Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Ảnh hưởng của lượng đạm bón và phân bón lá đến sinh trưởng phát triển và năng suất lúa giống BC15 trồng vụ mùa 2013 tại kỳ sơn hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.45 MB, 109 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM





PHẠM HUYỀN LIỄU



ẢNH HƯỞNG CỦA LƯỢNG ĐẠM BÓN VÀ PHÂN BÓN LÁ ĐẾN
SINH TRƯỞNG PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG SUẤT LÚA GIỐNG BC15
TRỒNG VỤ MÙA 2013 TẠI KỲ SƠN – HÒA BÌNH






LUẬN VĂN THẠC SĨ





HÀ NỘI, 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




PHẠM HUYỀN LIỄU



ẢNH HƯỞNG CỦA LƯỢNG ĐẠM BÓN VÀ PHÂN BÓN LÁ ĐẾN
SINH TRƯỞNG PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG SUẤT LÚA GIỐNG BC15
TRỒNG VỤ MÙA 2013 TẠI KỲ SƠN – HÒA BÌNH



LUẬN VĂN THẠC SĨ


Chuyên ngành : Khoa học cây trồng
Mã số : 60.62.01.10


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. VŨ QUANG SÁNG



HÀ NỘI, 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page i

LỜI CAM ĐOAN

- Tôi xin cam đoan rằng, đây là công trình nghiên cứu khoa học do tôi
trực tiếp thực hiện trong vụ Mùa năm 2013 tại huyện Kỳ Sơn – tỉnh Hòa
Bình, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Vũ Quang Sáng. Số liệu và kết quả
nghiên cứu trong luận văn này là trung thực, chưa từng được sử dụng trong
luận văn nào ở trong và ngoài nước.
- Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn
này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đã được chỉ
rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 10 tháng 9 năm 2014

Tác giả luận văn



Phạm Huyền Liễu










Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Vũ Quang
Sáng, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian thực hiện đề tài cũng như trong quá trình hoàn thành luận văn .
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo Bộ môn Sinh lý thực vật,
Khoa Nông học và Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã giúp đỡ tôi trong thời
gian học tập, thực hiện đề tài cũng như hoàn thiện luận văn này.
Xin cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè và người thân đã tạo điều kiện
giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày 10 tháng 9 năm 2014

Tác giả luận văn



Phạm Huyền Liễu









Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii


MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG v
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Vai trò của cây lúa 4
1.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa trên thế giới và Việt Nam 5
1.2.1. Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa trên thế giới 5
1.2.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa tại Việt Nam 6
1.2.3. Tình hình sản xuất lúa gạo tại Hòa Bình: 9
1.3. Một số kết quả nghiên cứu về phân bón cho cây lúa tại Việt Nam 11
1.3.1. Vai trò của nitơ và các kết quả nghiên cứu về bón đạm cho lúa 11
1.3.2. Kết quả nghiên cứu về phân bón qua lá cho cây trồng 20
Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
2.1. Đối tượng, vật liệu và địa điểm nghiên cứu
26
2.1.1. Đối tương nghiên cứu
26
2.1.2. Vật liệu nghiên cứu 26
2.1.3. Địa điểm nghiên cứu. 27
2.2. Nội dung nghiên cứu. 27
2.3. Bố trí thí nghiệm 28
2.4. Các biện pháp kỹ thuật 30
2.5. Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 30
2.6. Phương pháp xử lý số liệu 33

Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 34
3.1. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến sinh trưởng, phát triển và năng
suất giống lúa BC15 vụ mùa tại huyện Kỳ Sơn – tỉnh Hòa Bình 34
3.1.1. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến sinh trưởng phát triển cây lúa 34
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

3.1.2. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến động thái tăng trưởng chiều
cao cây của giống lúa BC15 tại Kỳ Sơn, Hòa Bình. 36
3.1.3. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến động thái đẻ nhánh giống lúa
BC15 vụ mùa 2013 tại Hòa Bình 37
3.1.4. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến chỉ số diện tích lá (LAI) 39
3.1.5. Ảnh hưởng của lượng đạm đến sự tích lũy chất khô giống lúa BC15 41
3.1.6. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến khả năng chống chịu sâu bệnh
của giống lúa BC15 43
3.1.7. Ảnh hưởng của đạm bón đến các yếu tố cấu thành năng suất lúa 44
3.1.8. Hiệu quả kinh tế của việc sử dụng phân đạm bón cho lúa. 46
3.2. Ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh trưởng, phát triển và năng
suất của giống lúa BC15 vụ mùa 2013 tại Kỳ Sơn – Hòa Bình 47
3.2.1. Ảnh hưởng của phân bón lá đến thời gian sinh trưởng và phát triển
của giống lúa BC 5 vụ mùa 2013 47
3.2.2. Ảnh hưởng của phân bón lá đến động thái tăng trưởng chiều cao cây 48
3.2.3. Ảnh hưởng phân bón lá đến động thái đẻ nhánh của giống lúa BC15 49
3.2.5. Ảnh hưởng của phân bón lá đến khả năng tích lũy chất khô của
giống lúa BC15 54
3.2.6. Ảnh hưởng của phân bón lá đến khả năng chống chịu sâu bệnh của
giống lúa BC15 56
3.2.7. Ảnh hưởng của phân bón lá đến năng suất và các yếu tố cấu thành
năng suất của giống lúa BC15 57
3.2.8. Hiệu quả kinh tế khi sử dụng phân bón lá cho lúa giống BC15 vụ

mùa 2013 tại Kỳ Sơn – Hòa Bình 59
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 61
1. Kết luận 61
2. Kiến nghị 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
PHỤ LỤC 66
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v


DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang

1.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa ở Việt Nam (2001 - 2014) 8

1.2. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa ở tỉnh Hòa Bình từ năm
2008 - 2013 10

3.1. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến thời gian sinh trưởng của
giống lúa BC 15 (ngày). 34

3.2. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến động thái tăng trưởng chiều
cao cây lúa. 36

3.3. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến động thái đẻ nhánh cây lúa. 38

3.4. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến chỉ số diện tích lá LAI của
giống lúa BC15 vụ mùa 2013 tại Hòa Bình. 40


3.5. Ảnh hưởng của lượng đạm đến lượng chất khô tích luỹ của giống
lúa BC15. 41

3.6 Ảnh hưởng của đạm đến khả năng chống chịu một số loại sâu bệnh
hại chính 43

3.7. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến năng suất và các yếu tố cấu
thành năng suất 44

3.8. Hiệu quả kinh tế khi bón đạm cho lúa giống BC15 tại Hòa Bình 46

3.9. Ảnh hưởng của phân bón lá đến thời gian sinh trưởng, phát triển
giống lúa BC15 vụ mùa 2013 tại Kỳ Sơn – Hòa Bình. 47

3.10. Ảnh hưởng của phân bón lá đến động thái tăng trưởng chiều cao cây 49

3.11. Ảnh hưởng của phân bón lá đến động thái đẻ nhánh. 50

3.12. Ảnh hưởng của phân bón lá đến chỉ số diện tích lá LAI. 51

3.13. Ảnh hưởng của phân bón lá đến khả năng tích lũy chất khô 55

3.14. Ảnh hưởng của phân bón lá đến khả năng chống chịu sâu bệnh của
giống lúa BC15 56

3.15. Ảnh hưởng của phân bón lá đến năng suất và các yếu tố cấu thành
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

năng suất và năng suất của giống lúa BC15 vụ mùa 2013 tại Hòa Bình 57


3.16. Hiệu quả kinh tế khi sử dụng phân bón lá cho lúa giống BC15. 60

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC VIẾT TẮT

Từ vết tắt Từ viết đâỳ đủ
Cs Cộng sự
FAO Tổ chức lương thực thế giới
CCCC Chiều cao cuối cùng
LAI Chỉ số diện tích lá
ĐVT Đơn vị tính
NXB Nhà xuất bản
NSLT Năng suất lý thuyết
NSTT Năng suất thực thu
BĐĐN Bắt đầu đẻ nhánh
KTT Kết thúc trỗ
TGST Thời gian sinh trưởng
TB Trung bình
NHH Nhánh hữu hiệu
BVTV Bảo vệ thực vật
(Đ/C) Đối chứng
CT Công thức

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Cây lúa (Oryza sativa L.) là một trong cây lương thực chủ yếu trên thế
giới: lúa mì, lúa nước và ngô. Cây lúa có vai trò rất quan trọng đối với con
người ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Có tới 65% dân số thế
giới mà chủ yếu là ở các nước Châu Á lấy lúa gạo làm lương thực chính.
Ở Việt Nam cây lúa đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của
người dân, nó là nguồn lương thực chính của người Việt Nam, diện tích trồng
lúa chiếm 61% diện tích đất trồng trọt cả nước, với hơn 70% dân số làm nông.
Nhìn lại chặng đường gần 27 năm sau đổi mới (1986-2014), nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu trên các mặt, trong đó có nông nghiệp có vai trò hậu
phương quan trọng đặc biệt, khi tình hình thế giới khủng hoảng, nông nghiệp
Việt Nam luôn giữ vai trò tiên phong, là nền tảng vững chắc cho nền kinh tế
đất nước, ổn định về an ninh lương thực.
Tuy nhiên cần nhìn nhận một cách khách quan rằng, nền nông nghiệp
nước ta còn lạc hậu, cơ sở sản xuất nông nghiệp còn thiếu thốn, năng suất
bình quân đạt 4,88 tấn/ha, còn thấp so với nhiều nước khác. Vì vậy để đảm
bảo nhu cầu lương thực và xuất khẩu, vấn đề cấp thiết đặt ra cần phải nghiên
cứu bộ giống mới, áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh tiên tiến nhằm
tăng năng suất, chất lượng lúa gạo là rất cần thiết.
Các nghiên cứu cụ thể trên thế giới đã chỉ ra rằng, năng suất chỉ tăng tỷ
lệ thuận với lượng đạm bón và kỹ thuật phun dinh dưỡng qua lá để tăng khả
năng hấp thu ở thời điểm cây cần dinh dưỡng cũng như mật độ cấy trên cây
lúa là những yếu tố quyết định năng suất và chất lượng gạo. Đối với cây lúa
vào thời kỳ đẻ nhánh, làm đòng và nuôi hạt nhu cầu dinh dưỡng tăng nên cần
bổ sung dinh dưỡng qua lá vào các giai đoạn trên là rất cần thiết để cây lúa đẻ
nhánh khỏe và tăng nhánh hữu hiệu cũng như bộ lá được duy trì để tăng và
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

kéo dài thời gian quang hợp cung cấp vật chất cho hạt được chắc, khối lượng

1000 hạt lớn là cơ sở cho năng suất, chất lượng gạo cao (Vũ Cao Thái, 1996).
Huyện Kỳ Sơn là một huyện nằm giáp với trung tâm thành phố Hòa
Bình, trên quốc lộ 6, với số dân là gần 34.000 người, chủ yếu làm nông
nghiệp, nên cây lúa có ý nghĩa rất quan trọng đối với người dân nơi đây.
Trong năm năm gần đây, diện tích đất trồng lúa của huyện cũng giảm nhẹ từ
1060,8 ha năm 2009 xuống còn 1060,5 ha năm 2012, nguyên nhân do chuyển
đổi một số diện tích đất trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản, đường giao thông,
khu công nghiệp ,trong khi đó dân số của huyện không ngừng tăng trong
các năm, từ khoảng 30.944 dân năm 2009 lên đến 33.099 dân năm 2013;
Trước tình hình đó để đảm bảo vấn đề an ninh lương thực, chính quyền địa
phương cũng có những chính sách giúp nông dân tiếp cận với các tiến bộ
khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, sản lượng lúa trong vùng, tuy
nhiên để nền sản xuất nông nghiệp phát triển hơn nữa người dân cần thay đổi
một số thói quen, tập quán canh tác trong đó có kỹ thuật sử dụng phân bón
sao cho hiệu quả. Trong những năm gần đây, việc bón phân, đặc biệt là bón
đạm với liều lượng không cân đối và sử dụng phân bón lá không theo qui
trình khuyến cáo đã khiến cho năng suất và hiệu quả trồng lúa tuy có cải thiện
nhưng vẫn thấp hơn so với các khu vực khác (năm 2009 năng suất đạt 48,4
tạ/ha, đến 2013 đạt 52,4 tạ/ha). Vì vậy, vấn đề nghiên cứu chuyên sâu về
lượng đạm bón, cung cấp bổ sung dinh dưỡng qua lá có vai trò quan trọng
trong thâm canh tăng năng suất và chất lượng lúa gạo tại huyện Kỳ Sơn-tỉnh
Hòa Bình, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Ảnh hưởng của lượng đạm bón và phân bón lá đến sinh trưởng phát triển
và n
ăng suất lúa giống BC15 trồng vụ mùa 2013 tại Kỳ Sơn - Hòa Bình”.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3


2. Mục đích và yêu cầu
2.1. Mục đích của đề tài
Xác định lượng đạm bón và phân bón lá phù hợp cho giống lúa BC15
sinh trưởng phát triển tốt, năng suất cao nhằm góp phần vào việc xây dựng
quy trình thâm canh tăng năng suất, chất lượng gạo trồng vụ mùa 2013 tại
huyện Kỳ Sơn – tỉnh Hòa Bình.
2.2. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá ảnh hưởng của lượng đạm bón đến các chỉ tiêu sinh trưởng
phát triển, năng suất và mức độ nhiễm sâu bệnh hại lúa giống BC15 vụ mùa
tại huyện Kỳ Sơn – tỉnh Hòa Bình.
- Phân tích, đánh giá ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh trưởng phát
triển, mức độ nhiễm sâu bệnh hại, các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất
của giống lúa BC15 trồng vụ mùa 2013 tại huyện Kỳ Sơn – tỉnh Hòa Bình.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
+ Từ kết quả nghiên cứu của đề tài mà có cơ sở khoa học để sử dụng
lượng đạm bón và phân bón lá thích hợp cho cây lúa sinh trưởng phát triển
tốt, cho năng suất cao trên đất miền núi Kỳ Sơn –Hòa Bình.
+ Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể cung cấp các dẫn liệu khoa học
về ảnh hưởng của liều lượng đạm và phân bón lá đối với cây lúa giống BC15
trồng trong vụ mùa tại Hòa Bình nói riêng và các tỉnh trung du miền núi phía
Bắc nói chung.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần vào việc xây dựng quy trình
thâm canh tăng năng suất và chất lượng lúa gạo giống BC15 trồng vụ mùa
trên đất Kỳ Sơn và các vùng miền núi tỉnh Hòa Bình có điều kiện sinh thái
tương tự.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4



Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Vai trò của cây lúa
Cây lúa là loại cây trồng đã gắn bó lâu đời với con người. Cây lúa xuất
hiện ở Châu Á cách đây 8.000 năm (Nguyễn Văn Luật, 2005), quê hương đầu
tiên của cây lúa là vùng Đông Nam Á và Đông Dương, những nơi mà dấu ấn
của cây lúa đã được ghi nhận là khoảng 10.000 năm trước công nguyên. Nhập
sang Trung Quốc rồi tới Nhật Bản, Hàn Quốc (Yosida, 1979).
Lúa là loại cây trồng gắn bó với truyền thống sản xuất nông nghiệp của
nhiều quốc gia. Nó là loại lương thực quan trọng trong bữa ăn hàng ngày của
hàng tỉ người trên trái đất. Trong gạo chứa nhiều chất dinh dưỡng như, tinh
bột là chủ yếu (>70%), protein (7-8%), các axit amin không thây thế, vitamin
nhóm B, chất xơ, vi lượng Ngoài cung cấp lương thực cho nhân dân trong
nước, lúa gạo còn là một mặt hàng xuất khẩu của nhiều quốc gia góp phần
trong tăng trưởng kinh tế. Theo Lu.B.R.Lorestto G.C (1980), tại Châu Á gạo
là nguồn cung cấp dinh dưỡng chủ yếu đóng góp 56% năng lượng, 42,9%
protein hàng ngày. Nó đặc biệt quan trọng đối với người nghèo khi mà lương
thực cung cấp tới 70% năng lượng và protein thông qua bữa ăn hàng
ngày. Tuỳ theo truyền thống ẩm thực và thu nhập của các quốc gia, bộ phận
dân cư khác nhau mà yêu cầu về chất lượng gạo cũng khác nhau. Những nơi
mà gạo là lương thực thứ yếu (Châu Âu) thì họ yêu cầu loại gạo tốt. Gạo 5-
10% tấm được tiêu thụ nhiều ở Tây Âu, 10-13% gạo sử dụng làm lương thực
ở các nước Đông Âu. Ngày nay, loại gạo hạt dài chiếm ưu thế trên thị trường
Tây Âu. Trong khi đó ở các nước Đông Âu người tiêu dùng lại thích dùng
loại gạo hạt tròn hơn. Ở Châu Á gần 90% dân số Bangladesh và phần lớn dân
số Ấn Độ, Srilanca, Pakistan, các nước thuộc Châu Phi tiêu dùng loại gạo đồ,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5


còn gạo nếp được tiêu thụ chính ở Lào, Camphuchia và một số vùng ở Thái
Lan (FAO, 2008).
1.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa trên thế giới
Trong thống kê nông nghiệp của FAO các loại lương thực truyền thống
chủ yếu được sản xuất và tiêu thụ trên thế giới bao gồm năm loại là lúa mì,
lúa gạo, ngô, kê và đại mạch. Trong đó lúa mì và lúa gạo là hai loại lương
thực cơ bản nhất dùng cho con người. Ngày nay do sự phát triển như vũ bão
của khoa học công nghệ nhiều ngành nghề mới ra đời nhưng chưa có ngành
nào dù hiện đại đến đâu cũng không có thể thay thế được sản xuất lúa gạo
(Bùi Huy Đáp, 1999). Vào đầu những năm 1960, viện nghiên cứu lúa gạo
quốc tế (IRRI) đã được thành lập tại Losbanos, Laguna, Philippin. Sau đó các
viện nghiên cứu nông nghiệp quốc tế khác cũng được thành lập ở các châu lục
và tiểu vùng sinh thái khác nhau như IRAT, EAT, CIAT, ICRISAT (IRRI,
1997) và (Gomez, K.A., 1995).
Hiện nay viện IRRI đang tập trung vào nghiên cứu chọn tạo ra các giống
lúa có năng suất siêu cao (siêu lúa) có thể đạt 13 tấn/vụ, đồng thời tập trung
vào nghiên cứu chọn tạo các giống lúa có chất lượng cao (giàu vitamin A,
giàu protein, giàu lisine, có mùi thơm…) để vừa hỗ trợ các nước giải quyết
vấn đề an ninh lương thực, vừa đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng cao của người
tiêu dùng (Cada, E.C. and P.B. Escuro, 1997). Trung Quốc là nước đã nghiên
cứu và đưa vào sản xuất thành công thành tựu khoa học kỹ thuật về lúa lai
được đánh giá là một phát minh lớn về khoa học kỹ thuật trong nghề trồng lúa
của thế kỉ 20 (Nguyễn Văn Luật, 2001). Nhưng phải đến năm 1973 các nhà
khoa học Trung Quốc mới tìm đủ 3 dòng: dòng bất dục đực di truyền tế bào
chất, dòng duy trì bất dục và dòng phục hồi bất dục. Từ đây đã tạo ra các
giống lúa ưu thế lai đầu tiên như: Nam ưu số 2, Sán ưu số 2, Uỷ ưu số 6 (Đinh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6


Văn Lữ, 1978). Lúa lai ra đời đã giúp cho nền sản xuất lúa Trung Quốc phá
được hiện tượng đội trần về năng suất lúa. Năng suất lúa tăng đã xoá được
nạn thiếu lương thực ở đất nước rộng lớn và đông dân này. Nhiệm vụ trọng
tâm của viện nghiên cứu phát triển lúa lai của Trung Quốc trong thế kỷ 21 là
phát triển lúa lai 2 dòng và đẩy mạnh nghiên cứu lúa lai 1 dòng và lúa lai siêu
cao sản nhằm tăng năng suất và sản lượng lúa gạo của đất nước (Lin, S.C.,
2001). Theo Jenning P.R., Coffmen W.R., Kauffman H.E. (1979. Hiện nay
các nhà chọn tạo giống đang tập trung và định hướng chọn tạo kiểu hình cây
lúa có chiều cao lý tưởng là 100 cm (FAOSTAT.FAO.ORG).
Gần đây Thái Lan đã lai tạo được giống lúa giàu chất sắt lớn gấp 30 lần
so với các giống thường. Ngoài ra còn chứa protein, kẽm và các tác nhân
chống oxy hoá (Nguyễn Văn Luật, 2001).
Hiện nay trên thế giới có khoảng trên 100 quốc gia trồng và sản xuất lúa
gạo Theo Hoang, C.H. (1999), tùy thuộc vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, xã
hội và trình độ thâm canh của mỗi nước mà năng suất và sản lượng có sự
chênh lệch nhau nhưng theo xu hướng tăng dần trong những năm gần đây.
Những nước sản xuất lúa gạo nhiều nhất tính đến năm 2011 là: Trung Quốc
(202,667 tr.tấn); Ấn Độ (155,700 tr.tấn); Indonexia (65,740 tr.tấn); Bangladet
(50,627 tr.tấn); Thái Lan (34,588 tr.tấn); Việt Nam (42,331 tr.tấn); Myamar
(32,800 tr.tấn); Philippin (16,684 tr.tấn); và Braxin (13,477 tr.tấn); Nhật Bản
(8,402 tr.tấn) ( Nguồn: FAOSTAT, 2012, 2013)
1.2.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa tại Việt Nam
Ở Việt Nam sản xuất lúa chiếm tỉ trọng lớn trong sản xuất nông nghiệp,
thu hút hơn 70% dân số và 70% lao động xã hội cả nước. Trong thời kì đổi
mới nhờ sử dụng công nghệ sinh học trong nghiên cứu phân loại, đánh giá
tính đa dạng di truyền Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam đã tạo
ra các giống cây trồng chất lượng cao đạt tiêu chuẩn xuất khẩu như các giống
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7


BM 9895, Xi 23, AYT 77, giống lúa lai HYT 57 Bằng các phương pháp
chọn tạo giống mới như nuôi cấy bao phấn, nuôi cấy tế bào sôma, lai xa, đột
biến, ưu thế lai, lai tạo kết hợp với đột biến, lai tạo kết hợp với nuôi cấy bao
phấn đã tạo ra các giống mới có giá trị như OM 3007-16-27, OM 3007-42-
94, DT 122, BM 9963. Đây là những dòng, giống mang nhiều đặc điểm quý
như tiềm năng năng suất cao, chất lượng gạo tốt, chống chịu sâu bệnh và các
điều kiện bất thuận như phèn, mặn, hạn, úng (Bùi Huy Đáp, 1985).
Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long công bố đã nghiên cứu ứng dụng
thành công công nghệ chuyển nạp gen tạo ra giống lúa mới giàu vi chất dinh
dưỡng từ ba giống lúa IR64, MTL250 và Taipei 309, đặc tính ưu điểm vượt
trội của giống lúa mới này là có hàm lượng cao các vi chất như: vitamin A,
vitamin E, sắt, kẽm , những vi chất rất cần thiết đối với con người. Ngoài ra
dòng lúa biến đổi gen còn gia tăng đáng kể chất oryzanol chất quan trọng hơn
cả vitamin E có tác dụng chống oxi hoá, giúp làm giảm hàm lượng cholesterol
trong máu. Dòng lúa biến đổi này còn có cả các ưu điểm kháng sâu bệnh, đảm
bảo tính an toàn sinh học, dễ trồng có thể đưa vào sản xuất lúa hàng hoá vì
chúng khắc phục được những khiếm khuyết về tính không ổn định thường gặp
ở cây biến đổi gen (Nguyễn Hữu Nghĩa, 1996). Viện Khoa học kỹ thuật nông
nghiệp Việt Nam đã tiến hành chọn tạo và đã thành công với ba giống
BM9603, HT1 và N97 (Lê Vĩnh Thảo, Nguyễn Ngọc Tiến, 2003). Từ năm
1975 IRRI đã có quan hệ chính thức với Việt Nam và đã nhập được 279 tập
đoàn lúa gồm hàng ngàn mẫu giống, mang nhiều đặc điểm sinh học tốt, chống
chịu sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh bất thuận như nhiệt độ, nhiễm mặn,
hạn hán, úng lụt… (Shen, J.H., 2000; Phạm Văn Tiêm, 2005)).
Việt Nam là nước có nền nông nghiệp với lịch sử phát triển hàng
nghìn năm, cây lúa có vị trí rất quan trọng và những năm gần đây Việt Nam
và Thái lan là 2 nước xuất khẩu gạo nhiều nhất trên thế giới. Tuy nhiên sản
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8


xuất lúa gạo ở Việt Nam còn nhiều thách thức trong chiến lược an toàn
lương thực, trong sự đa dạng sinh học của một nền nông nghiệp bền vững
đặc biệt là khả năng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế
(Nguyễn Hữu Nghĩa, 1996).

Bảng 1.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa ở Việt Nam (2001 - 2014)
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
2001 7.492,7 42,9 32.143,7
2002 7.504,3 45,9 34.444,7
2003 7.452,2 46,4 34.578,2
2004 7.445,3 48,6 36.184,2
2005 7.329,2 48,9 35.839,8
2006 7.324,8 48,9 35.818,3
2007 7.207,4 49,9 35.964,9
2008 7.400,2 52,3 38.703,1
2009 7.437,2 52,4 38.970,9
2010 7.489,4 53,4 39.993,4
2011 7.651,4 55,3 42.312,2
2012 7.750,0 56,0 43.400,0
2013 7.730,0 55,8 43.133,4
2014 (dự kiến) 7.600,0 57,1 43.396,0
(Nguồn: FAOSTAT, 2013)

Tuy nhiên, nếu so sánh với các nước trồng lúa tiên tiến như Trung Quốc,

Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… thì năng suất lúa của Việt Nam vẫn còn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

kém xa (Itoh và cộng sự, 2000). Số liệu bảng 1.1 cho thấy tình hình sản xuất
lúa gạo của Việt Nam từ 2001 - 2013 và dự kiến 2014.
Từ năm 2001 đến nay xuất khẩu gạo của Việt nam liên tục tăng từ 3,721
tr.tấn (2001) – 7,5 tr.tấn (2013) (Nguồn:Tổng cục thống kê)

1.2.3. Tình hình sản xuất lúa gạo tại Hòa Bình:
Hoà Bình là tỉnh miền núi, tiếp giáp với vùng đồng bằng sông Hồng, có
nhiều tuyến đường bộ, đường thuỷ nối liền với các tỉnh Phú Thọ, Hà Tây, Hà
Nam, Ninh Bình, là cửa ngõ của vùng núi Tây Bắc, cách thủ đô Hà nội 76 km
về phía Tây Nam. Hoà Bình có địa hình núi cao, chia cắt phức tạp, độ dốc lớn
địa hình hiểm trở.
Tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là 4.662 km2, đất có rừng trên 173
ngàn ha, chiếm 37% diện tích, đất nông nghiệp trên 65 ngàn ha, chiếm 14%
diện tích. Đất chưa sử dụng trên 170 ngàn ha. Với những tiềm năng đó, trong
tương lai, Hoà Bình có thể phát triển mạnh mẽ nền sản xuất nông, lâm nghiệp
và công nghiệp chế biến nông lâm sản.
Tuy nhiên, hiện nay tại địa bàn tỉnh Hòa Bình, nền nông nghiệp phát
triển còn thấp, năng suất cũng như sản lượng từ nông nghiệp chưa cao. Tổng
sản phẩm từ nông nghiệp chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu tổng sản phẩm toàn
tỉnh, cụ thể, cơ cấu sản phẩm nông-lâm nghiệp- thủy sản chiếm 22,48%,
trong khi tổng sản phẩm ngành công nghiệp-xây dựng là 50,25% và ngành
dịch vụ là 27,27%.
Tình hình sản xuất lúa tại tỉnh Hòa Bình còn một số hạn chế: qui mô
nhỏ, không tập trung; áp dụng các tiến bộ kỹ thuật chậm, diện tích nhỏ lẻ,
manh mún; việc dồn điền đổi thửa còn là một vấn đề hết sức khó khăn, là nỗi
trăn trở của các nhà lãnh đạo, quản lý. Do vậy mà so với các tỉnh thành khác ở

khu vực phía bắc thì diện tích và năng suất lúa của Hòa Bình còn thấp
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

(Nguồn: Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hòa Bình năm
2013-UBND tỉnh Hòa Bình, 2013 )




Bảng 1.2. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa ở tỉnh Hòa Bình
từ năm 2008 - 2013
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
2008 40.259 50,98 205,2
2009 40.802 48,29 197,0
2010 38.976 49,11 191,4
2011 39.641 52,28 207,2
2012 41.227 52,56 216,7
2013 41.093 50,13 205,9
(Nguồn: Niên giám thống kê - Cục thống kê Hòa Bình 2013)
Qua bảng 1.2 cho thấy:
Về diện tích: năm 2008, 2009 không thay đổi, trong hai năm 2010,
2011 diện tích lúa có giảm, song đến 2012 và 2013 diện tích tăng do tỉnh đã
chú trọng trở lại đến việc sản xuất lúa, duy trì diện tích cũ mà mở rộng thêm

diện tích mới.
Về năng suất: năm 2008 đạt 50,98 tạ/ha, năm 2009, tuy diện tích giữ
nguyên nhưng năng suất giảm do trong năm gặp điều kiện thời tiết khí hậu bất
thuận. Năm 2010, năng suất giảm tỷ lệ thuận với diện tích. Năm 2011, 2012
năng suất tăng lên do nhân dân ta đã biết sử dụng những giống mới có tiềm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

năng năng suất cao, phẩm chất tốt. Năm 2013, do diễn biến thời tiết phức tạp,
với nhiều cơn bão xảy ra liên tiếp đặc biệt trong vụ mùa vào lúc lúa đang giai
đoạn trỗ nên đã ảnh hưởng đến năng suất, làm năng suất giảm so với hai năm
trước đó.
Về sản lượng: Nhìn chung sản lượng có chiều hướng tăng. Từ năm
2008 đến 2012, tuy có nhiều biến động lúc tăng, lúc giảm liên quan đến sự
tăng giảm của diện tích, Tuy nhiên, do việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, sử
dụng các giống lúa mới có năng suất cao đã làm cho sản lượng tăng lên, năm
2012 là năm có chiều hướng tăng cả về diện tích, năng suất và sản lượng.
Năm 2013, tuy diện tích không thay đổi nhiều, nhưng sản lượng giảm hơn do
năng suất thấp hơn so với năm 2012.
1.3. Một số kết quả nghiên cứu về phân bón cho cây lúa tại Việt Nam
1.3.1. Vai trò của nitơ và các kết quả nghiên cứu về bón đạm cho lúa
Nitơ là thành phần quan trọng số một cấu tạo nên cơ thể sồng, không có
nitơ thì không có sự sống. Nó tham gia vào thành phân axit amin cấu tạo nên
protein cấu trúc và protein enzim, thành phần của ADP và ATP…trong trao đổi
năng lượng và các hợp chất khử quan trọng trong trao đổi chất. Nitơ cấu tạo
nên màng sinh học, tham gia vào các chất phytohocmon trong cây để điều tiết
quá trình sinh trưởng phát triển của thực vật, tham gia cấu tạo nên diệp lục và
phytochrom để hấp thu ánh sáng, điều khiển các quá trình phát sinh hình thái
khác của cây…Vì vậy, để quá trình sinh trưởng phát triển tốt cần phải cung cấp
nitơ thường xuyên cho cây (Sinclair and Rufty, 2012).

Ở Việt Nam, diện tích đất canh tác bình quân đầu người trong vòng 65
năm qua đã giảm từ 2.548 m
2
xuống còn 732 m
2
/người, tương đương với mức độ
giảm 1,1%/năm (Nguyễn Văn Bộ, 2003). Như vậy trong nông nghiệp hiện nay,
sản lượng cây trồng sẽ được quyết định chủ yếu bằng yếu tố năng suất thông qua
thâm canh và áp dụng các kỹ thuật mới trong công tác chọn tạo giống, bảo vệ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

thực vật và chế biến, bảo quản sau thu hoạch, trong đó vai trò của phân bón là
cực kỳ quan trọng. Điều này cũng phù hợp với kinh nghiệm lâu đời của ông cha
ta là “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Phân bón góp phần làm tăng
năng suất cây trồng thông qua nhiều cơ chế tác động khác nhau, song quan trọng
hơn cả là phân bón cung cấp cho cây trồng những dinh dưỡng cần thiết mà đất
không đủ khả năng cung cấp, duy trì độ phì nhiêu trong quá trình canh tác.
Ngoài ra, cùng với năng suất kinh tế, phân bón làm tăng lượng sinh khối cây do
đó tăng nguồn hữu cơ trả lại cho đất, góp phần ổn định độ phì của đất.
Theo kết quả tổng kết của Mai Văn Quyền (2002) trên 60 thí nhiệm khác
nhau, thực tiễn ở 40 nước có khí hậu khác nhau cho thấy: Nếu đạt năng suất
lúa 3 tấn thóc/ha, thì cây lúa lấy đi hết 50kg đạm, 260kg lân, 80kg kali, 10kg
CaO, 6kg Mg, 5kg S và nếu ruộng lúa đạt năng suất đến 6 tấn/ha thì lượng
dinh dưỡng cây lúa lấy đi là 100kg đạm, 50kg lân, 160kg kali, 19kg CaO,
12kg Mg, 10kg S (Yosida, 1979). Lấy trung bình, cứ tạo 1 tấn thóc cây lúa lấy
đi hết 17kg đạm, 8kg lân, 27kg kali, 3kg CaO, 2kg Mg và 1,7kg S (Mai Văn
Quyền, 2002).
Đạm là nguyên tố dinh dưỡng quan trọng nhất đối với cây lúa trong các
giai đoạn sinh trưởng và phát triển. Sau khi tăng lượng đạm thì cường độ quang

hợp, cường độ hô hấp và hàm lượng diệp lục của cây lúa tăng lên, nhịp độ
quang hợp, hô hấp không khác nhau nhiều nhưng cường độ quang hợp tăng
mạnh hơn cường độ hô hấp gấp 10 lần cho nên vai trò của đạm làm tăng tích
luỹ chất khô (Nguyễn Thị Lẫm, 1994; Phạm Văn Cường, 2005 ).
Viện Nông hoá thổ nhưỡng đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của đất,
mùa vụ và liều lượng phân đạm bón vào đến tỷ lệ đạm do cây lúa hút (Nguyễn
Như Hà, 2006). Không phải do bón nhiều đạm thì tỷ lệ đạm của lúa sử dụng
nhiều. Ở mức phân đạm 80 kgN/ha, tỷ lệ sử dụng đạm là 46,6%, so với mức đạm
này có phối hợp với phân chuồng tỷ lệ đạm hút được là 47,4%. Nếu tiếp tục tăng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

liều lượng đạm đến 160N và 240N có bón phân chuồng thì tỷ lệ đạm mà cây lúa
sử dụng cũng giảm xuống. Trên đất bạc màu so với đất phù sa sông Hồng thì
hiệu suất sử dụng đạm của cây lúa thấp hơn. Khi bón liều lượng đạm từ 40N -
120N thì hiệu suất sử dụng phân giảm xuống, tuy lượng đạm tuyệt đối do lúa sử
dụng có tăng lên (Cục Khuyến nông và Khuyến ngư, 1998). Trên giống lúa Việt
Lai 20 khi giảm mức bón đạm từ 1,6g N/chậu 5 lít xuống mức thấp 0,8g N/chậu
thì diện tích lá giảm theo các thời kỳ theo dõi và cường độ quang hợp cũng giảm
(Tăng Thị Hạnh, 2008). Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Lan (2009), mức đạm
bón khác nhau (60, 90, 120 và 150 kgN/ha) đã ảnh hưởng đến chỉ số diện tích lá
LAI ở các giai đoạn đẻ nhánh rộ, trỗ và chín sáp. Kết quả cho thấy LAI tăng theo
tuyến tính theo lượng đạm bón ở mức tin cậy 95% . Kết quả nghiên cứu trên
giống lúa chịu mặn (giống Cườm), Phạm Văn Cường (2012) cho thấy: khi tăng
nồng độ đạm từ 1,425mM đến 4,275mM diện tích lá và hàm lượng diệp lục
trong lá, tích lũy chất khô tăng sau 28 ngày trồng.
Kết quả nghiên cứu sử dụng phân bón đạm trên đất phù sa sông Hồng
của Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam đã tổng kết các thí nghiệm
4 mức đạm từ năm 1992 đến năm 1994, kết quả cho thấy: Phản ứng của phân
đạm đối với cây lúa phụ thuộc vào thời vụ, loại đất và giống lúa (Nguyễn Như

Hà, 1999).
Viện nghiên cứu lúa đồng bằng sông Cửu Long đã có nhiều thí nghiệm về
ảnh hưởng của liều lượng đạm khác nhau đến năng suất lúa vụ đông xuân và hè
thu trên đất phù sa đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả nghiên cứu trung bình
nhiều năm, từ năm 1985 - 1994 của Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long, kết quả
này đã chứng minh rằng: Trên đất phù sa được bồi hàng năm có bón 60 P
2
O
5

30 K
2
O làm nền thì khi bón đạm đã làm tăng năng suất lúa từ 15-48,5% trong vụ
đông xuân và hè thu tăng từ 8,5-35,6%. Hướng chung của hai vụ đều bón đến
mức 90N có hiệu quả cao hơn cả, bón trên mức 90N này năng suất lúa tăng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

không đáng kể (Nguyễn Như Hà, 2005). Theo Nguyễn Thị Lẫm (1994), khi
nghiên cứu về bón phân đạm cho lúa cạn đã kết luận: liều lượng đạm bón thích
hợp cho các giống có nguồn gốc địa phương là 60N/ha. Đối với những giống
thâm canh cao như CK136 thì lượng đạm thích hợp từ 90-120N/ha.
Theo Nguyễn Như Hà (1999), khi nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ cấy
và ảnh hưởng của liều lượng đạm tới sinh trưởng của giống lúa ngắn ngày
thâm canh cho thấy: Tăng liều lượng đạm bón ở mật độ cấy dày có tác dụng
tăng tỷ lệ nhánh hữu hiệu. Kết quả nghiên cứu trên 2 giống lúa ngắn ngày
(Khang Dân và giống mới chọn tạo) của Tăng Thị Hạnh (2013) cho thấy: khi
tăng mức đạm bón từ 0 đến 45kgN/ha đã làm tăng các yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất ở cả vụ xuân và vụ mùa. Khi nghiên cứu 3 dòng giống lúa
chuyển gen, Jian et al (2014) cho thấy: năng suất của cả 3 dòng giống tăng từ

mức bón 0 đến 90 và 135kgN/ha, năng suất tăng có thể duy trì đến mức bón
180kgN/ha .
Phân đạm đối với lúa lai là rất quan trọng, lúa lai có bộ rễ khá phát triển,
khả năng huy động từ đất rất lớn nên ngay trường hợp không bón phân năng
suất lúa lai vẫn cao hơn lúa thuần (Đường Hồng Dật, 2002). Các nhà nghiên
cứu Trung Quốc đã kết luận: cùng một mức năng suất, lúa lai hấp thu lượng
đạm và lân thấp hơn lúa thuần, ở mức năng suất 75 tạ/ha lúa lai hấp thu đạm
thấp hơn lúa thuần 4,8%, hấp thu lân thấp hơn 18,2% nhưng hấp thu kali cao
hơn 30%. Với ruộng lúa cao sản thì lúa lai hấp thu đạm cao hơn lúa thuần
10%, hấp thu kali cao hơn 45%, còn hấp thu lân thì bằng lúa thuần (Nguyễn
Thị Lẫm, 1994).
Kết quả thí nghiệm trong chậu cho thấy: trên đất phù sa sông Hồng bón
đạm đơn độc làm tăng năng suất lúa lai 48,7% trong khi đó năng suất giống lúa
CR203 chỉ tăng 23,1%. Với thí nghiệm đồng ruộng, bón đạm, lân cho lúa lai có
kết quả rõ rệt (Cục Khuyến nông và Khuyến ngư, 1998). Nhiều thí nghiệm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

trong phòng cũng như ngoài đồng ruộng cho thấy hiệu quả của đạm: 1kgN bón
cho lúa lai làm tăng năng suất 9-18kg thóc, so với lúa thuần thì tăng 2-13kg
thóc. Như vậy, trên các loại đất bạc màu, đất gley khi các yếu tố khác chưa
được khắc phục về độ chua, lân và kali thì vai trò của phân đạm không phát
huy được, do bón đạm, lân nên năng suất lúa lai tăng có 17,7% trên đất bạc
màu và 11,5% trên đất gley.
Với đất phù sa sông Hồng, bón đạm với mức 180kg/ha trong vụ xuân và
150kgN/ha trong vụ mùa cho lúa lai vẫn không làm giảm năng suất lúa. Tuy
nhiên, ở mức đạm bón 120kgN/ha làm cho hiệu quả cao hơn các mức khác
(Nguyễn Như Hà, 1999). Thời kỳ bón đạm là thời kỳ rất quan trọng trong việc
nâng cao hiệu lực của phân để làm tăng năng suất lúa. Với phương pháp bón
đạm (bón tập trung vào giai đoạn đầu và bón nhẹ vào giai đoạn cuối) của Việt

Nam vẫn cho năng suất lúa cao, năng suất lúa tăng thêm từ 3,5 tạ/ha (Nguyễn
Văn Bộ, 1998), (Nguyễn Văn Bộ và Cs, 1998), (Nguyễn Thị Lẫm, 1994),
(Phạm Văn Toản và Cs, 2004.
Kết quả nghiên cứu thời kỳ bón đạm cho thấy rất rõ hiệu quả của phân
đạm trên đất phù sa sông Hồng đạt cao nhất ở thời kỳ bón lót từ 50-75% tổng
lượng đạm, lượng đạm bón nuôi đòng chỉ từ 12,5- 25%. Kết quả nghiên cứu
ảnh hưởng của phân đạm bón đối với lúa lai, Phạm Văn Cường và Cs (2005)
cho thấy, khi tăng lượng đạm bón khả năng sinh trưởng của lúa lai tốt hơn,
tăng diện tích lá, tăng khả năng trao đổi khí CO
2
do đó làm cho quá trình sản
xuất chất khô cao ở giống lai F1.
Một số tác giả cho rằng trên đất phèn nặng, muốn trồng lúa có hiệu quả
cần phải liên tục cải tạo: sử dụng nước ngọt tưới để rửa phèn, bón phân lân
liều lượng cao trong những năm đầu để tích luỹ lân. Trên đất phù sa sông Cửu
Long được bồi hàng năm, bón lân vẫn có hiệu quả rất rõ. Vụ đông xuân, bón
20 kg P
2
O
5
/ha đã tăng năng suất được 20% so với công thức không bón lân
(Cục Khuyến nông và Khuyến ngư, 1998). Trong vụ hè thu, với giống lúa
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

VM1, bón supe lân hay lân nung chảy đều làm tăng năng suất rất rõ rệt
(Nguyễn Văn Bộ, 1998).
Tất cả các thí nghiệm trong chậu và ngoài đồng đều cho thấy hiệu suất sử
dụng lân ở lúa lai là 10 - 12 kg thóc/kg P
2

O
5
so với lúa thuần là 6-8 kg thóc/kg
P
2
O
5
(Cục Khuyến nông và Khuyến ngư, 1998).
Theo Mai Văn Quyền (2002) cho biết: Trên vùng đất xám ở Đức Hoà -
Long An, Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam năm 1993 đã thí nghiệm
với 2 giống lúa KSB 218-9-3 và giống 2B cho thấy ở các công thức bón từ
mức 30 đến 120 kg K
2
O/ha đều làm cho năng suất lúa cao hơn đối chứng từ
15,8 - 32,4% với giống KSB - 218 và từ 6-18,7% đối với giống 2B.
Dinh dưỡng kali là một trong 3 yếu tố dinh dưỡng quan trọng đối với cây
lúa, trước tiên là cây lúa hút kali, sau đó hút đạm. Để thu được 1 tấn thóc, cây
lúa lấy đi 22-26 kg K
2
O nguyên chất, tương đương với 36,74-43,4 kg KCl
(60% K), kali là nguyên tố điều khiển chất lượng tham gia vào các quá trình
hình thành các hợp chất và vật chất, kali còn có tác dụng làm tăng tỷ lệ
đường, giúp vận chuyển chất dinh dưỡng nhanh chóng về hoa và tạo hạt.
Trên đất phù sa sông Hồng, trong thâm canh lúa ngắn ngày, để đạt được
năng suất lúa hơn 5 tấn/ ha ở vụ mùa và trên 6 tấn/ha ở vụ xuân, nhất thiết
phải bón kali. Để đạt năng suất lúa xuân 7 tấn/ha thì cần bón 102-135 kg
K
2
O/ha/vụ (với mức 193 kg N/ha, 120 kg P
2

O
5
/ha) và năng suất lúa vụ mùa
đạt 6 tấn cần bón 88-107 kg K
2
O/ha/vụ (với mức 160kg N/ha/vụ, 88kg
P
2
O
5
/ha/vụ). Hiệu suất phân kali có thể đạt 6,2-7,2 kg thúc/ kg K
2
O (Nguyễn
Như Hà, 1999), (Phạm Văn Toản, Trương Hợp Tác, 2004).
Vai trò cân đối đạm và kali càng lớn khi lượng đạm sử dụng càng cao.
Nếu không bón kali thì hệ số sử dụng đạm chỉ đạt 15-30% trong khi bón kali thì
hệ số này tăng lên đến 39-49%. Theo Mai Văn Quyền (2002) tổng kết kinh
nghiệm trên 60 thí nghiệm khác nhau được tiến hành trên 40 nước có khí hậu
khác nhau cho thấy: Nếu đạt 3 tấn thóc/ha, lúa lấy đi hết 50 kg N, 26 kg P
2
O
5
,

×