nhiều mƣờng cổ nhất ở Thanh Hoá, còn bảo lƣu
nhiều giá trị văn hoá truyền thống. Tuy nhiên, trong quá trình điền dã, khảo sát thực
địa chúng tôi chọn một số làng Mƣờng ở các xã Thiết Ống, Thiết Kế, Điền Trung,
Điền Hạ, Điền Lƣ thuộc hai mƣờng gốc (mƣờng Ống và mƣờng Khô), có lịch sử lâu
đời làm điểm nghiên cứu.
4. Nguồn tài liệu của luận án
Để thực hiện luận án, chúng tôi tham khảo và sử dụng các nguồn tài liệu
thành văn đã công bố nhƣ: các công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan trực tiếp,
gián tiếp đến đề tài. Đây là nguồn tƣ liệu quý giá, giúp chúng tôi có đƣợc cái nhìn
toàn cảnh về đối tƣợng nghiên cứu.
Tuy nhiên, nguồn tƣ liệu đƣợc sử dụng chủ yếu trong luận án là tƣ liệu điền
dã Dân tộc học thông qua quan sát trực tiếp, quan sát tham dự, thảo luận nhóm… do
chúng tôi thu thập tại địa bàn nghiên cứu trong nhiều năm qua.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng các số liệu thống kê về địa lý dân cƣ, các báo
cáo, văn bản, chỉ thị của các cấp chính quyền có liên quan; các báo cáo, văn bản của
Đảng và Nhà nƣớc, của các Bộ, ngành ở Trung ƣơng.
5. Đóng góp của luận án
Về mặt khoa học:
- Luận án khái quát những đặc điểm riêng mang tính địa phƣơng trong việc
5

sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của ngƣời Mƣờng sinh sống ở
vùng thung lung chân núi, đồng thời qua đó thấy đƣợc những yếu tố bảo lƣu cũng
nhƣ biến đổi của nội dung nghiên cứu giữa xã hội truyền thống và hiện tại.
- Góp phần làm rõ thêm hệ thống tri thức địa phƣơng của ngƣời Mƣờng ở
một địa phƣơng cụ thể trong việc sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Đồng thời góp thêm tƣ liệu khoa học về sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên trong
xã hội hiện đại.
- Góp phần nhận diện bức tranh về ngƣời Mƣờng ở Bá Thƣớc trong các lĩnh

vực đời sống kinh tế, văn hoá - xã hội trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Về mặt thực tiễn:
Góp thêm tƣ liệu khoa học về tri thức địa phƣơng của ngƣời Mƣờng, làm
phong phú thêm nguồn tƣ liệu về tri thức địa phƣơng vào kho tàng tri thức dân gian,
làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định những chủ trƣơng, chính sách của Đảng và
Nhà nƣớc trong việc phát triển kinh tế bền vững, văn hoá xã hội, quản lý nông thôn,
nhất là những vùng nông thôn nơi có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống. Trên
cơ sở đó, giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống, góp phần cải tạo và xây dựng
nông thôn mới trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính
luận án gồm 5 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu.
Chƣơng 2: Tri thức địa phƣơng về sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên đất.
Chƣơng 3: Tri thức địa phƣơng về sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên
nƣớc.
Chƣơng 4: Tri thức địa phƣơng về sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên
rừng.
Chƣơng 5: Tài nguyên thiên nhiên và tri thức địa phƣơng đối mặt với xã hội
hiện đại.

6

Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Về các khái niệm tri thức địa phƣơng và nguồn tài nguyên thiên nhiên
1.1.1. Về các khái niệm tri thức địa phương
Có liên quan đến khái niệm tri thức địa phƣơng là khái niệm tri thức bản địa.
Thuật ngữ “tri thức bản địa” lần đầu xuất hiện trong một công trình nghiên cứu của
Robert Chambers phát hành năm 1979. Tiếp theo đó Brokensha và D.M.Warren sử dụng

vào năm 1980 và tiếp tục phát triển cho đến ngày nay [179, tr.12].
Trong những năm gần đây ở Việt Nam, cụm từ “tri thức địa phƣơng” (Local
Knowledge) hay “tri thức bản địa” (Indigenous Knowledge), “tri thức truyền thống”, “tri
thức dân gian”, “tri thức tộc ngƣời”… đã đƣợc sử dụng ngày càng phổ biến trong một số
công trình nghiên cứu.
Lê Trọng Cúc đồng nhất “tri thức địa phƣơng” với “văn hoá truyền thống” [27];
Ngô Đức Thịnh gọi là “tri thức dân gian”, “tri thức địa phƣơng”, “tri thức bản địa [143];
Hoàng Xuân Tý cho rằng cả ba khái niệm “kiến thức bản địa”, “kiến thức truyền thống”
hay “kiến thức địa phƣơng” gần đồng nghĩa với nhau [179]. Nguyễn Duy Thiệu gọi là
“tri thức bản địa”, “tri thức dân gian”, “tri thức của ngƣời bản địa” [140]; Phạm Quang
Hoan gọi là “tri thức địa phƣơng”, “tri thức bản địa”, “tri thức dân gian” [76-78]; Vi Văn
An [1], Trịnh Hồng Lệ [89] gọi là “tri thức dân gian”; Phạm Đức Dƣơng [38], Trần
Công Khánh, Trần Văn Ơn [86], Nguyễn Bảo Đồng [47], Nguyễn Xuân Hồng [79-80],
Bùi Hoài Sơn [124], Vũ Trƣờng Giang [54-55], Nguyễn Thị Thu Hà [67], Nguyễn Thị
Quy [120].v.v… gọi là “tri thức bản địa”; Hoàng Hữu Bình [13], Đặng Thị Hoa [75],
Trần Hồng Hạnh [70], Trần Bình [16], Vũ Thanh Hiền [72], Mai Văn Tùng [173-176],
Nguyễn Thị Thanh Nga [106], Nguyễn Thị Thu [154].v.v… gọi là “tri thức địa phƣơng”.
Từ những cách gọi khác nhau nhƣ trên, các nhà nghiên cứu Việt Nam và nƣớc
ngoài cũng có những quan niệm và cách hiểu khác nhau về nội hàm của “tri thức địa
phƣơng”. PGS.TS Lê Trọng Cúc cho rằng:
Tri thức địa phƣơng hay còn gọi là tri thức bản địa là hệ thống tri thức của cộng
đồng cƣ dân bản địa ở các quy mô lãnh thổ khác nhau. Tri thức địa phƣơng đƣợc
7

hình thành trong quá trình lịch sử lâu đời, qua kinh nghiệm ứng xử với môi
trƣờng xã hội, đƣợc hình thành dƣới nhiều dạng khác nhau, đƣợc truyền từ đời
này sang đời khác qua trí nhớ, qua thực tiễn sản xuất và thực hành xã hội. Nó
hƣớng đến việc hƣớng dẫn và điều hoà các quan hệ xã hội, quan hệ con ngƣời với
thiên nhiên [29, tr.215].
GS.TS Ngô Đức Thịnh cho rằng:

Tri thức bản địa là toàn bộ những hiểu biết của con ngƣời về tự nhiên, xã hội và
bản thân, hình thành và tích luỹ trong quá trình lịch sử lâu dài của cộng đồng,
thông qua trải nghiệm trong quá trình sản xuất, quan hệ xã hội và thích ứng môi
trƣờng. Nó tồn tại dƣới nhiều hình thức khác nhau và truyền từ đời này sang đời
khác bằng trí nhớ và thực hành xã hội [153, tr.3].
PGS.TS Phạm Quang Hoan cho rằng:
Tri thức địa phƣơng đƣợc hiểu ở các cấp độ khác nhau. Một là, “tri thức địa
phƣơng” (hay tri thức bản địa), “tri thức dân gian”, “tri thức tộc ngƣời”) là toàn
bộ những hiểu biết, những kinh nghiệm của một tộc ngƣời nhất định đƣợc tích
luỹ, chọn lọc và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vốn tri thức đó phản
ánh trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống cộng đồng để mỗi tộc ngƣời sinh
tồn, phát triển và thích nghi trƣớc những biến đổi đã và đang diễn ra. Nói cách
khác, tri thức địa phƣơng là phƣơng thức ứng xử, là đặc tính thích nghi với những
điều kiện sinh thái nhân văn của mỗi tộc ngƣời. Cũng có thể coi đó là bản sắc văn
hoá tộc ngƣời. Hai là, “tri thức địa phƣơng” là tri thức của các cộng đồng tộc
ngƣời cùng cộng cƣ trên một vùng sinh thái hay một vùng văn hoá nhất định.
Trong trƣờng hợp này, tri thức địa phƣơng cũng phản ánh xu hƣớng giao lƣu và
biến đổi văn hoá hay thích nghi văn hoá giữa các tộc ngƣời [76, tr.87].
TS Trần Hồng Hạnh cho rằng:
Tri thức địa phƣơng đƣợc hiểu là các kiến thức bao gồm cả tri thức bản địa và tri
thức truyền thống, đã đƣợc cƣ dân sống tại một địa bàn cụ thể tích luỹ, chọn lọc
và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, và chịu tác động của kiến thức mới
hiện đại. Để thích ứng với môi trƣờng chuyển đổi, cả về mặt tự nhiên, kinh tế - xã
8

hội, và chính trị, ngƣời dân đã tích luỹ những kiến thức vốn có từ lâu đời kết hợp
với việc áp dụng các kiến thức hiện đại vào cuộc sống thƣờng ngày của họ. Dần
dần thông qua sự kết hợp này, các kiến thức mới cũng đƣợc ngƣời dân địa
phƣơng hoá cho phù hợp với điều kiện môi trƣờng sống của họ và trở thành kinh
nghiệm của họ. Do đó, tri thức địa phƣơng ngƣời nông dân luôn ở trạng thái

động, thay đổi thông qua sự sáng tạo và đổi mới của ngƣời dân địa phƣơng cũng
nhƣ trong mối liên hệ với các hệ thống tri thức khác [70, tr.28].
Một số tác gỉa nƣớc ngoài nhƣ TS Jonh Amble thì cho rằng:
Tri thức địa phƣơng có thể đƣợc phân biệt làm hai loại chính. Một loại có thể
đƣợc gọi là “tri thức kỹ thuật”. Một loại khác liên quan đến các tên gọi nhƣ: “Luật
lệ địa phƣơng” hoặc là “Phong tục” hay “Tục lệ”… Sự nghiên cứu của nhiều
vùng châu Á cho thấy rằng những ngƣời nông dân, ngƣời chăn thả gia súc hoặc
các nhóm thợ săn ở vùng cao có vốn tri thức kỹ thuật của địa phƣơng rất to lớn,
rất cần cho việc xây dựng các chƣơng trình quản lý, phát triển vùng đồi núi. Vốn
hiểu biết đó là sự kết hợp hài hoà các điều kiện của địa phƣơng. Những nghiên
cứu, đặc biệt là từ các lĩnh vực dân tộc - thực vật học đã cho thấy những ngƣời
làm nông nghiệp ở vùng cao thƣờng có sự hiểu biết chi tiết về chế độ ẩm trong
vùng, về tiềm năng của đất đai, về kỹ thuật trồng trọt, về chọn giống, về các loài
động vật và thực vật…[84, tr.36].
Theo Louise Grenier cho rằng:
Kiến thức bản địa (tri thức địa phƣơng) là kiến thức của bất kỳ một cộng đồng
nào đó; nó đƣợc tồn tại bên trong và đƣợc phát triển trong những hoàn cảnh cụ
thể của các tộc ngƣời. Tri thức địa phƣơng đƣợc tất cả các thành viên ở mọi lứa
tuổi và giới khác nhau trong một cộng đồng tạo dựng lên. Tất cả mọi thành viên
trong cộng đồng đã tạo nên sự khác biệt và chất lƣợng của tri thức địa phƣơng.
Nó biểu hiện sự tích luỹ của các thế hệ giàu kinh nghiệm qua các quan sát tinh tế
và các thử nghiệm công phu, đƣợc thể hiện trong các câu chuyện, bài ca, văn học
dân gian, trong canh tác nông nghiệp, chăn nuôi, hệ thống phân loại, luật tục, tín
ngƣỡng, nghi lễ,…[212].
9

Theo Charles F.Keyes cho rằng:
Hệ thống tri thức địa phƣơng đƣợc coi là các tƣ tƣởng thực nghiệm. Tƣ tƣởng
thực nghiệm là cách con ngƣời phát triển các ý tƣởng, khái niệm và thái độ để
thực hiện các hoạt động thƣờng ngày. Tƣ tƣởng thực nghiệm thúc đẩy các nhu

cầu cấp thiết của cuộc sống nhƣ sản xuất lƣơng thực, thực phẩm, tổ chức không
gian cƣ trú, duy trì các mối quan hệ xã hội…[Dẫn theo: 76, tr.85].v.v…
Tóm lại, trên cơ sở ý kiến của nhiều nhà khoa học và kết quả nghiên cứu của
mình, tác giả luận án cho rằng: Tri thức địa phƣơng (Local Knowledge) là toàn bộ những
hiểu biết, những kinh nghiệm ứng xử của con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và môi
trƣờng xã hội ở những địa phƣơng, những khu vực cụ thể đƣợc tích luỹ, thực hành, chọn
lọc và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, đƣợc bổ xung và phát triển trong đời
sống. Nói cách khác, tri thức địa phƣơng là tri thức của các cộng đồng tộc ngƣời cùng
cộng cƣ trên một vùng sinh thái hay một vùng văn hoá nhất định. Vốn tri thức đó phản
ánh trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống cộng đồng để mỗi tộc ngƣời sinh tồn, phát
triển và thích nghi trƣớc những biến đổi đã và đang diễn ra.
Từ nội hàm các khái niệm trên, tri thức địa phƣơng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, nó đƣợc hình thành, bảo tồn và trao truyền trong mỗi cộng đồng ở mỗi
vùng địa lý - sinh thái và văn hoá nhất định.
Thứ hai, nó là kiến thức đƣợc đúc kết qua thực nghiệm về tất cả các lĩnh vực của
cuộc sống xã hội.
Thứ ba, nó làm cơ sở cho sự sinh tồn của mỗi cộng đồng.
Thứ tƣ, nó không đƣợc ghi lại bằng văn bản một cách hệ thống, do đó nó có tính
truyền khẩu và tính địa phƣơng.
Thứ năm, nó có tính động, giao lƣu, tiếp biến, đổi mới, bổ xung trong đời sống
thông qua sự sáng tạo cũng nhƣ đúc rút kinh nghiệm để thích nghi của ngƣời dân.
Về hai khái niệm sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên đƣợc hiểu
trong luận án này là: Sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên là sự ứng xử của con ngƣời
với các nguồn tài nguyên thông qua sự hiểu biết, thông qua những kinh nghiệm thực
hành đƣợc đúc kết trong quá trình khai thác các nguồn tài nguyên. Quản lý là sự ứng xử
10

với các nguồn tài nguyên thiên nhiên thông qua các thiết chế (quan phƣơng, phi quan
phƣơng) nhƣ quy ƣớc, luật tục, tín ngƣỡng, luật pháp Nhìn chung, tri thức địa phƣơng
trong sử dụng và trong quản lý tài nguyên thiên nhiên của ngƣời Mƣờng có mối quan hệ

mật thiết với nhau, mục đích cuối cùng là bảo vệ bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên,
tránh tình trạng cạn kiệt, đồng thời duy trì sự đa dạng sinh học và bảo tồn hệ sinh thái.
1.1.2. Về nguồn tài nguyên thiên nhiên
Trong kho tàng tri thức địa phƣơng nó chứa đựng tất cả các lĩnh vực gồm các lĩnh
vực của cuộc sống xã hội nhƣ: tri thức tự nhiên và môi trƣờng (kể cả vũ trụ); tri thức về
bản thân con ngƣời (cơ thể học, dƣỡng sinh, trị bệnh); tri thức về sản xuất lƣơng thực,
thực phẩm, chăn nuôi; khai thác và quản lý hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên; tri thức
về ứng xử xã hội và quản lý cộng đồng, các giá trị xã hội, các luật tục truyền thống trong
làng bản; tri thức về sáng tạo nghệ thuật.
Nội hàm khái niệm tài nguyên thiên nhiên bao gồm các tài nguyên đất, tài nguyên
rừng, tài nguyên nƣớc, tài nguyên khoáng sản và tài nguyên môi trƣờng - khí hậu. Tuy
nhiên, trong nội dung nghiên cứu của đề tài luận án chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên
cứu là sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên đất, tài nguyên rừng và tài nguyên nƣớc.
Đây là 3 nguồn tài nguyên có mối quan hệ mật thiết với nhau và có vị trí vô cùng quan
trọng trong đời sống của ngƣời Mƣờng, tạo nên bản sắc văn hoá Mƣờng.
Trong nội dung nghiên cứu này chúng tôi sẽ tập trung làm rõ nhận thức từng loại
tài nguyên trong đời sống của ngƣời Mƣờng ở huyện Bá Thƣớc, tỉnh Thanh Hoá; cách
thức sử dụng và quản lý (bảo vệ) nguồn tài nguyên thiên nhiên qua các thời kỳ, ảnh
hƣởng của các yếu tố truyền thống trong việc sử dụng và quản lý tài nguyên hiện nay;
cách thức xây dựng quy ƣớc sử dụng và bảo vệ hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên hiện
có trên cơ sở kế thừa những giá trị, những mặt tích cực của quy ƣớc truyền thống; các
kiến thức và giải pháp của tộc ngƣời Mƣờng nhằm duy trì sự đa dạng sinh học của nguồn
tài nguyên thiên nhiên cũng nhƣ duy trì hệ sinh thái thung lũng (valley ecology) - địa bàn
sinh sống chủ yếu của ngƣời Mƣờng.
Trong việc sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên đất có tri thức sản xuất nông
nghiệp, bao gồm các tri thức trong trồng trọt, nhất là cách phân loại, sử dụng và bảo vệ
11

đất; kinh nghiệm chọn giống cây trồng; tri thức xen canh gối vụ trên đất dốc; tri thức về
hệ thống tƣới tiêu, sử dụng phân bón; tri thức về lịch thời vụ…

Trong sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nƣớc chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu
cách phân loại nguồn nƣớc, vị trí từng nguồn nƣớc trong đời sống cộng đồng cũng nhƣ
cách sử dụng nƣớc vào từng mục đích cụ thể. Trong đó có cả những tri thức về đánh bắt
và khai thác nguồn thuỷ sản cũng nhƣ nuôi trồng thuỷ sản.v.v… Bên cạnh đó, tín
ngƣỡng về nƣớc cũng là mối quan tâm nghiên cứu, qua đó thấy đƣợc có ý nghĩa của
nguồn nƣớc trong đời sống con ngƣời cả về mặt tinh thần.
Đối với nguồn tài nguyên rừng cũng vậy. Vị trí của rừng vô cùng quan trọng
trong đời sống cộng đồng, nó không chỉ cung cấp nguồn thức ăn mà còn cung cấp nguồn
nƣớc uống, nguồn đất đai canh tác, nguồn gỗ để làm nhà.v.v… Ngƣời Mƣờng sống với
rừng nên tích luỹ đƣợc nhiều kiến thức trong sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên rừng.
Chúng tôi đi sâu tìm hiểu các loại rừng, cách thức khai thác và sử dụng tài nguyên thực
vật, tài nguyên động vật…
Ngoài ra, một vấn đề cũng rất đƣợc quan tâm trong nội dung luận án đó là nhận
diện thực trạng tri thức địa phƣơng và nguồn tài nguyên thiên nhiên trong bối cảnh xã hội
hiện đại. Trên cơ sở đó có thể tham vấn một số giải pháp liên quan đến vấn đề phát triển
bền vững hiện nay, cũng nhƣ bảo tồn hệ sinh thái nhân văn, duy trì sự đa dạng sinh học ở
ngƣời Mƣờng huyện Bá Thƣớc.
1.2. Tình hình nghiên cứu
1.2.1. Các nghiên cứu về tri thức địa phương
Cũng nhƣ nhiều quốc gia khác trên thế giới, tình hình môi trƣờng, điều kiện
tự nhiên và môi trƣờng sinh thái ở những vùng miền khác nhau trên đất nƣớc ta
đang đứng trƣớc những thách thức mới, đó là ô nhiễm môi trƣờng, mất cân bằng và
phá vỡ hệ sinh thái, suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên.v.v… Tất cả những bất
ổn đó đã ảnh hƣởng xấu trực tiếp đến sức khoẻ cộng đồng, an ninh lƣơng thực.
Thảm họa thiên tai xảy ra: hạn hán, lũ lụt ở nhiều nơi, nhất là miền núi trong những
năm vừa qua. Nguyên nhân chính là do con ngƣời ứng xử chƣa phù hợp với môi
trƣờng sống của mình. Đứng trƣớc những hậu quả trên, một trong những giải pháp
12

đi tìm kiếm sự ổn định, sự cân bằng trở lại đó là nghiên cứu tri thức địa phƣơng để

nhận thức đúng vị trí cũng nhƣ vai trò của nó trong mỗi cộng đồng, dân tộc ở từng
địa phƣơng cụ thể.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về
tri thức địa phƣơng, tri thức bản địa, tri thức dân gian, hay sự phát triển bền
vững.v.v Trong số đó, PGS.TS Lê Trọng Cúc có khá nhiều bài viết, sách chuyên
sâu về lĩnh vực này nhƣ: Sinh thái học và con người [24]; Hệ sinh thái nông nghiệp
trung du miền Bắc Việt Nam [25]; Nghiên cứu sinh thái nhân văn và quản lý bền
vững các hệ sinh thái miền núi Việt Nam [26]; Vai trò của tri thức địa phương đối
với phát triển bền vững vùng cao, trong Nông nghiệp trên đất dốc - những thách
thức và tiềm năng [27]; Đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên [29]; Phát triển
bền vững miền núi Việt Nam: 10 năm nhìn lại và những vấn đề đặt ra [30]; Mối
quan hệ giữa kiến thức bản địa, văn hoá và môi trường ở miền núi Việt Nam [180].
Phải nói rằng đây là một tập hợp các nghiên cứu liên quan trực tiếp và gián tiếp đến
tri thức địa phƣơng (tri thức bản địa) trong hệ sinh thái nông nghiệp, trên vùng đất
dốc, của đồng bào vùng cao trong nông nghiệp và quản lý các nguồn tài nguyên
thiên nhiên. Theo tác giả, tri thức địa phƣơng đƣợc hình thành trong quá trình lịch
sử lâu đời, qua kinh nghiệm ứng xử với môi trƣờng xã hội, đƣợc hình thành dƣới
nhiều dạng khác nhau, đƣợc truyền từ đời này sang đời khác qua trí nhớ, qua thực
tiễn sản xuất và thực hành xã hội. Nó hƣớng đến việc hƣớng dẫn và điều hoà các
quan hệ xã hội, quan hệ con ngƣời với thiên nhiên [29]. Ngoài ra, tác giả đã đi sâu
phân tích vai trò của tri thức địa phƣơng đối với sự phát triển bền vững vùng cao.
Cũng nhƣ đánh giá rất cao tri thức địa phƣơng, coi đó nhƣ là những giá trị truyền
thống phải đƣợc kế thừa trong sự phát triển hiện nay [27]…
PGS.TS Hoàng Xuân Tý trong công trình Kiến thức bản địa của đồng bào
vùng cao trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên [180] đã cung cấp
hàng chục bài viết liên quan đến các khái niệm, vai trò của kiến thức bản địa và các
nghiên cứu cụ thể về tri thức địa phƣơng của các dân tộc. Trƣớc hết, trong phần một
của cuốn sách tác giả đã đƣa ra các thuật ngữ liên quan đến tri thức địa phƣơng nhƣ
13


kiến thức truyền thống, kiến thức bản địa…, các khái niệm về tri thức địa phƣơng,
tri thức bản địa. Đồng thời chỉ ra nội dung nghiên cứu của tri thức bản địa nhƣ: kiến
thức trồng trọt, kiến thức chăn nuôi, kiến thức về quản lý rừng và tài nguyên cộng
đồng, kiến thức về dinh dƣỡng và sức khoẻ con ngƣời… Tác giả trình bày đặc điểm
của kiến thức bản địa và những hạn chế, cũng nhƣ chỉ ra nguyên nhân quan trọng đã
làm suy thoái hệ thống kiến thức bản địa của các cộng đồng địa phƣơng. Ngoài ra,
tác giả còn đƣa ra các phƣơng pháp để sử dụng nghiên cứu tri thức bản địa và bàn
đến việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ về tri thức bản địa [180, tr.11-52]. Phần thứ hai
của cuốn sách có nội dung về Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao. Trong đó,
tác giả Hoàng Xuân Tý đã trình bày trong nhiều bài viết về tri thức bản địa cụ thể
của một số dân tộc với những nội dung khác nhau nhƣ: Các giải pháp canh tác đất
dốc của đồng bào Thái đen ở Sơn La; Phân loại đất của người Cơ Tu (vùng Nam
Đông, Thừa Thiên Huế); Các giống lúa của các dân tộc Mông, Thái đen; Bộ giống
cây lương thực và rau rừng của người Chil ở Lâm Đồng; Cách phân loại ruộng
nương truyền thống của đồng bào dân tộc Thái ở Sơn La.v.v… Nhìn chung, tác giả
Hoàng Xuân Tý đã có những đóng góp quan trọng cả ở phƣơng diện lý thuyết,
phƣơng pháp nghiên cứu cũng nhƣ những nghiên cứu thực tiễn trong lĩnh vực
nghiên cứu về tri thức địa phƣơng.
PGS.TS Phạm Quang Hoan cũng là một trong số những tác giả có nhiều bài
viết nghiên cứu sâu về tri thức địa phƣơng, tiêu biểu nhƣ: Tri thức địa phương của
các dân tộc thiểu số Việt Nam, trong Dân tộc học Việt Nam thế kỷ XX những năm
đầu thế kỷ XXI [76]; Tri thức địa phương (tri thức truyền thống) của các dân tộc
thiểu số Việt Nam trong đời sống xã hội đương đại, trong Thông báo dân tộc học
năm 2005 [77]; Tri thức địa phương về quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của
các dân tộc ở các tỉnh miền núi phía Bắc [78].v.v… Trƣớc hết tác giả đã đƣa ra
thêm một khái niệm về tri thức địa phƣơng khá cụ thể. Theo tác giả, cho đến nay, qua
những kết quả nghiên cứu đã đƣợc triển khai, ngƣời ta thấy rằng vốn tri thức địa phƣơng
mà các tộc ngƣời tích luỹ đƣợc, thể hiện ở các kinh nghiệm, các phong tục tập quán trong
hoạt động sống, trong lao động sản xuất, trong quản lý xã hội, ứng xử với môi trƣờng tự
14


nhiên… trải qua dòng thời gian và đƣợc trao truyền qua các thế hệ trong quá trình thích
nghi với các điều kiện sinh thái nhân văn, đang có một vai trò nhất định trong thực tiễn
[76-77]. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nƣớc và hội nhập quốc tế, kho tàng tri thức địa phƣơng quý báu của các dân tộc thiểu số
nƣớc ta đang đứng trƣớc nguy cơ mai một, cùng với những biến đổi về văn hoá cũng
đang diễn ra khá nhanh. Và từ đó, tác giả nhận thấy rằng các chƣơng trình, dự án phát
triển và các ngành, các cấp quản lý ngày càng phải chú ý nhiều hơn tới vai trò của tri
thức địa phƣơng cũng nhƣ việc vận dụng các kiến thức đó vào đời sống thực tiễn tộc
ngƣời. Theo tác giả, nhiệm vụ đặt ra cho các nhà dân tộc học/nhân học là phải xây dựng
một chƣơng trình nghiên cứu toàn diện, có hệ thống và chuyên sâu về tri thức địa
phƣơng nhằm góp phần vào bảo tồn và phát triển vốn kiến thức dân gian quý báu của các
tộc ngƣời ở nƣớc ta [76]. Những thông tin về các khái niệm và những nghiên cứu cụ thể
về tri thức địa phƣơng cũng nhƣ những vấn đề nghiên cứu đặt ra có giá trị tham khảo
quan trọng đối với luận án.
Ngoài ra, còn có một số công trình và nhiều bài báo nghiên cứu khác về tri
thức địa phƣơng (tri thức bản địa) đƣợc đăng tải trên các tạp chí, kỷ yếu hội nghị,
hội thảo khoa học của các tác giả: Ngô Đức Thịnh [147], [153]; Phạm Đức Dƣơng
[38], Trần Công Khánh, Trần Văn Ơn [86]; Nguyễn Bảo Đồng [47]; Nguyễn Xuân
Hồng [79], [80]; Vũ Trƣờng Giang [54], [55]; Trịnh Hồng Lệ [89]; Hoàng Hữu
Bình [13]; Đặng Thị Hoa [75]; Trần Hồng Hạnh [70]; Trần Bình [16]; Vũ Thanh
Hiền [72]; Mai Văn Tùng [173], [174], [175]; Nguyễn Thị Thanh Nga [106].v.v…
Nhìn chung, tất cả các công trình và các bài nghiên cứu trên đã khẳng định
giá trị to lớn của tri thức địa phƣơng. Tuy vẫn còn những hạn chế nhất định, nhƣng
những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn đã đƣợc các nhà nghiên cứu trình bày,
trong một chừng mực nhất định, góp phần giúp luận án có cái nhìn hệ thống về vấn
đề nghiên cứu.
1.2.2. Các nghiên cứu về tri thức địa phương liên quan đến người Mường
Kể từ luận văn Tiếng Mường của E.H.Parker, công bố năm 1891, sau đó là
công trình Những ghi chép về người Mường ở tỉnh Sơn Tây của J.N.Chéon [219],

15

công bố vào năm 1905,… cho đến nay đã có dƣ một thế kỷ nghiên cứu về dân tộc
Mƣờng [145, tr.64-65].
Nhìn chung, có rất nhiều công trình nghiên cứu về ngƣời Mƣờng, tuy nhiên
liên quan trực tiếp đến tri thức địa phƣơng đáng chú ý nhất là tác phẩm Người
Mường của Cuisinier. Đây là công trình khoa học đồ sộ và công phu nhất nghiên
cứu về ngƣời Mƣờng. Theo nhận xét của PGS Từ Chi: “Dù sao, đối với ngƣời Việt
Nam hiện đại, cuốn Ngƣời Mƣờng giờ đây đã trở thành một tác phẩm quan trọng
hơn nhiều, hơn cả đối với ngƣời Pháp hiện nay, dù chỉ vì ngƣời Mƣờng là một tộc
quan trọng trong số các cộng đồng sống trên đất nƣớc ta, lại hầu nhƣ không có mặt
ở đâu khác ngoài nƣớc ta” [83]. Theo TS Nguyễn Ngọc Thanh: “Cuốn Người
Mường với các nhà nghiên cứu Dân tộc học Việt Nam đƣơng đại vẫn là một trong
những tác phẩm kinh điển” [136].
Công trình gồm có hai phần: Phần thứ nhất giới thiệu ngƣời Mƣờng, vị trí
địa lý, văn hoá vật chất; Phần thứ hai tái hiện tình trạng xã hội và đời sống tôn giáo.
Nhìn ở góc độ tƣ liệu về tri thức địa phƣơng, cụ thể về sử dụng và bảo vệ nguồn tài
nguyên thiên nhiên có lễ đây công trình đầu tiên đề cập cụ thể và chi tiết đến nội
dung này thông qua các hoạt động kinh tế nông nghiệp, săn bắn, đánh cá… Trong
kinh tế nông nghiệp, tác giả đã giành hẳn một chƣơng để trình bày những công việc
cũng nhƣ những kinh nghiệm làm thuỷ lợi nhƣ phƣơng pháp dẫn nƣớc vào, bón
phân cho ruộng, kỹ thuật cày bừa, các nông cụ, nông lịch mùa vụ. Ngoài ra, tác giả
còn đi sâu trình bày những kinh nghiệm gieo trồng cho đến việc làm cỏ chăm bón
và thu hoạch lúa. Bên cạnh nghề trồng lúa tác giả còn đề cập đến một số cây trồng
khác nhƣ ngô, sắn, vừng, gai, trẩu, thầu dầu, bông…
Những kinh nghiệm khai thác và sử dụng lâm - thổ - thuỷ sản thông qua nghề
săn bắn và đánh cá đƣợc tác giả giành riêng một chƣơng để trình bày về vấn đề này.
Trong săn bắn tác giả đã mô tả một số loại vũ khí nhƣ súng, nỏ, cách đặt cạm bẫy,
mùa săn, các hình thức đi săn nhƣ săn tập thể và những nghi lễ liên quan trong săn
bắn. Trong khai thác thuỷ sản, tác giả đã tập trung trình bày các hình thức khai thác

cá nhƣ đập ngăn nƣớc đánh cá và bẫy cá, những dụng cụ đánh cá nhƣ lƣới, các hình
16

thức khai thác nhƣ đánh cá tập thể. Trong đó tác giả đã có những so sánh cụ thể
giữa ngƣời Mƣờng ở Hoà Bình với ngƣời Mƣờng ở Thanh Hoá để tìm ra những nét
riêng và những điểm chung trong các hoạt động kinh tế săn bắt và đánh cá.v.v
Nhìn chung, công trình Người Mường của Cuisinier là công trình đầu tiên
nghiên cứu những hoạt động sản xuất nông nghiệp, săn bắt và đánh cá. Tuy chƣa
đầy đủ và hệ thống nhƣng dù sao công trình cũng đã cung cấp những tƣ liệu quan
trọng liên quan trực tiếp đến tri thức địa phƣơng của ngƣời Mƣờng trong việc sử
dụng và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Từ năm 1975 đến nay, nghiên cứu về ngƣời Mƣờng nói chung và nghiên cứu
về tri thức địa phƣơng nói riêng đƣợc đầu tƣ nhiều hơn và đã đạt đƣợc những kết
quả nhất định. Những nghiên cứu đó đƣợc công bố trong một số cuốn sách, kỷ yếu
hội thảo, tạp chí, luận văn, khoá luận nhƣ: Dân tộc Mường trong Các dân tộc ít
người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Bắc) của Viện Dân tộc học [187]; Góp phần
nghiên cứu văn hoá và tộc người của Từ Chi [18]; Gia đình và hôn nhân của dân
tộc Mường ở tỉnh Phú Thọ của Nguyễn Ngọc Thanh [136]; Người Mường ở Tân
Lạc Hoà Bình của Nguyễn Thị Thanh Nga, Nguyễn Ngọc Thanh (chủ biên) [105];
Tri thức địa phương của người Mường trong sử dụng và quản lý tài nguyên thiên
nhiên của Nguyễn Ngọc Thanh, Trần Hồng Thu (chủ biên) [137]; Dân tộc Mường
trong Địa chí Thanh Hoá, tập I [159]; Tục ngữ, Dân ca Mường Thanh Hoá của
Minh Hiệu [73]; Tục ngữ Mường Thanh Hoá của Cao Sơn Hải [68]; Tri thức địa
phương trong việc sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của người
Mường của Mai Văn Tùng [173]; Tri thức dân gian Mường trong ứng xử với môi
trường tự nhiên của Trịnh Hồng Lệ [89]; Tri thức địa phương trong quản lý và sử
dụng đất của người Mường của Nguyễn Thị Thu [154]; Tri thức địa phương của
người Mường trong sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường của Vũ Thanh Hiền
[72]; Văn hóa nước của người Mường của Bùi Quang Thắng [139], Tri thức địa
phương của người Mường ở Điền Trung - Bá Thước - Thanh Hoá trong sử dụng và

quản lý nguên tài nguyên đất của Nguyễn Anh Tuấn [172].v.v…
Nguyễn Thị Thanh Nga, Nguyễn Ngọc Thanh và các tác giả [105] đã góp
17

phần làm rõ các hình thức thu nhập của ngƣời Mƣờng thông qua trồng trọt (bằng
canh tác lúa nƣớc, canh tác nƣơng rẫy), chăn nuôi, các nghề thủ công, hái lƣợm, săn
bắn và đánh cá của ngƣời Mƣờng ở huyện Tân Lạc, tỉnh Hoà Bình. Trong trồng trọt
các tác giả đã làm rõ đƣợc các hình thức canh tác và những kinh nghiệm trong sản
xuất nông nghiệp thông qua hệ thống thuỷ lợi (mƣơng, phai, hạnh, tạng), các kỹ
thuật làm đất ruộng, đất gieo mạ và những kinh nghiệm trong canh tác nƣơng rẫy
thông qua những tri thức chọn đất, phát nƣơng, chọc lỗ tra hạt cũng nhƣ công việc
chăm bón và bảo vệ nƣơng chống muông thú phá hại. Ngoài ra, các tác giả đã khái
quát đƣợc bộ nông cụ và nông lịch truyền thống của ngƣời Mƣờng ở một địa
phƣơng. Trong hái lƣợm, săn bắt và đánh cá các tác giả đã khái quát đƣợc những tri
thức trong hái lƣợm, trong săn bắt và đánh cá thông qua những kinh nghiệm cụ thể
nhƣ việc ngƣời Mƣờng nắm vững chu kỳ sinh trƣởng và phát triển của nhiều loại
cây trong rừng, các dụng cụ đánh bắt cá, các hình thức đánh bắt cá tập thể và cá
nhân, và các hình thức săn bắn tập thể và cá nhân. Theo các tác giả, bên cạnh hoạt
động kinh tế trồng trọt thì hái lƣợm, săn bắn và đánh cá đóng vai trò đáng kể trong
đời sống kinh tế. Có thể nói, đây là một trong những chuyên khảo có giá trị khoa
học về mặt lý thuyết cũng nhƣ thực tiễn đƣợc chúng tôi tiếp cận trong quá trình thực
hiện luận án.
Nguyễn Ngọc Thanh, Trần Hồng Thu và các tác giả [137] đã tập trung
nghiên cứu có hệ thống, công phu, sử dụng phƣơng pháp điều tra thực địa, thảo
luận, phỏng vấn… để thu thập thông tin. Sự khảo sát sâu rộng của các tác giả đƣợc
tiến hành trên hai địa bàn chủ yếu là huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ và huyện Cẩm
Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá, cung cấp những tri thức địa phƣơng của đồng bào Mƣờng về
sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên trong truyền thống cũng nhƣ hiện nay.
Các tác giả đã tập trung làm rõ các vấn đề về tri thức địa phƣơng trong sử dụng và
quản lý tài nguyên đất (đất ruộng nƣớc, đất nƣơng rẫy, đất rừng - vƣờn - đồi); trong

sử dụng và quản lý tài nguyên nƣớc (nƣớc sinh hoạt, nƣớc canh tác, nƣớc nuôi trồng
và đánh bắt thuỷ sản); trong sử dụng và quản lý tài nguyên rừng; đồng thời, chỉ ra
những điểm tƣơng đồng và khác biệt về tri thức địa phƣơng trong sử dụng và quản
18

lý tài nguyên thiên nhiên của ngƣời Mƣờng ở các địa phƣơng khác nhau. Có thể nói,
đây là công trình có giá trị về mặt tƣ liệu cũng nhƣ phƣơng pháp tiếp cận để chúng
tôi tham khảo trong quá trình thực hiện luận án.
Nguyễn Thị Thu đã tập trung nghiên cứu tri thức địa phƣơng của ngƣời
Mƣờng trong việc quản lý và sử dụng đất ở một xóm cụ thể của ngƣời Mƣờng (xóm
Xè, xã Văn Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ). Tác giả đã góp phần tìm hiểu
những tri thức địa phƣơng trong quản lý và canh tác ruộng nƣớc, cụ thể là tri thức
trong điều phối thuỷ lợi, trong bảo vệ mùa và trong làm đất, gieo cấy, chăm sóc, thu
hoạch và chọn giống. Bên cạnh đó, tác giả còn nghiên cứu tri thức địa phƣơng trong
quản lý đất đồi rừng, cụ thể trong việc bảo vệ nguồn nƣớc, bảo vệ hoa màu và sản
phẩm rừng; những tri thức trong canh tác vƣờn và đồi rừng nhƣ tri thức làm đất,
gieo trồng, chăm sóc thu hoạch và chọn giống cây trồng [154].
Vũ Thanh Hiền trong khoá luận của mình đã tập trung nghiên cứu về tri thức
địa phƣơng trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trƣờng của
ngƣời Mƣờng ở huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình. Tác giả đã quan tâm đến tri thức
trong sử dụng và bảo vệ tài nguyên đất, nhƣ cách phân loại đất, chọn đất, kỹ thuật
làm đất, kinh nghiệm luân canh cây trồng, lịch thời vụ, kỹ thuật canh tác nƣơng rẫy,
ruộng bậc thang và kinh nghiệm sử dụng phân bón. Ngoài ra, tác giả còn nghiên cứu
và khái quát tri thức địa phƣơng trong việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên rừng,
nƣớc, khoáng sản và tài nguyên cây thuốc [72].
Bùi Quang Thắng cũng là tác giả của một số bài viết có liên quan đến tri thức
bản địa của các dân tộc thiểu số. Đáng chú ý là: “Văn hoá nước của người Mường -
qua khảo sát ở Tân Vinh - Lương Sơn - Hoà Bình [139]. Trong bài viết này tác giả
quan tâm đến tri thức địa phƣơng trong việc sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên
nƣớc không chỉ trong đời sống vật chất mà cả ở trong đời sống tinh thần. Đó là tầm

quan trọng của nƣớc trong việc định cƣ, sản xuất nông nghiệp và khai thác nguồn
thuỷ sản. Đó là những tín ngƣỡng về nƣớc và những nghi lễ liên quan đến nƣớc
trong đời sống tâm linh. Ngoài ra, tác giả còn quan tâm đến những biến đổi văn hoá
nƣớc trong xã hội hiện đại, đó là nêu lên những nguyên nhân và thực trạng của tài
19

nguyên nƣớc trong đời sống của ngƣời Mƣờng hiện nay. Đồng thời tác giả còn đƣa
ra những khuyến nghị trong việc bảo vệ bền vững nguồn tài nguyên nƣớc.
Nguyễn Anh Tuấn nghiên cứu tri thức sử dụng và quản lý tài nguyên đất của
ngƣời Mƣờng ở xã Điền Trung, huyện Bá Thƣớc, tỉnh Thanh Hoá. Việc phân loại
đất, sử dụng cũng nhƣ quản lý đất trong canh tác ruộng nƣớc và canh tác nƣơng rẫy
đƣợc tác giả mô tả khá chi tiết. Ngoài ra, những kinh nghiệm canh tác lúa nƣớc, lúa
nƣơng, vƣờn - đồi - rừng; kinh nghiệm làm thuỷ lợi, hệ thống nông lịch, nông cụ…
cũng đƣợc tác giả đề cập đến [172]. Đây là tài liệu có giá trị tham khảo liên quan
trực tiếp đến luận án.
Trịnh Hồng Lệ trong luận văn Thạc sĩ của mình đã nghiên cứu Tri thức dân
gian Mường trong ứng xử với môi trường tự nhiên ở xã Cẩm Tú, huyện Cẩm Thuỷ,
tỉnh Thanh Hoá [89]. Luận văn nghiên cứu trực tiếp cách ứng xử của ngƣời Mƣờng
với các nguồn tài nguyên đất, nƣớc và rừng. Công trình đã phác hoạ bức tranh về
môi trƣờng cƣ trú của ngƣời Mƣờng trên một địa bàn cụ thể, đồng thời cố gắng hệ
thống tri thức dân gian trong việc ứng xử với môi trƣờng ấy trong quá trình thích
ứng để sinh tồn thông qua các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ và quản lý cũng
nhƣ sự biến đổi của tri thức dân gian trong ứng xử với môi trƣờng tự nhiên trong
thời kỳ hiện nay. Từ đó tác giả đã đề ra giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị
của văn hoá dân tộc trong xu thế hội nhập và phát triển. Đây cũng là tài liệu đƣợc
tham khảo của bản luận án này.
Mai Văn Tùng - tác giả luận án, quan tâm đến tri thức địa phƣơng trong sử
dụng và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của ngƣời Mƣờng ở Thanh Hoá. Đã
nghiên cứu chuyên sâu về nội dung này của ngƣời Mƣờng (ở xã Cẩm Thành, huyện
Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá) trong luận văn cao học [173]. Liên quan trực tiếp đến

tri thức địa phƣơng của ngƣời Mƣờng, tác giả luận án cũng đã công bố một số bài
viết trên một số tạp chí, nhƣ: Tri thức quản lý nguồn tài nguyên rừng của người
Mường [174]; Nguồn tài nguyên nước trong tri thức người Mường [175]; Kinh
nghiệm sử dụng nước làm ruộng của người Mường ở huyện Bá Thước [178]… Mặc
dù có nhiều cố gắng, nhƣng các bài viết kể trên vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất
20

định, đặc biệt là lý thuyết và phƣơng pháp tiếp cận nội dung… Song, những hạn chế
vừa nêu sẽ là bài học để rút kinh nghiệm cho các nghiên cứu tiếp theo.
Tóm lại, với tổng quan các nghiên cứu về tri thức địa phƣơng nói chung và
tri thức về sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của ngƣời Mƣờng nói
riêng trong đó cụ thể về ngƣời Mƣờng ở huyện Bá Thƣớc chƣa đƣợc quan tâm đúng
mức cả về phƣơng diện lý thuyết nghiên cứu, phƣơng diện lý luận và thực tiễn. Mặc
dù chúng tôi có thể tham khảo và học hỏi nhiều điều về tri thức địa phƣơng nói
chung và tri thức địa phƣơng của ngƣời Mƣờng nói riêng cả về nội dung và phƣơng
pháp tiếp cận; nhƣng với những hạn chế nêu trên của các nghiên cứu trƣớc đó, cho
thấy cần phải có một nghiên cứu chuyên sâu về tri thức địa phƣơng của ngƣời
Mƣờng trong việc sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên.
1.3. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
1.3.1. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu
1.3.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Nghiên cứu về tri thức địa phƣơng nói chung cũng nhƣ nghiên cứu về tri
thức địa phƣơng trong việc sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của
một nhóm ngƣời, một cộng đồng, hay một dân tộc cụ thể chính là tìm hiểu sự ứng
xử của con ngƣời tác động lên chính môi trƣờng sinh thái họ đã và đang sinh sống.
Đây là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học (kinh tế, xã hội học, dân tộc
học, nhân học văn hoá…). Do vậy, có nhiều lý thuyết tiếp cận khác nhau.
Từ lâu, con ngƣời đã nhận thức về môi trƣờng và môi trƣờng sinh thái nói
chung, về hoàn cảnh sống tự nhiên của chính mình, về mối quan hệ qua lại giữa con
ngƣời với thiên nhiên. Trong những năm gần đây, trong mối nguy cơ của khủng

hoảng sinh thái - môi trƣờng, mối quan hệ con ngƣời và môi trƣờng đang trở thành
một vấn đề nổi lên hàng đầu trên toàn thế giới. Trong các ngành khoa học nói chung
và ngành khoa học nhân văn, trong đó có ngành Nhân học văn hoá - dân tộc học nói
riêng, nhu cầu nghiên cứu con ngƣời trong môi trƣờng sinh thái và mối quan hệ
giữa con ngƣời với môi trƣờng sinh thái ngày càng tăng, thúc đẩy sự xuất hiện
những ngành khoa học mới, những hƣớng tiếp cận mới. Đồng thời xu hƣớng sử

×