Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM NĂM 2010 VÀ BÀI HỌC CHO NHỮNG NĂM TIẾP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.19 KB, 38 trang )

TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM NĂM 2010 VÀ BÀI HỌC
CHO NHỮNG NĂM TIẾP THEO
Posted on 09/01/2011 by Civillawinfor
TS. NGUYỄN ĐẠI LAI – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Thị trường tài chính Việt Nam trong năm 2010 có nhiều biến động do chịu nhiều tác
động của những yếu tố quốc tế và trong nước. Nhìn lại nền kinh tế nói chung và thị
trường tài chính Việt Nam nói riêng sẽ là cần thiết để rút ra những bài học bổ ích
cho các năm tiếp theo.
Có thể nhận diện một cách tổng quan những thành công và nghịch lý trên thị trường tài
chính Việt Nam trong năm 2010 như sau:
Những thành công:
Không thể phủ nhận những mảng sáng của thị trường tài chính năm 2010. Một cách
chung nhất, đó là: Chủ động, linh hoạt, vật lộn và nhìn rõ ra nhiều góc khuất… nên đã cơ
bản thoát khỏi nhiều nguy cơ tái khủng hoảng tài chính, bùng nổ lạm phát quá lớn và
chặn được đà suy giảm kinh tế. Cụ thể về một số thành công cần ghi nhận là:
- Trong bối cảnh gần như cả thế giới, kể cả những nền kinh tế phát triển tiếp tục lâm vào
tình trạng khủng hoảng nợ và chưa khắc phục xong cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu xuất phát từ Mỹ năm 2008, thì nền kinh tế Việt Nam vẫn kiểm soát
được hầu hết các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô nói chung và thị trường tài chính nói riêng ở mức
chấp nhận được. Tốc độ tăng tín dụng tổng quát xung quanh 25%, đạt mức kỳ vọng; Chỉ
số chứng khoán không mất điểm như các thách thức từng đe dọa từ đầu năm, VNINDEX
vẫn giữ ở mức xung quanh 500 điểm; Thị trường bất động sản khá ổn định ở mức không
bị trồi, sụt quá lớn; Vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 17,2 tỉ USD, vốn giải
ngân tăng 10% so với 2009 và “chạm” mức kỷ lục đã xác lập 11,5 tỉ USD năm 2008;
Xuất khẩu xác lập con số kỷ lục 71,6 tỉ USD; Nhập siêu chỉ còn 17,3% tổng kim ngạch
hàng hóa xuất khẩu; Tăng trưởng GDP khá, ở mức 6,78%. Việt Nam vẫn đứng trong số
các nước tăng trưởng khá trong khu vực châu Á – vùng kinh tế đầu tầu của thế giới;
- Hầu hết các chỉ số tăng trưởng của cả 3 ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ đều
tăng khá so với năm 2009 (lần lượt công nghiệp: 7,7%/5,57%; nông nghiệp:
2,78%/3,74% và dịch vụ: 7,52%/6,64%), kéo theo tăng trưởng GDP: 6,78%/5,32% cùng
cặp so sánh năm 2010/2009 – Nghĩa là, thị trường tài chính đã từng bước đi đúng địa chỉ


để kích hoạt cho nền kinh tế dần hồi phục sau suy giảm.
Các nghịch lý và nguyên nhân:
- Trước hết, xét trên thị trường tín dụng. Tín dụng từ ngân sách nhà nước tăng quá cao so
với tốc độ tăng tín dụng nội tệ từ thị trường tín dụng chính thống qua hệ thống các tổ
chức tín dụng. Bằng nguồn trái phiếu rất lớn (chủ yếu hút vốn từ các ngân hàng thương
mại) và rất nhiều ưu đãi tín dụng từ ngân sách nhà nước cho các đơn vị kinh tế thuộc sở
hữu Nhà nước, nhất là tín dụng “ưu đãi đầu tư và xuất khẩu của Nhà nước” đã vô hình
trung làm cho các nỗ lực chống lạm phát “một phía” từ chính sách tiền tệ bị lạc vào một
không gian chống lạm phát theo kiểu “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
- Trong hệ thống các tổ chức tín dụng, tốc độ tăng tín dụng ngoại tệ lớn hơn gần gấp 2
lần tốc độ tăng tín dụng nội tệ, tốc độ tăng tín dụng vàng cũng rất cao (gần gấp 3 lần tốc
độ tăng tín dụng nội tệ) là những nghịch lý không giống nước nào trong khu vực và trên
thế giới. Hậu quả là đã làm tăng tình trạng đô la hóa (thậm chí vàng hóa) vốn đã rất nặng
nề, nay lại càng phức tạp thêm.
- Sự can thiệp hành chính bị lạm dụng khá nhiều, can thiệp vào chính những điểm nhạy
cảm nhất của cơ chế thị trường như giá cả, lãi suất, tỷ giá…, trong khi những can thiệp
hữu dụng khác vào tổng cung, tổng cầu, hay tác động từ nguồn vào thị trường tài chính
lại rất ít được sử dụng, đã phản ánh khá rõ “sự lên ngôi” của các giải pháp được gọi là
“tình thế”; thậm chí còn đi từ tình thế này sang tình thế khác, làm cho không những Nhà
nước không dẫn dắt được thị trường, mà cả thị trường cũng không dẫn dắt được doanh
nghiệp và nhà sản suất. Thậm chí nhiều chính sách Nhà nước đã chạy theo đuôi thị
trường, còn thị trường thì cạnh tranh thiếu đồng chất, thiếu lành mạnh và bóp nghẹt sản
xuất.
- Chênh lệch thu nhập ngày càng doãng ra. Lương của “những người có trách nhiệm”
cao nhất có thể gấp hàng vài chục đến hàng trăm lần so với tầng lớp nhân viên, người lao
động sản xuất trực tiếp (trong khi khoảng cách từ cao nhất đến thấp nhất trong bảng
lương khu vực hành chính nhà nước chỉ là 10 lần) xuất hiện ở mọi loại doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Luật pháp về kinh tế thị trường còn rất yếu và thiếu, làm cho Nhà nước bị bất lực trước
vô số hiện tượng kinh tế ngầm nằm ngoài vòng kiểm soát hoặc không thể kiểm soát được,

gây thất thu thuế và ô nhiễm môi trường ở mọi loại doanh nghiệp, thuộc mọi thành phần
kinh tế. Điển hình về việc thiếu và yếu của luật pháp trên thị trường tài chính thể hiện
trong các lĩnh vực kiểm soát tình trạng đô la hóa, pha loãng cổ phiếu, làm giá chứng
khoán, kiểm soát giao dịch bất động sản, chi tiêu ngân sách nhà nước (nhất là tiêu), lập
“sân sau” để đầu tư chéo và thanh toán biên mậu chủ yếu bằng tiền mặt nhằm trốn thuế
và gian lận giá cả … đã làm cho thị trường tài chính Việt Nam năm qua có khá nhiều hiện
tượng “loạn”: loạn giá vàng, bất động sản, tỷ giá, lãi suất và tín dụng ngoại tệ, vì vậy vô
hình trung cùng các mất cân đối khác, thị trường tài chính đã góp phần tạo thành tổng lực
đẩy chỉ số giá tiêu dùng lên tới 2 con số: 11,75% so với tháng 12/2009.
- Nhập siêu năm 2010 tuy có giảm khá về số tương đối, song về giá trị tuyệt đối vẫn ở
mức ước tính 12,4 tỉ USD.Đó là áp lực lớn lên dự trữ ngoại hối và tỷ giá. Đó cũng là biểu
hiện của nợ thương mại nước ngoài không trong danh mục nợ tín dụng của Nhà nước và
doanh nghiệp với nước ngoài.
- Hơn 70% giá trị hàng xuất khẩu có nguyên liệu là hàng nhập khẩu mà tỷ giá liên tục
tăng đã đồng nghĩa với nhập khẩu lạm phát, cộng hưởng với lạm phát trong nước cùng
đẩy giá hàng nhập khẩu cho tiêu dùng và nhập khẩu cho sản xuất lên cao. Việc hầu như
không có ngành công nghiệp phụ trợ, không chỉ làm cho giá trị gia tăng thấp, mà còn làm
cho nền kinh tế bị chia cắt cục bộ thành nhiều “tiểu nền kinh tế” có những cơ chế khác
nhau cả về sản xuất, tiêu thụ lẫn phương tiện thanh toán ngay trong cùng một thị trường
của quốc gia thống nhất.
- Đồng tiền Việt Nam dường như ngày càng quá nhỏ bé về sức mua nếu nhìn xuyên về
lịch sử 25 năm qua (từ ngày đổi tiền gần nhất là ngày 14-9-1985), còn nếu nhìn vào nền
kinh tế nói chung thì nước ta vẫn luôn là nền kinh tế bị nhập siêu (trừ năm 1992). Nghĩa
là, đồng nội tệ đã liên tục yếu đi so với sức mua bên ngoài mà vẫn không cải thiện được
tình trạng nhập siêu. Theo thời báo kinh tế Việt Nam, số 308 ngày 25-12-2010, nếu tính
lũy kế chỉ 7 năm từ tháng 12/2003 đến tháng 12/2010, CPI của Việt Nam đã tăng 200%
(2 lần); Cũng theo nguồn trên, giá vàng tháng 12/2010 đã cao hơn giá vàng tháng
12/2000 tới 7,3 lần, tức là sức mua của VND sau 10 năm nếu so với vàng chỉ còn 13,7%.
Trong khi đó, cuộc chiến tiền tệ giữa các cường quốc, cũng như cuộc chiến nợ công giữa
các quốc gia châu Âu cũng đang gây sức ép giảm sức mua của nhiều đồng tiền, làm cho

thu nhập thực tế của người lao động ở không ít quốc gia đang bị đe dọa thực sự bởi các
cỗ máy in tiền quá mức.
Một số giải pháp:
Một trong những vấn đề trọng tâm của kinh tế vĩ mô nói chung và thị trường tài chính nói
riêng hiện nay và cả trong tầm nhìn xa hơn đối với Việt Nam là phải bảo vệ giá trị sức
mua của đồng nội tệ. Vậy giải pháp nào để bảo vệ giá trị sức mua đối nội và đối ngoại
của đồng tiền Việt Nam?
Trước hết, cần nhận diện và vận dụng các qui luật của tiền tệ: Lượng tiền nội tệ cung ứng
vào lưu thông càng lớn (bất luận từ kênh nào) so với mức đã bão hòa trước đó thì tỷ giá
càng tăng (đo bằng số đồng nội tệ/một đồng ngoại tệ), cũng đồng nghĩa với lạm phát càng
cao. Và ngược lại, bất kể lúc nào có lạm phát là có hiện tượng cung tiền các kỳ trước đó
quá cao so với nhu cầu thực của nền kinh tế. Cầu về ngoại tệ càng lớn thì tỷ giá cũng
càng tăng (nhưng chỉ trong ngắn hạn, nếu nền kinh tế không bị đô la hóa) và ngược lại,
tức là khi lãi suất huy động ngoại tệ phải càng tụt thì tỷ giá mới sẽ phải tụt theo. Lãi suất
nội tệ càng tăng thì ngược lại, không những tỷ giá sẽ càng tụt mà chỉ số lạm phát cũng sẽ
càng giảm… Suy cho cùng, sức mua đối nội và đối ngoại của đồng nội tệ phải tăng tiến
tới ổn định thì mới chống được lạm phát và giảm phát – Đó là nguyên lý lý thuyết bất di
bất dịch.
Thứ hai: Từ những nguyên lý mang tính qui luật nói trên, để chống gia tăng tỷ giá lúc
này cần phải có các giải pháp tương ứng để làm “xì hơi” từ từ các áp lực đang làm cho tỷ
giá và lạm phát tăng. Trong đó giải pháp mạnh để làm “xì hơi” có hiệu ứng rõ nhất chính
là dùng ngoại tệ dự trữ (ngay cả rất hiếm cũng phải cân nhắc, sử dụng) để mua tiền đồng
vào, bán ngoại tệ ra theo các địa chỉ được xem là đang có áp lực lớn nhất và thiết thực
nhất.
Đồng thời với việc này là hàng loạt các giải pháp khác mang tính ngắn hạn như phải có
tín hiệu siết chặt hơn nữa chính sách tiền tệ và giảm rõ rệt sự chi tiêu của Chính phủ;
Tăng lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu trên thị trường tiền tệ sơ cấp; Nếu cần, cũng phải
tăng cả dự trữ bắt buộc tiền gửi; Sử dụng nhiều hơn các công cụ của chính sách tiền tệ để
tạo sóng lan tỏa tới thị trường tín dụng, lấy “đà” để tự thị trường có điều kiện giảm dần
lãi suất nội tệ theo qui luật; Về hành chính, phải công bố giảm mạnh lãi suất huy động

ngoại tệ, tăng mạnh lãi suất cho vay bằng ngoại tệ và tiến tới giảm dần, từng bước có lộ
trình chấm dứt tín dụng ngoại tệ và tín dụng vàng; Buộc các tổ chức tín dụng phải chuyển
khoản đầu tư trái phiếu doanh nghiệp từ nguồn huy động sang dư nợ tín dụng thay vì
hạch toán vào mục “đầu tư”; Cân đối lại chi và tiêu ngân sách nhà nước; Tạm dừng nhập
khẩu những đơn hàng không thiết yếu; Đa dạng hóa cơ cấu danh mục tiền dự trữ cũng
như phương tiện thanh toán quốc tế…
Những giải pháp mang tính trung và dài hạn: Tăng cường các biện pháp mạnh về quản
lý nhà nước để chống đô la hóa bằng luật và hệ thống hành chính một cách cương quyết
sao cho trên đất Việt Nam nhất thiết chỉ tiêu tiền Việt Nam đối với mọi thành phần, mọi
khu vực kinh tế; Xác định lộ trình để không còn tín dụng ngoại tệ và tín dụng vàng trong
thị trường vốn; Quản lý chặt việc cung ứng tín dụng và sử dụng phương tiện thanh toán
của tất cả các nhóm ngân hàng, kể cả các ngân hàng có nhân tố nước ngoài; Tiến tới
khuyến khích các dòng ngoại tệ chảy vào Việt Nam chỉ được đi qua thị trường ngoại hối
và thị trường trái phiếu chính phủ, mà không cho phép đi qua thị trường tín dụng; Tăng
cường mở chi nhánh và/hoặc mở ngân hàng 100% vốn Việt Nam tại nước ngoài để vừa
phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng ra nước ngoài, vừa đáp ứng nhanh nhất các nhu
cầu tiền đồng ngay từ ngoài biên giới lãnh thổ cho khách vào đầu tư hay du lịch tại Việt
Nam; Phát triển mạnh hệ thống các doanh nghiệp phụ trợ để cải thiện rõ rệt cơ cấu chi
phí trong giá thành sản phẩm hàng hóa xuất khẩu theo hướng chi phí mua nguyên, nhiên
liệu, sức lao động cũng như thiết bị máy móc do Việt Nam sản xuất sẽ chiếm tỷ trọng lớn,
tăng mạnh hàm lượng nội địa hóa giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam; Có lộ trình
chuyển dứt khoát mô hình Ngân hàng Nhà nước hiện nay sang mô hình Ngân hàng Trung
ương độc lập với Chính phủ; Hình ảnh đồng tiền Việt Nam phải ngày càng được cải thiện
không chỉ về niềm tin vào sức mua ổn định, mà tiến tới cả về mệnh giá và tính độc lập
được bảo vệ, được tin tưởng trong mọi tầng lớp công chúng.
Thứ ba: Trên thị trường bất động sản, chỉ nên đáp ứng tín dụng trung và dài hạn cơ bản
bằng nguồn vốn có độ dài tương ứng qua thị trường chứng khoán/hoặc qua các cơ chế
chuyên nghiệp như ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, Công ty tài chính, Quỹ đầu
tư… độc lập hoặc hạch toán độc lập trong ngân hàng thương mại. Để thực hiện được điều
đó cần phải có cơ chế minh bạch cho phòng ngừa, kiểm soát rủi ro. Đặc biệt là giải pháp

“chứng khoán hóa” tín dụng bất động sản cần phải thông qua thông tin về xếp hạng tín
dụng, về kết quả kiểm toán độc lập đủ độ tin cậy cao, không nên áp dụng nguyên lý “nồi
lẩu nợ thập cẩm” tín dụng bất động sản như ở Mỹ đã làm trong những năm 2001 – 2009.
Trong điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam còn yếu, giải pháp hữu hiệu lúc này
cho vấn đề giảm rủi ro tín dụng bất động sản chính là: Ngay trong các ngân hàng thương
mại lớn nên thành lập các đơn vị hạch toán độc lập như ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát
triển, công ty tài chính… để thực hiện các hoạt động dịch vụ và tự doanh chuyên nghiệp
về lĩnh vực bất động sản, như: thuê mua tài chính, bảo hiểm khoản vay, bảo lãnh phát
hành chứng khoán bất động sản, bảo lãnh vay vốn, hay lập Quỹ đầu tư tín thác để hình
thành đội ngũ các nhà kinh doanh chuyên nghiệp, trước khi ngân hàng thương mại có thể
trở thành tập đoàn tài chính ở Việt Nam.
Thứ tư: Trên thị trường chứng khoán, đề nghị Chính phủ có chính sách buộc mọi doanh
nghiệp cổ phần đều phải lên sàn, từng bước dẹp bỏ thị trường IPO không chính thức hay
IPO khép kín nội bộ. Để chống pha loãng cổ phiếu, mọi doanh nghiệp cổ phần chỉ được
phép phát hành bổ sung khi và chỉ khi có phương án tăng qui mô sản lượng sản xuất kinh
doanh một cách minh bạch và tổng số vốn cần huy động bổ sung buộc phải đồng thời
dưới 2 hình thức với tỷ lệ tương đương nhau, gồm: cổ phiếu và tỷ lệ trái phiếu trung, dài
hạn ghi danh cho phép thanh toán trước hạn ghi rõ vào trái phiếu theo qui định bằng pháp
luật… Trái phiếu được quyền thanh toán trước hạn loại này là để bảo vệ quyền lợi cho
nhà đầu tư trên thị trường thứ cấp. Theo đó, pháp luật cần cho phép nhà đầu tư có thể sử
dụng quyền này trong việc gây áp lực thanh khoản cho doanh nghiệp phát hành. Trái
phiếu này nếu duy trì được đến kỳ đáo hạn, cho phép nhà đầu tư được quyền hoặc là
thanh toán lấy tiền về 100% theo mệnh giá trái phiếu, hoặc là qui định một tỷ lệ thích hợp
được quyền chuyển bổ sung vốn điều lệ thành cổ phiếu phổ thông theo công thức công
khai ghi trong qui chế phát hành cổ phiếu tăng vốn như sau: số cổ phiếu phổ thông thu
được bằng tổng giá trị trái phiếu được chuyển đổi chia cho giá cổ phiếu của doanh nghiệp
đó đang hình thành tại sàn chứng khoán vào thời điểm chuyển đổi.
Tóm lại, bước sang năm đầu của thập niên thứ hai, quản lý vĩ mô nền kinh tế Việt Nam
cần có nhiều quyết sách quan trọng để giải mã cho sự mất cân đối cả về cơ cấu, luật pháp,
cơ chế thị trường và sự minh bạch cho nền kinh tế./.

Chuyên gia Bùi Kiến Thành cho rằng, thị trường tiền tệ năm 2010 có mặt hạn chế là
không cung ứng được lưu lượng tiền cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh và phát triển dịch
vụ. Tuy rằng, lượng tiền tệ có tăng trên 25% theo chỉ tiêu nhưng không có nghĩa là đi vào
sản xuất, dịch vụ mà đi vào lĩnh vực khác như chứng khoán, đầu tư bất động sản, ngoại
tệ
Thứ hai, có những bất cập trong chính sách tài khóa. Chúng ta đang đầu tư nhiều vào
những dự án thiếu hiệu quả kinh tế. Đặc biệt là quản lý tài khóa không quản lý được rò rỉ
từ các đầu tư của nhà nước.
Nhìn lại những chính sách về tiền tệ được ban hành và thực hiện trong năm 2010 vừa
qua, chuyên gia Bùi Kiến Thành cho rằng: "chính sách về tiền tệ không nhất quán và
những thông tư, chỉ thị để làm giảm lãi suất chưa thực hiệu quả. Đến thời điểm này, lãi
suất vẫn quá cao. Ảnh hưởng đến phát triển nền kinh tế".
Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ năm qua không đáp ứng được mục đích chính của chính
sách tiền tệ. Đó là tạo cho nền kinh tế đủ lưu lượng tiền tệ để hoạt động với lại một lãi
suất hợp lý.
Cụ thể, trong những tháng đầu nhà nước đã có những biện pháp làm giảm lãi suất xuống
cũng như có khuyến nghị các ngân hàng nên giảm lãi suất. Nhưng hững ngày cuối năm,
Chính phủ lại tuyên bố không kìm chế lãi suất mà ấn định theo thị trường. V
ới sự bật đèn xanh như vậy, tạo ra nhiều vấn đề. Thứ nhất, đối với các ngân hàng đang
trong tình trạng yếu thế thu hút vốn thì tăng lãi suất huy động thay vì đi làm khuyến mãi,
tặng quà Rồi sau đó lãi suất cứ thế tăng dần lên. Đến khi Techcombank công khai huy
động 17%, rồi một số ngân hàng khác cũng tăng lên 18% thì tạo ra loạn lãi suất.
Không phải vì huy động cao như thế nền kinh tế huy động được thêm tiền trong nhân dân
mà chỉ là đồng tiền chạy vòng từ ngân hàng này qua ngân hàng kia. Các ngân hàng nhỏ
gặp khó khăn trong giải quyết vấn đề thanh khoản của mình.
Hệ thống ngân hàng cũng gặp nguy cơ rủi ro nhiều hơn vì huy động cao thì phải cho vay
cao. Nợ xấu của ngân hàng sẽ tăng lên. Bên cạnh đó cũng tạo khó khăn cho doanh
nghiệp, không tiếp cận được nguồn vốn có lãi suất hợp lý để sản xuất kinh doanh.
Theo ông Bùi Kiến Thành, nếu có những chính sách điều hành thị trường tiền tệ một cách
hợp lý của Nhà nước, lãi suất sẽ xuống.

Cụ thể Chính phủ cần đưa ra chính sách hợp lý, để có thể vận dụng được lưu lượng tiền
tệ đầy đủ cho nền kinh tế phát triển bền vững. Vấn đề mặt bằng lãi suất được quy định và
có những chính sách hỗ trợ. Được như vậy, lãi suất sẽ giảm và tạo ra mặt bằng lãi suất
hợp lý cho nền kinh tế phát triển. Hy vọng rằng, trong năm 2011 tới, Nhà nước sẽ có
những điều hành, điều chỉnh hợp lý để thị trường tiền tệ phát triển ổn định hơn.
Sáng ngày 21/08/2011, Ngân hàng An Bình (ABBANK) tổ chức Hội thảo Thị trường
tài chính tiền tệ Việt Nam – Những thách thức & Dự báo đến cuối 2011. Gợi ý giải
pháp cho NHTM/Doanh nghiệp. Tới tham luận và chia sẻ ý kiến trong chương trình
có 02 chuyên gia đầu ngành về kinh tế của Việt Nam, là TS. Lê Xuân Nghĩa – Phó
chủ tịch Ủy ban tài chính Quốc gia và PGS.TS. Trần Đình Thiên – Viện trưởng Viện
kinh tế Việt Nam.

Hội thảo do ABBANK tổ chức nhằm cập nhật tình hình nền kinh tế Việt Nam nói chung
và thị trường tài chính tiền tệ nói riêng, phân tích xu hướng và đưa ra những nhận định,
cái nhìn đa chiều về nền kinh tế Thế giới và Việt Nam cùng các giải pháp tới Ban lãnh
đạo và CBNV tập đoàn Geleximco, ABBANK và các công ty thành viên. Nội dung buổi
tọa đàm bao gồm hai phần chính. Phần một là những ý kiến và nhận định về thị trường
Tài chính tiền tệ Việt Nam – Những thách thức và dự báo đến cuối năm 2011 và Gợi ý
giải pháp cho NHTM/ Doanh nghiệp. Phần 2 là thời gian dành cho hai chuyên gia trả lời
những thắc mắc của CBNV ABBANK, các khách mời tham dự hội thảo về những vấn đề
quan tâm.
PGS.TS. Trần Đình Thiên nhận định rằng, với tình trạng lạm phát cao kéo dài, tình trạng
bất ổn của nền kinh tế khiến cho lòng tin của các tổ chức, doanh nghiệp ngày càng suy
giảm. Để giải quyết những vấn đề này, Chính phủ cần phải có những liệu pháp mạnh,
nhất quán và thật quyết đoán để chặn đứng khủng hoảng tài chính có thể xảy ra. Ông
Thiên cho rằng, một bài thuốc đắng nhưng hiệu quả chính là thứ mà nền kinh tế Việt Nam
nói chung hay các tổ chức, doanh nghiệp nói riêng đang cần tới.
Tuy đưa ra những ý kiến và con số có phần không mấy sáng sủa, nhưng cả hai chuyên gia
đều có chung một nhận định rằng nền kinh tế Việt Nam đã qua được giai đoạn khó khăn
nhất của năm 2011 với những chỉ số tích cực. TS. Lê Xuân Nghĩa cho biết, tỷ giá hối đoái

trên thị trường Việt Nam dần trở nên ổn định: tỷ giá tự do giảm từ 22.500 (tháng 2/2011)
xuống 20.600 (tháng 6/2011), giảm 6%, chỉ tăng chút ít trong tháng 7. Tỷ giá giao dịch
của ngân hàng tháng 5/2011 thậm chí thấp hơn tỷ giá tham chiếu (lần đầu tiên sau 37
tháng). Dự trữ ngoại tệ tại các ngân hàng đã tăng trở lại, áp lực lạm phát cũng giảm dần.
Chỉ số CPI tháng 5/2011 là 1,09 %; dưới sức ép của tỷ giá hối đoái đang tăng lên từ nay
tới cuối năm, dự báo CPI cả năm sẽ ở mức 19% -20%. Bên cạnh đó, lãi suất tuy còn cao
nhưng đã có xu hướng giảm nhẹ: lãi suất liên ngân hàng giảm từ 22% xuống còn 12%, lãi
suất trái phiếu chính phủ giảm từ 14% xuống 12%, lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân
giảm 1%, thanh khoản tại các ngân hàng ở mức ổn định. Ngoài ra, dự trữ ngoại hối cũng
được cải thiện đáng kể, tăng từ khoảng hơn 3 tuần lễ nhập khẩu vào đầu năm lên 8 tuần lễ
nhập khẩu mới đây.
Trong phần đưa ra những giải pháp cho những tháng còn lại của năm 2011, TS. Nghĩa
nhấn mạnh chính sách tiền tệ cần tiếp tục thắt chặt nhưng liều lượng phải hợp lý, và phù
hợp với chu kỳ kinh doanh. Hơn nữa, NHNN nên bãi bỏ những qui định hành chính như
trần lãi suất, hạn mức dư nợ tín dụng/ tổng huy động 80% và hạn mức tăng trưởng tín
dụng cho lĩnh vực phi sản xuất 16% vào cuối năm nay.
Trong phần 2 của buổi tọa đàm, rất nhiều ý kiến và câu hỏi đã được đưa ra cho hai
chuyên gia. Chủ yếu là những thắc mắc xung quanh vấn đề lạm phát và các chính sách,
hoạt động nhằm bình ổn tỷ giá, cũng như lãi suất của nền kinh tế. Bên cạnh đó, những
vấn đề nóng hổi như giá vàng hay tình hình thị trường chứng khoán, bất động sản cũng
được nêu ra.
Từ góc nhìn của một NHTMCP, TS Nguyễn Trí Hiếu – Thành viên HĐQT ABBANK
cũng đưa ra nhiều đánh giá và nhận định xung quanh vấn đề để có một nền kinh tế vững
mạnh, một hệ thống ngân hàng mạnh khỏe. Bên cạnh các chính sách vĩ mô nhằm điều tiết
nguồn vốn, bình ổn tỉ giá, thì việc sát nhập các ngân hàng là cần thiết trong một nền kinh
tế đang trong giai đoạn phát triển nhưng có tới trên 100 ngân hàng hoạt động.
Nói về ABBANK, TS. Lê Xuân Nghĩa cho biết, ông đã dành thời gian tìm hiểu về
ABBANK, và thấy rằng ABBANK là một ngân hàng có định hướng trở thành một trong
những ngân hàng thương mại hàng đầu, đây là một chiến lược phát triển trong dài hạn.
Khi xây dựng chiến lược kinh doanh dựa trên định hướng mở rộng quy mô, ABBANK sẽ

phải hy sinh lợi ích ngắn hạn để tập trung chi phí cho những ưu tiên dài hạn. Vì vậy, để
tiếp tục hoạt động và phát triển hiệu quả, mục tiêu chiến lược của ngân hàng và mong
muốn của cổ đông phải ăn khớp với nhau.
Kết thúc buổi Hội thảo, ông Đào Mạnh Kháng – thành viên HĐQT đã thay mặt Ban lãnh
đạo và toàn thể CBNV ABBANK cám ơn các chuyên gia đã tới chia sẻ kiến thức cũng
như kinh nghiệm về nền kinh tế Việt Nam nói chung, và đặc biệt là những nhận định
khách quan về thị trường ngân hàng trong thời điểm hiện nay. Ông Đào Mạnh Kháng
cũng nhấn mạnh: “Bên cạnh việc chung tay giải quyết những khó khăn thách thức mà
nền kinh tế Việt Nam hay ngành ngân hàng đang phải đối mặt, thì chúng ta hãy coi đây
chính là cơ hội để thực hiện những bước tiến lớn tiến gần hơn nữa với những nước có
nền kinh tế phát triển. Do đó, đây cũng là lúc mà ABBANK phải biết chớp lấy thời cơ,
vượt qua những thử thách, để khẳng định sự vững mạnh và uy tín của mình trên thị
trường.”.
hị trường tài chính Việt Nam - Một năm nhìn lại (30-01-2011)
(TCTC Online) Cùng với đà hồi phục của nền kinh tế thế giới (tăng trưởng dự kiến
đạt khoảng 4,8% trong năm 2010 - IMF) kinh tế Việt Nam trong năm 2010 cũng có
tốc độ tăng trưởng GDP quý sau cao hơn quý trước: quý I tăng 5,83%, quý II tăng
6,4%, quý III tăng 7,16%. Tuy nhiên, sang những tháng cuối của năm 2010, nền
kinh tế lại bắt đầu xuất hiện một số diễn biến bất lợi. Thị trường tài chính Việt Nam
bị thử thách liên tục trước những biến động khó lường của thị trường vàng, những
căng thẳng trên thị trường ngoại hối, lạm phát tăng ở mức 2 con số
Thị trường tiền tệ
Thực hiện Chỉ thị số 2164/CT-TTg của Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng nhà nước
(NHNN) “Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt; điều hành tổng
lượng tiền trong lưu thông nhằm đáp ứng yêu cầu ổn định vĩ mô và phát triển sản xuất,
kinh doanh, đồng thời bảo đảm khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng và nền
kinh tế, đi đôi với kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, dư nợ tín dụng”,
NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ theo hướng phù hợp mục tiêu tăng trưởng và kiềm
chế lạm phát. Lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh
toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ với các

ngân hàng được giữ nguyên ở mức 8%/năm; lãi suất tái chiết khấu cũng giữ nguyên mức
6%/năm trong suốt 10 tháng đầu năm 2010. Việc điều chỉnh tăng lãi suất của NHNN từ
ngày 5/11/2010 đã đẩy lãi suất trên tất cả các thị trường tăng mạnh, đặc biệt là lãi suất
huy động ở các kỳ hạn ngắn đến cực ngắn. Trên thị trường liên ngân hàng, các NHTM
giảm tối đa và thậm chí tạm ngừng đưa vốn ra thị trường khiến các NHTM nhỏ lao đao lo
thanh khoản cuối năm. Bức tranh “lãi suất khủng năm 2008” hình như lại đang được vẽ
lại vào tháng cuối cùng của năm 2010 khi lãi suất huy động được đẩy lên mức đỉnh điểm
là 18%/năm. Đến thời điểm cuối tháng 12/2010, tình hình đã có phần dịu lại song mức lãi
suất huy động của các ngân hàng trong tháng 12/2010 vẫn ở mức 14-15%, tức là cao hơn
hẳn so với mức 150% lãi suất cơ bản (13,5%) và phần cao hơn đó được các NHTM xử lý
bằng “lãi suất thưởng” - mức lãi suất không được ghi chính thức nhưng lại là “một phần
không thể tách rời” của cuốn sổ tiết kiệm.
Trong suốt quý đầu tiên của năm 2010, thị trường ngoại hối thường xuyên căng
thẳng với sự mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu ngoại tệ, chênh lệch tỷ giá giữa
thị trường tự do và chính thức lên đến 200VND/USD. Sang đến quý II, sức ép tỷ giá có
dấu hiệu lắng dịu nhưng lại phát sinh một dấu hiệu bất thường là có thời điểm tỷ giá thị
trường tự do thậm chí còn thấp hơn thị trường chính thức. Điều này cho thấy sự chênh
lệch quá thấp giữa lãi suất cho vay bằng USD và VND đã tạo ra một lượng cung ngoại tệ
ảo rất lớn ra thị trường, gây méo mó cung cầu ngoại tệ. Đến tháng 7/2010, tỷ giá
VND/USD vẫn xoay quanh mức 19.000 VND/USD nhưng từ giữa tháng 10/2010 trên thị
trường tự do đã có diễn biến tăng bất thường. Đến cuối tháng 10/2010, so với tháng trước
đó, tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do đã tăng khoảng 645 đồng, lên mức 20.325
VND/USD nhưng đến ngày 9/11/2010, con số này đã lên mức đỉnh là 21.200VND/USD.
Trong tháng 10-11/2010, NHNN cũng đã liên tục can thiệp giảm bớt những căng thẳng
trên thị trường bằng cách bán ra 220 triệu USD nhằm đáp ứng nhu cầu nhập khẩu hàng
hóa thiết yếu hay thành lập Tổ công tác liên Vụ theo dõi tình hình bán và cho vay thanh
toán hàng nhập khẩu, song do nhập siêu vẫn ở mức cao cộng với nỗi lo VND mất giá do
lạm phát cao, giá vàng tăng và công tác quản lý ngoại hối còn gây tâm lý găm giữ ngoại
tệ nên tỷ giá USD trong tháng 11/2010 luôn ở mức cao hơn đáng kể so với tháng 10;
chênh lệch tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá chính thức doãng rộng, có thời điểm lên

tới 1.6000 VND/USD.
Tháng 12/2010, thị trường đã có nhiều chuyển biến tích cực thể hiện rõ ở sự sụt
giảm mạnh của tỷ giá trên thị trường “chợ đen”; doanh số mua ngoại tệ của các NHTM
đã có sự gia tăng đáng kể nhờ nguồn cung ngoại tệ tăng lên. Theo thống kê của Vụ Quản
lý Ngoại hối – NHNN, tính đến cuối tháng 11/2010, nguồn thu ngoại tệ từ kiều hồi đã đạt
mức 7,6 tỷ USD và ước tháng 12 sẽ tăng thêm khoảng 770 triệu, nâng tổng nguồn thu từ
kiều hối cả năm 2010 lên hơn 8 tỷ USD, tăng 25% so với năm 2009. Cùng với nguồn
kiều hối gia tăng, luồng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam từ đầu năm đến nay thặng dư
khoảng 800 triệu USD, giải ngân trong 11 tháng năm 2010 tăng 9,9% so với cùng kỳ năm
trước
Thị trường vàng
Sau sự bứt phá liên tục của giá vàng trong năm 2009, khá nhiều nhận định đưa ra
là kịch bản giá vàng năm 2010 sẽ ít có những biến động lớn, mức giá cao nhất vì thế khó
vượt 29 triệu đồng một lượng. Thế nhưng những gì diễn ra trên thị trường vàng năm 2010
dường như không đúng theo “kịch bản” này. Thị trường liên tục ghi dấu những mức kỷ
lục do tình trạng mất cân bằng cung cầu khi nhu cầu mua vàng tích trữ, đầu tư và thanh
khoản cao khiến thị trường vàng thế giới không thể ngồi yên và giá vàng trong nước vì
thế cũng biến động theo. Nếu vào thời điểm đầu năm 2010, giá vàng trên thị trường Việt
Nam dao động ở mức 26 triệu đồng/lượng (trên thị trường thế giới là khoảng 1.100
USD/ounce) thì đến đầu tháng 10/2010, con số này đã là 31,4 triệu đồng/lượng và đỉnh
điểm là ngày 9/11 - “ngày hoảng loạn” khi giá vàng lúc 10h sáng lên tới 38,2 triệu
đồng/lượng (giá thế giới có thời điểm đã lên mức đỉnh là 1423,70 USD/ounce) - một con
số chưa từng tại Việt Nam (đỉnh cao của giá vàng năm 2009 là 29,3 triệu đồng/lượng).
Năm 2010 vừa qua cũng là năm mà các biện pháp can thiệp nhằm ổn định giá vàng được
các cơ quan chức năng ban hành liên tục. Chỉ riêng trong tháng 10 và 11, đã có tới 5 giải
pháp đưa ra để bình thường hóa thị trường vàng trong nước. Đầu tiên là Thông tư 22 siết
hoạt động huy động và cho vay vốn bằng vàng tại các NHTM, tiếp đó là liên tục cấp hạn
ngạch nhập khẩu vàng cho các đầu mối, can thiệp bình ổn tỷ giá USD, giảm thuế nhập
khẩu vàng từ 1% về 0%, và tăng thuế xuất vàng từ 0% lên 10% kể từ tháng 1/2011. Trên
thị trường thế giới, với mức tăng 26% kể từ đầu năm đến nay, kim loại quý này đã có tới

ba trong bốn năm đạt mức tăng hai chữ số. Còn ở trong nước, giá vàng trong nước cũng
tăng tới 46% so với cuối năm 2009.
Thị trường tín dụng
Năm 2010 là một năm không dễ dàng đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Những bất ổn trên thị trường tài chính, thời hạn hoàn tất lộ trình tăng vốn pháp định lên
mức 3.000 tỷ đồng theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP đã cận kề, TTCK ảm đạm, các cổ
đông lớn là các tập đoàn lại thoái vốn khiến áp lực của các ngân hàng, nhất là các ngân
hàng nhỏ ngày càng thêm nặng. Theo báo cáo của NHNN, đến 1/12/2010, vẫn còn 19
NHTMCP chưa đảm bảo mức vốn pháp định 3.000 tỷ đồng mặc dù các ngân hàng này đã
được NHNN và UBCKNN chấp thuận tăng vốn điều lệ. Điều đáng mừng đối với các
ngân hàng là Chính phủ đã cho phép kéo dài thời hạn kế hoạch tăng vốn thêm 1 năm, đến
31/12/2011. Tuy nhiên, điều đó chỉ có nghĩa là kéo dài và vì thế, không ít ngân hàng đã
chủ động tìm đến các nhà đầu tư ngoại như Mekong Bank, OCB
Đối với các ngân hàng lớn, tuy không phải chịu áp lực trên như nhưng áp lực huy
động vốn là rất lớn, đặc biệt là nguồn vốn huy động dài hạn. Huy động vốn của các ngân
hàng vẫn chậm và chủ yếu ở các kỳ hạn ngắn (dưới 6 tháng) và cực ngắn (dưới 1 tháng).
Không chỉ khó huy động VND mà huy động USD cũng rất khó khăn. Không ít ngân hàng
đã đưa lãi suất huy động USD lên đến mức 5,5%/năm nhằm giữ chân khách hàng và bù
đắp nguồn ngoại tệ cho vay bởi tốc độ tăng tín dụng ngoại tệ là khá cao. Dư nợ tín dụng
ngoại tệ cao gấp nhiều lần so với dư nợ bằng VND. Sự mất cân đối này có thể tạo nên sự
mất cân bằng cho hệ thống ngân hàng, gia tăng thêm áp lực lên VND và thậm chí có thể
tạo cơ hội cho các doanh nghiệp vay vốn ngoại tệ rồi chuyển VND để gửi ngược lại ngân
hàng hưởng chênh lệch lãi suất. Mặc dù thị trường không thuận lợi như mong muốn
nhưng hoạt động kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam năm 2010 vẫn đạt được những
kết quả tương đối khả quan. Các chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng và huy động vốn đều đạt
được so với mục tiêu đề ra. Tính đến cuối tháng 10/2010, tổng số dư tiền gửi của khách
hàng tại các tổ chức tín dụng đến ước tăng 22,81% so với cuối năm 2009 và tổng dư nợ
cho vay nền kinh tế ước tăng 22,5% so với cuối năm 2009.
Tính riêng kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm, khá nhiều ngân hàng đã đạt và
vượt mục tiêu đề ra. MB cũng cho biết đã hoàn thành 77% kế hoạch lợi nhuận trước thuế

cả năm (1.700 tỷ đồng) sau 7 tháng… Đến hết tháng 11/2010, lợi nhuận trước thuế của
EIB đã đạt 95,8%. Bên cạnh đó, cũng còn không ít ngân hàng không đạt được mục tiêu
lợi nhuận bởi thời gian còn lại chỉ có 3 tháng mà chỉ tiêu lợi nhuận sau 9 tháng kinh
doanh mới chưa đạt được 50%.
Bảng 1: Lợi nhuận trước thuế 9 tháng đầu năm 2010 của một số ngân hàng
TT Ngân hàng LNTT
(tỷ đồng)
% kế hoạch
năm
TT Ngân hàng LNTT
(tỷ đồng)
% kế hoạch
năm
1 ACB 2000 55 6 SacomBank 1929 63,9
2 HDBank 221 73,67 7 SCB 544 78
3 ABB 546,2 86,7 8 TrustBank 148 78
4 DongABank 515 46,85 9 VietcomBank 4090 70
5 OceanBank 520 - 10 EximBank 1600 68
Tuy nhiên, điều quan trọng là các NHTM Việt Nam cũng như cơ quan quản lý là
NHNN đều đã ý thức được sự cần thiết phải thực hiện những dự phòng tài chính cho các
khoản tín dụng đang tồn đọng và có nguy cơ khó đòi, những dự phòng quan trọng nhằm
kiểm soát và ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tín dụng. Hệ thống đang hành động hướng
đến mục tiêu an toàn hơn và lành mạnh hơn, với sự tăng cường giám sát rủi ro từ phía các
cơ quan quản lý vĩ mô và một sự tự nguyện dành ưu tiên cho các mục tiêu an toàn từ phía
các ngân hàng. Theo Báo cáo của Thống đốc NHNN tại phiên giải trình do Ủy ban Kinh
tế và Ngân sách Quốc hội sáng 25/12 thì tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam
tính đến cuối năm 2010 vào khoảng 2,5%, các chỉ tiêu tiền tệ năm 2010 cơ bản phù hợp
với chỉ đạo của Chính phủ, đảm bảo an toàn hệ thống và phương tiện thanh toán trong
nền kinh tế.
Năm 2010 vừa qua đã chứng kiến sự bứt phá của các ngân hàng nước ngoài bất

chấp những khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Đã có
thêm 4 chi nhánh ngân hàng và 2 công ty tài chính nước ngoài được cấp giấy phép hoạt
động trong năm 2010 này. Như vậy, với sự hiện diện của 71 tổ chức tín dụng nước ngoài
và 48 văn phòng đại diện, các ngân hàng nước ngoài đang ngày càng khẳng định vị trí
quan trọng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua việc mở rộng mạnh mẽ hệ
thống mạng lưới. Tính đến hết quý III/2010, tổng tài sản của khối ngoại đạt 420.531 tỷ
đồng, tăng 30,8% so với thời điểm tháng 12/2009, chiếm 11,25% tổng tài sản của toàn bộ
hệ thống ngân hàng.
Thị trường chứng khoán
Năm 2010 thực sự là một năm khó khăn với thị trường chứng khoán Việt Nam
(TTCK). TTCK đã có những đợt sụt giảm mạnh. Chỉ số HNX-Index đã có thời điểm
giảm xuống dưới mốc 100 điểm còn Vn-Index tuy không giảm xuống mức thấp như năm
2009 nhưng ngày 23/8/2010, cũng chính thức mất mốc 450 điểm xuống còn 447,92 điểm
và giá trị giao dịch toàn phiên chỉ đạt 508,97 tỷ đồng - một con số thấp chưa từng thấy.
Trong tháng 12 vừa qua, thị trường cũng đã có nhiều phiên sắc xanh chiếm ưu thế nhưng
đến giữa tháng 12/2010, mốc 500 điểm vẫn chưa được chính phục.
Những áp lực trong năm 2011
Với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 đã được Quốc hội thông
qua: tăng trưởng GDP 7-7,5%, lạm phát không quá 7%, tăng trưởng xuất khẩu 10%, nhập
siêu không quá 18% tổng kim ngạch xuất khẩu, tổng vốn đầu tư toàn xã hội bằng khoảng
40% GDP, có thể nhìn thấy rõ thay vì hướng ưu tiên tới mục tiêu tăng trưởng, Việt Nam
sẽ quan tâm nhiều hơn tới ổn định kinh tế vĩ mô - nền tảng căn bản và cực kỳ quan trọng
nếu Việt Nam muốn tiếp tục tăng trưởng cao, tăng trưởng ổn định và bền vững của nền
kinh tế. Và như vậy, áp lực đối với thị trường tài chính năm 2011 là không hề nhỏ.
Thứ nhất, Áp lực về quy mô vốn và khả năng huy động vốn đối với các ngân
hàng.
Không thể phủ nhận những nỗ lực của hệ thống ngân hàng thời gian qua trong
việc tăng vốn để cải thiện năng lực tài chính và nâng cao sức cạnh tranh của chính mình.
Trong bảng xếp hạng 500 ngân hàng lớn và mạnh nhất châu Á mới công bố gần đây (The
Asian Bankers 500, 2010-2011 Edition) đã có tới 19 đại diện ngân hàng Việt nam so với

4 đại diện của năm trước. Tuy nhiên, điều đó hình như vẫn chưa đủ. Quy mô vốn của
nhiều NHTM Việt nam vẫn còn quá nhỏ nên áp lực tăng vốn trong năm 2011 sẽ khiến các
ngân hàng khó khăn hơn rất nhiều bởi những các kênh tăng vốn của ngân hàng hiện đều
vướng. Thị trường chứng khoán thời gian này đã không còn là mảnh đất màu mỡ đối với
các ngân hàng trong việc huy động vốn. Cộng thêm với quy định về việc hạn chế các tập
đoàn, Tổng công ty Nhà nước đầu tư đa ngành, nhất là vào lĩnh vực tài chính, ngân hàng
hay quy định các TCTD chỉ được nắm tối đa 11% vốn điều lệ của các TCTD khác khiến
cho việc tìm vốn của các ngân hàng đã khó càng thêm khó.
Thứ hai, Áp lực về tỷ giá
Hiện có quá nhiều sức ép đặt ra đối với tiền VND. Không ít chuyên gia nước
ngoài cho rằng VND đang trong chu kỳ giảm giá. Tiền đồng mất giá làm cho chỉ số lạm
phát tồi tệ hơn và làm nguội thị trường chứng khoán. Năm 2010 vừa qua là một minh
chứng rõ ràng của tình trạng này. Chênh lệch tỷ giá trên thị trường chợ đen so với thị
trường chính thức năm quaTuy nhiên, áp lực của tỷ giá, của thị trường ngoại hối không
chỉ nằm ở mức giá của VND so với USD mà là ở chỗ chúng ta xử lý và điều hành như thế
nào. Điều quan trọng là phải có định hướng rõ rệt để các nhà đầu tư và người dân có thể
lường trước được. Bởi nếu chính sách không rõ ràng thì người dân do dự và họ sẽ có cách
tự bảo vệ bằng việc mua vàng hay đôla và khi đó, cơ hội hoạt động của các “tin đồn”
càng có đất phát triển. Đây là điều chính phủ cần giải quyết sớm bởi nếu không số người
tin vào đồng nội tệ sẽ càng giảm đi và vấn đề đô la hoá không thể xử lý được.
Thứ ba, Áp lực về lạm phát
Năm 2010, thế giới cơ bản đã chấm dứt khủng hoảng và bắt đầu tăng trưởng trở
lại. Nền kinh tế thế giới năm 2011 vẫn còn tiềm ẩn những rủi ro của thời kỳ hậu khủng
hoảng toàn cầu. Theo Báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới tháng 10/2010 của Quỹ tiền tệ
Quốc tế nhận định kinh tế thế giới đang hồi phục ở nhiều mức độ khác nhau và các nền
kinh tế lớn vẫn đang chậm chạp bò ra khỏi suy thoái. Báo cáo này cho rằng, tăng trưởng
kinh tế thế giới và tăng trưởng của hầu hết các nền kinh tế lớn trong năm 2011 đều thấp
hơn năm 2010. Các nền kinh tế Châu Á, song hành với tốc độ hồi phục và tăng trưởng
kinh tế khá nhanh, nhiều nước như Trung Quốc, Ấn Độ bắt đầu có động thái thắt chặt tiền
tệ nhằm đảm bảo mục tiêu tăng trưởng và kiềm chế lạm phát. Điều này sẽ có tác động

không thuận lợi đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam khi bức tranh kinh tế vĩ mô của Việt
nam còn chứa đựng nhiều bất ổn. Trong khi phần lớn thế giới lạm phát thấp hoặc giảm
phát thì Việt nam đang đối mặt với lạm phát (năm 2010 ở mức 11.75%), vì lẽ đó mức lãi
suất tiết kiệm và cho vay cũng đang đứng ở mức rất cao trong khi ở các trung tâm kinh tế
thế giới lãi suất dường như bằng không. Những nghịch lý này nếu không kịp thời điều
chỉnh và xử lý thì sẽ gây ra hậu quả tiêu cực đến sự phát triển lâu dài và bền vững.
Thứ tư, Áp lực từ các cam kết hội nhập
Theo cam kết WTO, từ ngày 1/1/2011, các ngân hàng 100% vốn nước ngoài sẽ
được thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ như ngân hàng Việt Nam. Điều đó cũng đồng nghĩa
với việc các ngân hàng Việt nam sẽ phải cạnh tranh một cách bình đẳng với các ngân
hàng nước ngoài không những có bề dày kinh nghiệm, có năng lực quản trị, có trình độ
công nghệ và nguồn vốn khổng lồ. Đây là một áp lực rất lớn đáng kể đối với các ngân
hàng “nội”. Lợi thế về mạng lưới và hiểu biết tâm lý khách hàng của các ngân hàng trong
nước sẽ giảm dần khi các ngân hàng nước ngoài thâm nhập ngày càng sâu vào thị trường
trong nước.
Áp lực và những khó khăn đòi hỏi những quyết sách chính xác của Chính phủ
trong năm mới 2011. Những gì đã đạt được trong năm 2010 sẽ là cơ sở để đưa nền kinh
tế Việt Nam bước vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm mới (2011 - 2015)
mộtacách vững vàng và hiệu quả./.
Thị trường tài chính Việt Nam đang trải qua những biến động lớn
Cùng với những biến động khó lường trên thị trường tài chính thế giới, thị trường
tài chính Việt Nam cũng có những phản ứng không thuận.
Giá vàng ngày 8.8 đã vọt qua mức 44 triệu đồng/lượng, gây không ít tâm lý bất an cho thị
trường và các nhà đầu tư trong nước.
TS Nguyễn Trí Hiếu, người đã có 32 năm làm việc trong ngành ngân hàng tại California
(Mỹ) đã có trao đổi xung quanh vấn đề này.
Với tư cách là một chuyên gia tài chính ngân hàng, ông đánh giá thế nào về mức xếp
hạng tín nhiệm của Mỹ bị đánh tụt?
Quyết định này của Standard & Poor’s gây ngạc nhiên trong thị trường tài chính, nhưng
với những người am hiểu thì đây là điều đã được dự báo trước. Sự kiện này có thể gây

bất ngờ, nhưng không quá “sốc” cho thị trường. Sự thỏa hiệp của Đảng Cộng hòa và
Đảng Dân chủ Mỹ về việc tăng trần nợ công chỉ là giải pháp chính trị tạm thời, chứ
không phải là giải pháp dài hạn.
Trên thực tế, các chỉ số vĩ mô (tỉ lệ thất nghiệp, việc làm ) cho thấy kinh tế Mỹ sẽ tiếp
tục đi vào trì trệ và suy thoái. Vì thế, triển vọng Mỹ vượt qua khủng hoảng và ổn định
kinh tế trong 12 tháng tới là thấp. Hậu quả của việc tụt hạng tín nhiệm là phản ứng tiêu
cực của TTCK. Chắc chắn ngày hôm nay (9.8), chúng ta sẽ nhìn thấy sự mất điểm của
S&P 500 kéo theo sự rớt điểm của sàn giao dịch chứng khoán toàn thế giới.
Sự kiện này tác động thế nào đến nền kinh tế toàn cầu, thưa ông? Đã có những dự báo
cho rằng, USD sớm muộn cũng sẽ bị thay thế bởi một đồng tiền khác trong giao thương
quốc tế. Ý kiến của ông thế nào?
Hậu quả trước tiên là chi phí huy động vốn của Chính phủ Mỹ sẽ tăng. Nhưng sẽ không
dừng ở đó, mà hậu quả sẽ còn ảnh hưởng đến cơ cấu của toàn bộ thị trường tài chính, làm
tăng mặt bằng lãi suất trên thị trường Mỹ.
Tuy nhiên, mức tăng cụ thể là bao nhiêu sẽ do TTCK định đoạt. Các quốc gia có dự trữ
ngoại hối lớn, phụ thuộc vào tài sản của Mỹ (Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ ) sẽ phải chịu
tác động tai hại là giá trị của những trái phiếu đó sẽ “bốc hơi” từng ngày.
Những NHTƯ đang ôm một đống trái phiếu sẽ thấy mất hàng tỉ USD trong nháy mắt và
đây là mối bận tâm của các NHTƯ đang nắm giữ lượng trái phiếu lớn.
Về lâu dài, hậu quả của nó sẽ là nghiêm trọng, nếu trong vòng 12 tháng tới nền kinh tế
của Mỹ đi vào suy thoái và không có hồi phục đáng kể. Mặc dù hiện nay việc giảm hệ số
tín nhiệm của trái phiếu Chính phủ Mỹ mới ảnh hưởng đến lãi suất trái phiếu, nhưng nó
sẽ ảnh hưởng đến đồng USD trên toàn thế giới. Có dự đoán cho rằng USD có nguy cơ bị
thay thế bởi đồng tiền khác (như CNY chẳng hạn).
Cá nhân tôi cho rằng, việc Mỹ có khả năng vỡ nợ là điều không thể xảy ra. Nước Mỹ có
khả năng tài chính lớn lao và vì thế, Chính phủ Mỹ sẽ tìm ra giải pháp để xử lý nợ cho
các con nợ trên thế giới, có thể là trả lãi trước.
Tôi cho rằng, khả năng USD bị thay thế bởi đồng tiền khác khó xảy ra trong 10 năm tới,
dù Trung Quốc và một số nền kinh tế khác đang nổi lên. Việc tìm kiếm một đồng tiền
khác có thể thanh toán các giao dịch thương mại dễ dàng, thuận tiện như USD là không

dễ trong thời gian gần
Việc giảm định mức tín nhiệm trái phiếu Chính phủ Mỹ có những tác động tiêu cực,
nhưng mặt khác, nó lại tạo ra những hiệu ứng tích cực. Nước Mỹ coi đó là tiếng chuông
cảnh tỉnh cho thấy đến lúc phải có sự thay đổi. Chính nợ công đã đưa nước Mỹ vào
những khó khăn lớn lao và lúc này cần thức tỉnh để có những giải pháp trung hạn và dài
hạn.
Đây cũng là lời cảnh tỉnh cho các quốc gia khác trên thế giới: Không nên xem USD là
nơi trú ẩn an toàn và dựa quá nhiều vào tài sản của người Mỹ.
Những tác động đó ảnh hưởng thế nào tới nền kinh tế Việt Nam? Với tư cách là một
chuyên gia, ông có lời khuyên nào cho các nhà đầu tư trong lúc này?
Tôi cho rằng, trong ngắn hạn Việt Nam ít chịu ảnh hưởng. Trong quá khứ chúng ta đã
thấy tỉ giá giao dịch VND và USD trong nước không thuận chiều so với biến động của
đồng tiền này trên thế giới, vì thế sự gắn kết, ràng buộc giữa USD và VND không rõ
ràng.
Nhưng về lâu dài, nếu các tổ chức xếp hạng tín dụng khác tiếp tục đánh tụt hạng đối với
trái phiếu Chính phủ Mỹ thì USD sẽ phải chịu tác động mạnh. Sự tương quan giữa VND
và USD vì thế khó thoát khỏi xu hướng chung.
Có một thực tế cho thấy là giá vàng đang ngày càng cao. Vàng, USD được xem là nơi trú
ẩn an toàn với nhà đầu tư VN. Nguyên nhân đẩy giá vàng tăng cao do các yếu tố cộng
hưởng: Giá vàng thế giới tăng cao, đồng USD yếu, tâm lý Giá vàng gần đây đã có xu
hướng tăng và xu hướng đó sẽ còn tiếp tục. Các TTCK mở cửa hôm nay đã có dấu hiệu
USD giảm, nên giá vàng tăng là đúng, không tăng mới là không bình thường.
Còn lời khuyên với nhà đầu tư, tôi cho rằng thị trường vàng đang trải qua những biến
động lớn. Giá vàng tăng rồi sẽ giảm, khó có thể giữ mức tăng thế này mãi. Thị trường
đang rất nhiều tin xấu. Nếu trong tương lai có tin tốt hơn thì giá vàng sẽ lại giảm và như
thế sẽ dẫn đến đầu tư vàng là rủi ro.
Nhưng trong rủi ro vẫn có cơ hội sinh lời, bởi không ai biết trước xu thế tăng sẽ còn kéo
dài trong bao lâu nữa. Thế nên, các nhà đầu tư không nên bỏ tất cả trứng vào một giỏ, mà
nên chia đầu tư của mình vào nhiều chỗ: Ngoại tệ khác, bất động sản
Trong khi thị trường suy giảm, vẫn có những phân khúc thị trường có khả năng sinh lời.

Tuy nhiên, quyết định cụ thể thế nào còn tuỳ thuộc vào sức chịu đựng và khả năng tài
chính của các nhà đầu tư KINH TẾ ĐẦU TƯ »
Việt Nam với bài toán thâm hụt ngân sách
Thứ Sáu, 08/05/2009, 17:16
SanOTC- Trong những năm vừa qua tình trạng thâm hụt ngân sách của Việt Nam
đang diễn biến một cách đáng lo ngại. Thâm hụt ngân sách của Việt Nam liên
tục tăng trong những năm gần đây và có khả năng sẽ lên đến đỉnh điểm trong
năm 2009 với mức thâm hụt được dự báo sẽ lên khoảng 8%.
Với mức thâm hụt được dự báo như trên Việt Nam đang bước vào một tình trạng nguy
hiểm bởi lẽ thâm hụt ngân sách cao sẽ đem lại nhiêu hệ lụy rất nghiêm trọng.

Để phân tích rõ hơn vấn đề này, cần một cái nhìn sâu hơn về nguyên nhân gây ra thâm
hụt ngân sách ở Việt Nam. Thông thường thâm hụt ngân sách đến từ việc thu ngân sách
không đủ bù đắp các khoản chi ngân sách. Chi ngân sách bao gồm chi thường xuyên, chi
đầu tư bao gồm đầu tư trongngân sách và đầu tư ngoài ngân sách, chủ yếu
qua SOEs (rất lớn).

Trong các năm trở lại đây nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã
đẩy mạnh đầu tư công lên mức rất cao chiếm một phần lớn đầu tư toàn xã hội. Điều này
góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng song cũng tạo nên nguy cơ tiềm tàng và gánh
nặng nợ nần cho các năm tiếp theo nếu các khoản đầu tư không hiệu quả. Có một số
chuyên gia kinh tế ủng hộ quan điểm để ngân sách không cân bằng chủ yếu dựa trên lập
luận cần nắm bắt cơ hội đầu tư do nền kinh tế tăng trưởng cao, lợi nhuận đủ cao để bù
đắp chi phí tài chính. Nếu Chính phủ càng trì hoãn đầu tư thì đầu tư càng trở nên tốn
kém do đó có lẽ nên chấp nhận không cân bằng ngân sách để tận dụng cơ hội đầu tư
với tỷlệ thu hồi vốn cao. Ngoài ra khi nền kinh tế tăng trưởng thì các khoản thu từ thuế
của Chính phủ sẽ tăng lên và do đó ngân sách sẽ cân bằng trở lại.

Tuy nhiên các nhà kinh tế đáng kính trên có lẽ đã quá phóng đại khả năng đem lại lợi
nhuận của các khoản đầu tư công và xem nhẹ các rủi ro tiềm ẩn. Không thể phủ định

hiệu quả đầu tư tại Việt Nam là cực thấp với lượng vốn đầu tư toàn xã hội đã lên đến trên
40% GDP nhưng tăng trưởng GDP đang chững lại. Hơn nữa kì vọng tăng thu ngân sách
trong tương lai của Việt Nam là rất khó thành hiện thực khi đặc biệt là khi các nguồn thu
ngân sách của Việt Nam này từ hàng hóa thô (nhu cầu vàgiá biến động bất thường). Bên
cạnh đó Chính phủ bảo lãnh cho các khoản vay tư nhân, thường liên
quan đến các khoản chi ngoài ngân sách dành cho khu vực công, thủ phạm hàng đầu là
SOEs điều này làm tăng nghĩa vụ nợ của Chính phủ và khi SOEs không trả được nợ
đúng hạn và đầy đủ Chính phủ sẽ phải bù từ ngân sách dẫn rủi ro ngân sách rất lớn.

Có thể thấy Việt Nam đã và đang trong một bài toán khó tìm lời giải khi tăng đầu tư
thuần túy nhằm phát triển kinh tế là một con đường cụt. Việt Nam đang đứng trước thách
thức lớn phải tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong những năm tới trong khi
khoản thâm hụt ngày một phình to.

Tài trợ thâm hụt ngân sách và những hệ lụy

Để tài trợ cho thâm hụt ngân sách Chính phủ đứng trước một vài lựa chọn cơ bản song
đều là những lựa chọn khó khăn

Vay bằng đồng nội tệ: Với lựa chọn này Chính phủ sẽ phát hành các loại trái phiếu chính
phủ trong nước nhằm thu được một khoản tiền để bù đắp các khoản chi. Tuy nhiên trong
bối cảnh của Việt Nam hiện nay điều này khó khả thi do mặt bằng lãi suất đã giảm mạnh
khiến cho trái phiếu chính phủ không còn hấp dẫn. Nếu tăng lãi suất huy động thì lại mâu
thuẫn với chính sách nới lỏng tiền tệ đang được thực thi. Ngoài ra việc vay nợ quá nhiều
sẽ khiến cho gánh nặng trả nợ trong các năm sau nếu thu ngân sách không tăng được.
Lúc đó Chính phủ buộc phải in tiền để trả nợ và điều này sẽ gây ra nguy cơ lạm phát rất
cao.

Vay bằng nước ngoài bằng ngoại tệ: các khoản vay nợ nước ngoài sẽ tránh cho nền kinh
tế nguy cơ lạm phát song lại gây ra rủi ro tỉ giá. Khi gánh nặng nợ nước ngoài tăng lên sẽ

gây ra áp lực cực lớn lên đồng nội tệ khiến nó có khả năng mất giá mạnh. Đồng nội tệ
mất giá sẽ lại tiếp tục làm gia tăng giá trị các khoản nợ nước ngoài và tạo ra nguy cơ mất
khả năng thanh toán. Khi đó dòng vốn đầu tư sẽ chảy khỏi quốc gia do sợ rủi ro về tỉ giá
và làm cán cân thanh toán mất cân bằng hơn. Khi cán cân thanh toán trở nên mất cân
bằng nghiêm trọng thị đồng nội tệ lại chịu áp lực giảm giá.

Sử dụng ngoại tệ dự trữ: Đây là một trong những giải pháp tương đối chu toàn vừa đảm
bảo ổn định tỷ giá vừa đảm bảo không gây ra lạm phát. Tuy nhiên đối với Việt Nam điều
này không khả thi cho lắm do dự trữ ngoại tệ quốc gia đang ở mức thấp và tình trạng mất
kiểm soát đối với thị trường ngoại tệ chợ đen còn nghiêm trọng. Thông tin nhà nước giảm
dự trữ ngoại tệ sẽ khiến cho tình trạng đầu cơ găm giữ ngoại tệ trở nên phổ biến và điều
này sẽ khiến cho những cố gắng ổn đỉnh tỷ giá hối đoái thêm khó khăn.

Vay ngân hàng nhà nước (in tiền): Đây có lẽ là biện pháp đơn giản nhất nhưng cũng nguy
hiểm nhất bởi lẽ nguy cơ gây lạm phát của nó. Có lẽ không cần phải nhắc lại thời điểm
kinh tế Việt Nam gặp vô vàn khó khăn do tác động lạm phát cao năm 2008.



(TBKTSG) - Thâm hụt ngân sách nhiều năm giữ ở mức trên 5% và đang có xu
hướng tăng, thậm chí có thể trên 10%. Thực tế này cho thấy khó có thể thực hiện
nghị quyết của Quốc hội về giảm dần bội chi ngân sách.
Thâm hụt thực còn cao hơn nhiều
Hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất về con số thâm hụt ngân sách ở Việt Nam. Các
chuyên gia tư vấn chính sách quốc tế của Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế
(IMF) cũng đã nhiều lần cảnh báo Chính phủ về tỷ lệ thâm hụt ngân sách quá cao và
không bền vững.
Con số thâm hụt thực cũng được đánh giá cao hơn nhiều so với con số do Chính phủ
công bố. IMF cho rằng thâm hụt ngân sách của Việt Nam năm 2009 lên đến 9%, Ngân
hàng Phát triển châu Á (ADB) cho là 9,8%, khác với con số 6,9% mà Việt Nam đưa ra.

Về vấn đề này, tuy Chính phủ chưa chính thức công nhận, nhưng các nhà hoạch định
chính sách tài khóa của Bộ Tài chính cũng đã cho biết có sự khác biệt trong cách tính bội
chi ngân sách của Việt Nam và thế giới.
Nhiều khoản thu, chi để ngoài bảng cân đối ngân sách như: huy động bằng trái phiếu
chính phủ lên đến hàng chục ngàn tỉ đồng chi cho giáo dục, y tế, thủy lợi, đầu tư cơ sở hạ

×