Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tên đề tài Chất thải rắn y tế TIỂU LUẬN QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮNý chất thải rắn GVHD Trần Thị Thanh Thuỷ TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT KHOA MÔI TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.85 KB, 26 trang )

Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT
KHOA MÔI TRƯỜNG
***
TIỂU LUẬN
QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN
Tên đề tài: Chất thải rắn y tế
GV hướng dẫn: Trần Thị Thanh Thuỷ
Sinh viên thực hiện: Đỗ Tuấn Anh
Phạm Văn Chương
Lê Duy Khánh
Trần Quang Dũng
Lớp: Địa Sinh Thái K53
Hà Nội, tháng 5 năm 2012
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 2
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong thời đại với sự phát triển không ngừng của nền
kinh tế thị trường. Khi trình độ kinh tế xã hội và dân trí của con người ngày
càng phát triển thì nhu cầu của con người về việc chăm sóc sức khỏe của mình
ngày càng được chú trọng một cách chu đáo hơn.
Cùng với tốc độ đô thị hoá nhanh, vấn đề quản lý chất thải rắn nói chung,
bao gồm chất thải rắn đô thị, công nghiệp và chất thải bệnh viện, đang là những
vấn đề nan giải trong công tác bảo vệ môi trường và sức khoẻ của nhân dân. Cả
nước có 605 đô thị, chiếm 0,35% diện tích đất tự nhiên, tập trung chủ yếu ở các
vùng đồng bằng và ven biển. Dân số đô thị là 19 triệu người, chiếm hơn 23%
dân số cả nước. Tỷ lệ tăng dân số đô thị là 4,2% năm, với mức tăng tuyệt đối là
0,5 triệu người năm.
Trong tổng lượng phát sinh chất thải rắn, chất thải rắn công nghiệp chiếm


tỷ trọng lớn nhất (54,8%). Tất cả các loại chất thải sinh hoạt, công nghiệp và y
tế thu gom được, đều chôn lấp lẫn lộn tại các bãi chôn chưa hợp vệ sinh. Năng
lực thu gom chất thải tính trung bình trong cả nước chỉ đạt 20-30% và lượng
chất thải không được thu gom đang là các yếu tố gây ô nhiễm môi trường tiềm
tàng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ của người dân.
Bên cạnh đó, hàng ngày các bệnh viện và cơ sở y tế khám và chữa bệnh
thải ra một lượng chất thải y tế khá lớn vì xu thế sử dụng các sản phẩm chỉ
dùng một lần. Trong chất thải rắn có rất nhiều loại nguy hiểm đối với môi
trường và con người. Do đó, vấn đề xử lý chất thải rắn y tế tại các bệnh viện
luôn là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Chất thải y tế là một trong những chất
thải nguy hại vào bậc nhất, việc xử lý các loại chất thải này rất phức tạp và gặp
rất nhiều khó khăn. Đây thực sự là mối quan tâm, lo lắng không chỉ với ngành
Y tế mà cả với người dân sống quanh khu vực bệnh viện. Nếu không có các
biện pháp quản lý hợp lý, xử lý không tốt thì đây sẽ là nguồn lây lan các mầm
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 3
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
bệnh, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, gây ra những vấn đề ô nhiễm
môi trường một cách nghiêm trọng.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, chúng ta cần giảm thiểu
lượng chất thải rắn và đưa ra các biện pháp hay hệ thống quản lý chất thải y tế
sao cho chi phí và hiệu quả và bảo vệ được môi trường, hướng tới một nền
kinh tế bền vững về mặt môi trường trên cơ sở một nền sản xuất sạch và một xã
hội tiêu dùng xanh.
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 4
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các khái niệm và định nghĩa chất thải rắn y tế:
1.1.1. Các khái niệm về quản lý chất thải rắn nguy hại ở Việt Nam:
Ngày 27 tháng 8 năm 1999, Bộ trưởng Bộ Y tế ra quyết định số

2575/1999/QĐ-BYT về việc ban hành Quy chế quản lý chất thải y tế, trong đó
quy định về định nghĩa chất thải y tế như sau:
Chất thải rắn (solid waste) Y tế là chất thải phát sinh trong các cơ sở y tế,
từ các hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc, xét nghiệm, phòng bệnh, nghiên
cứu, đào tạo. Chất thải y tế có thể ở dạng rắn, lỏng và dạng khí.
Chất thải nguy hại là chất thải có chứa các chất hoặc hợp chất có một
trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn
mòn, dễ lây nhiễm, và các đặc tính nguy hại khác), hoặc tương tác với các chất
khác gây nguy hại tới môi trường và sức khoẻ con người.
Chất thải y tế nguy hại là chất thải có một trong những thành phần như
sau: máu, dịch cơ thể, chất bài tiết, các bộ phận và cơ quan của người, động vật;
bơm kim tiêm và các vật sắc nhọn, dược phẩm, hoá chất và các chất phóng xạ
dùng trong y tế. Nếu những chất thải này không được tiêu huỷ sẽ gây nguy hại
cho môi trường và sức khoẻ con người.
1.1.2. Các khái niệm về quản lý chất thải rắn nguy hại trên Thế Giới:
Chất thải rắn: được Quốc hội Mỹ định nghĩa là "một chất thải rắn hay kết
hợp các chất thải rắn, có số lượng, nồng độ, hay các đặc tính lý, hoá hay lây
nhiễm có thể gây ra hoặc góp phần đáng kể làm tăng khả năng tử vong, hay làm
tăng bệnh tật nghiêm trọng không có khả năng chữa nổi; gây nguy cơ tiềm tàng
và lớn đến sức khoẻ con người hay môi trường, khi được xử lý, lưu giữ, chuyên
chở, hay tiêu huỷ hoặc quản lý không đúng quy cách" và thuật ngữ chất thải rắn
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 5
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
được Quốc hội Mỹ quy định để chỉ tất cả các loại chất thải ở thể rắn, lỏng và
khí.
Chất thải lây nhiễm, năm 1976, Quốc hội Mỹ đưa vào áp dụng từ "lây
nhiễm" để đặc trưng hoá loại chất thải nguy hiểm tiềm tàng. Cho đến 1988, Mỹ
vẫn sử dụng từ này để hướng dẫn "loại chất thải có khả năng tạo ra các bệnh
truyền nhiễm". Cho đến nay, thuật ngữ "chất thải y tế", bao gồm nhiều loại chất
thải chính thức được liệt vào các chất thải lây nhiễm nguy hiểm.

1.2. Tình hình phát sinh chất thải rắn y tế ở Việt Nam và thế giới:
1.2.1. Tình hình phát sinh chất thải rắn Y tế ở Việt Nam:
Theo thống kê, cả nước có 12.526 cơ sở khám chữa bệnh, trong đó có
847 bệnh viện với các quy mô khác nhau (theo các cấp quản lý hành chính như
trung ương, tỉnh và huyện).
Bảng 1.1. Lượng chất thải phát sinh ở Việt Nam
Tuyến bệnh viện Tổng lượng chất thải
Y tế (kg/giường
bệnh/ngày)
Chất thải Y tế nguy
hại (kg/giường
bệnh/ngày)
Trung ương 0,97 0,16
Tỉnh 0,88 0,14
Huyện 0,73 0,11
Chung 0,86 0,14
( Nguồn: BVMT trong các cơ sở Y tế, 2004)
Qua bảng 1.1chúng ta nhận thấy rằng ở những nơi tập trung nhiều dân cư
thì lượng chất thải Y tế thải ra là nhiều nhất do đó, cần tìm ra những biện pháp
nhằm quản lý hợp lý lượng rác thải thải ra hàng ngày một cách có hiệu quả
nhất.
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 6
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
Trung bình mỗi ngày các bệnh viện trên khắp cả nước thải ra một số
lượng các chất thải Y tế khoảng 240 tấn (Theo báo cáo tổng kết 2006 của Sở
Tài Nguyên Môi Trường). Lượng chất thải từ các bệnh viện chiếm 1,76% tổng
số chất thải của toàn thành phố (điều tra 36 bệnh viện trên địa bàn Hà Nội). Mỗi
ngày trung bình một giường bệnh thải ra khoảng 2,27kg rác, trong đó có tới
25% là rác thải nguy hại.
Hình 1: Chất thải y tế

Các chất thải y tế được sản sinh ra từ: các bệnh viện, các phòng khám đa
khoa, các phòng xét nghiệm và thí nghiệm, các khu điều dưỡng, ngân hàng
máu, nhà xác, trung tâm khám nghiệm tử thi, các cơ sở sản xuất dược phẩm,…
Các chất thải bệnh viện gồm: chất thải nhiễm khuẩn, những phần cơ thể
bị cắt bỏ và xác chết động vật, các vật sắc nhọn, hóa chất, dược phẩm hết hạn,
không dùng đến và bị nhiễm bẩn, vật liệu có hoạt tính phóng xạ, kim loại nặng,

1.2.2. Tình hình phát sinh chất thải rắn trên Thế giới:
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 7
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
Theo báo cáo của Uỷ ban nghiên cứu và bảo vệ môi trường Liên hợp
quốc, ngày nay lượng chất thải ngày càng gia tăng về số lượng và tính chất độc
hại, đặc biệt tại các khu vực nông thôn ngày càng gia tăng về số lượng và tính
chất độc hại, đặc biệt, tại các khu vực đông đúc dân cư, rác thải không được thu
gom và đây là một trong các ổ dịch gây bệnh nghiêm trọng.
Bảng 1: Lượng phát sinh ở trên Thế giới
Vùng Chất thải phát sinh hàng ngày
(kg/giường)
Bắc Mỹ 11,4 - 17
Tây Âu 5,2 – 7,3
Việt Nam 1,2 – 2,5
Đông Á 3 – 4,8
Đông Âu 1,8 – 4,2
Kuwait 3,87 – 7,44
Sawdi Kbabia 1,7 – 2,4
Iran 6,4 – 11,3
Turkey 3,42 – 4,2
Nhật Bản 2,3 – 3,9
Ấn Độ 1,2 – 2,7
Thái Lan 0,89 – 1,26

Bangldesd 1,6 – 2,3
Pháp 3,8 – 4,6
Qua bảng 1.2 cho chúng ta thấy ở những vùng có nền kinh tế phát triển,
mức sống của người dân cao do ý thức bảo vệ sức khỏe của mình nên thường
có lượng chất thải phát sinh cao. Tùy từng điều kiện kinh tế - xã hội và mức độ
phát triển khoa học công nghệ kĩ thuật của từng nước mà mỗi nước có lượng
chất thải phát sinh riêng.
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 8
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
1.3. Thành phần và tính chất của chất thải rắn y tế:
Theo phân loại và xác định chất thải (Quy chế quản lý chất thải Y tế, Bộ
Y tế, 1999), đã phân thành 5 loại chất thải trong các cơ sở Y tế như sau:
- Chất thải lâm sàng
- Chất thải phóng xạ
- Chất thải hóa học
- Các bình chứa khí có áp suất
- Chất thải sinh hoạt
 Nhóm chất thải lâm sàng: được Bộ Y tế phân thành 5 nhóm loại chất
thải, trong đó:
- Nhóm A: tất cả các chất thải nhiễm khuẩn, bao gồm: những vật liệu
thấm máu, thấm dịch, các chất bài tiết của người như: bông, gạc, băng, dây
truyền máu, các ống thông, dây và túi dung dịch dẫn lưu,…
- Nhóm B: tất cả các vật sắc nhọn, bao gồm: bơm tiêm, kim tiêm, lưỡi và
cán dao mổ, đinh mổ, cưa, các ống tiêm, mảnh thuỷ tinh vỡ và mọi vật liệu có
thể gây ra các vết cắt hoặc chọc thủng, cho dù chúng có thể bị nhiễm khuẩn
hoặc không nhiễm khuẩn.
- Nhóm C: là chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao, phát sinh từ các phòng
xét nghiệm, bao gồm găng tay, lam kính, ống nghiệm, bệnh phẩm sau khi sinh
thiết/ xét nghiệm/nuôi cấy, túi đựng máu, v.v
- Nhóm D:là chất thải dược phẩm, bao gồm: dược phẩm quá hạn, dược

phẩm bị nhiễm khuẩn, dược phẩm bị đổ, dựoc phẩm không còn nhu cầu sử
dụng; thuốc gây độc tế bào.
- Nhóm E: là các mô và cơ quan người- động vật, bao gồm tất cả các mô
cơ thể (dù nhiễm khuẩn hoặc không nhiễm khuẩn), các cơ quan, chân tay, rau
thai, bào thai, xác súc vật.
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 9
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
 Nhóm chất thải phóng xạ: tại các cơ sở Y tế, chất thải phóng xạ phát sinh
từ các hoạt động chuẩn đoán, hóa trị liệu và nghiên cứu. Chất thải phóng xạ bao
gồm: chất thải rắn, lỏng, khí.
- Chất thải phóng xạ rắn gồm các vật liệu sử dụng trong các xét nghiệm,
chẩn đoán, điều trị như ống tiêm, bơm tiêm, kim tiêm, kính bảo hộ, giấy thấm,
gạc sát khuẩn, ống nghiệm, chai lọ đựng chất phóng xạ, v.v
- Chất thải phóng xạ lỏng gồm: dung dịch có chứa nhân phóng xạ, phát
sinh trong quá trình chẩn đoán, điều trị như nước tiểu của người bệnh, các chất
bài tiết, nước xúc rửa các dụng cụ có chứa phóng xạ, v.v
- Chất thải phóng xạ khí gồm: các chất khí dùng trong lâm sàng như: các
khí thoát ra từ các kho chứa chất phóng xạ,v.v
 Nhóm chất thải hóa học: bao gồm các chất thải rắn, lỏng và khí. Chất thải
hoá học trong các cơ sở y tế được phân thành 2 loại:
- Chất thải hoá học không gây nguy hại, như đường, a-xít béo, một số
muối vô cơ và hữu cơ.
- Chất thải hoá học nguy hại bao gồm:
+ Formaldehyde: được sử dụng trong khoa giải phẫu bệnh, lọc máu, ướp
xác và dùng để bảo quản các mẫu xét nghiệm ở một số khoa khác.
+ Các hoá chất quang hoá học: có trong các dung dịch dùng cố định và
tráng phim.
+ Các dung môi. Các dung môi dùng trong cơ sở y tế bao gồm: các hợp
chất halogen, như methylene chloride, chlorofom, fréon, trichloroethylene, các
thuốc mê bốc hơi như halothane, các hợp chất không có halogen, như xylene,

acetone, isopropanol, toluen, ethyl acetate và acetonitrile.
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 10
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
+ Oxit ethylene- oxit ethylene được sử dụng để tiệt khuẩn các thiết bị y
tế, phòng phẫu thuật nên được đóng thành bình và gắn với thiết bị tiệt khuẩn.
Loại khí này có thể gây ra nhiều độc tính và có thể gây ra ung thư ở người.
+ Các chất hóa học hỗn hợp, bao gồm: các dung dịch làm sạch và khử
khuẩn, như phenol, dầu mỡ và các dung môi làm vệ sinh, v.v
 Nhóm các bình chứa khí có áp suất: như bình đựng oxy, CO
2
, bình ga,
bình khí dung và các bình đựng khí dùng một lần. Các bình này dễ gây cháy, nổ
khi thiêu đốt vì vậy phải thu gom riêng.
 Nhóm chất thải sinh hoạt: bao gồm:
- Chất thải không bị nhiễm các yếu tố nguy hại, phát sinh từ các buồng
bệnh, phòng làm việc, hành lang, các bộ phận cung ứng, nhà kho, nhà giặt, nhà
ăn, bao gồm: giấy báo, tài liệu, vật liệu đóng gói, thùng cát tông, túi nilon, túi
đựng phim, vật liệu gói thực phẩm, thức ăn dư thừa của người bệnh, hoa và rác
quét dọn từ các sàn nhà.
- Chất thải ngoại cảnh: lá cây và rác từ các khu vực ngoại cảnh
Tính chất của các chất thải Y tế nguy hại là: rất độc, dễ ăn mòn, dễ cháy,
dễ nổ, gây độc tới gen, lây nhiễm (HIV/ASD, viêm gan,…),…
1.4. Những ảnh hưởng của chất thải rắn y tế đến môi trường và
sức khoẻ:
Do thành phần và tính chất của các chất thải rắn Y tế rất phức tạp nên
việc lây nhiễm các loại bệnh là không thể tránh khỏi nếu không có các biện
pháp quản lý đúng đắn và hợp lý thì khả năng lây nhiễm sẽ rất cao. Trong rác
thải bệnh viện những chất nguy hiểm có nguy cơ lây nhiễm, truyền bệnh và độc
hại, Ở nước ta do có khí hậu nóng ẩm nên khả năng phát sinh ra những ổ dịch
bệnh lại càng cực kì nguy hiểm hơn. Ví dụ như bệnh tả, kiết lị, sốt xuất huyết,


Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 11
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
Những nhóm người:
+ Bác sĩ.
+ Nha sĩ.
+ Điều dưỡng.
+ Các nhà trị liệu.
+ Y tá.
+ Hộ lý
+ Nhân viên xét nghiệm.
+ Cán bộ kĩ thuật (ví dụ như nhân viên Xquang,…)
+ Nhân viên thu gom chất thải ( trong bệnh viện, các cơ sở Y tế, nhân
viên vận chuyển, nhân viên xử lý ở khâu cuối,…).
+ Những người bới rác.
+ Môi trường.
Do những nhóm người này thường xuyên tiếp xúc với các dụng cụ y tế,
các chất thải nhiễm khuẩn, chất thải dược phẩm, chất thải phóng xạ phát sinh từ
các hoạt động chuẩn đoán, hóa trị liệu và nghiên cứu, ….nên họ có nguy cơ
mắc các bệnh về viêm nhiễm đường ruột, các bệnh viêm nhiễm về đường hô
hấp, viêm nhiễm qua truyền máu, viêm nhiễm da do bị xước, đứt tay chân hay
bị tổn thương, ảnh hưởng phóng xa,…là cao nhất.
Trước đây, có một thời người dân quanh vùng bệnh viện Việt Đức (Hà
Nội) phải chịu đựng những thứ mùi rất kinh khủng, khét lẹt mỗi khi bệnh viện
đốt rác. Những bãi rác bệnh viện thường xuyên tạo mùi hôi thối, thu hút ruồi
nhặng,…gây ô nhiễm cho không khí, nước ngầm, nước mặt,…ảnh hưởng
không nhỏ đến cuộc sống của nhân dân quanh vùng.
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 12
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
Theo báo An ninh thế giới “môi trường xung quanh của bệnh viện Lao

của thành phố Thái Nguyên bị ô nhiễm nặng tới mức…bầy dê của viện chăn thả
ở đây cũng bị nhiễm lao như người, chúng ho sù sụ, gầy gò, không lớn được và
chết dần. Vấn đề bức xúc về rác thải bệnh viện càng đòi hỏi Nhà nước và các
bệnh viện phải có các biện pháp giải quyết ngay, không chậm trễ.
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 13
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
CHƯƠNG 2
MÔ HÌNH QUẢN LÝ, THU GOM, XỬ LÝ CHẤT THẢI
RẮN Y TẾ
2.1. Những vấn đề chung:
Tùy từng điều kiện kinh tế xã hội và mức độ phát triển khoa học kỹ thuật
cùng với nhận thức về quản lý chất thải mà mỗi nước có những cách xử lý chất
thải của riêng mình.
Lượng chất thải rắn Y tế phát sinh trên phạm vi toàn quốc theo ước tính
của Bộ Y tế năm 2001 là khoảng 12.500 tấn/ năm. Số liệu điều tra của Bộ Y
cho thấy, hiện nay có khoảng 61 lò đốt chất thải Y tế được lắp đặt trên toàn
quốc. Tính đến tháng 6/2002, tổng công suất xử lý của các lò đốt chất thải y tế
đạt khoảng 30 tấn/ngày. Tuy nhiên, do chưa phối hợp tốt trong các khâu thu
gom, vận chuyển, xử lý, nên một số các lò đốt này không vận hành hết công
suất và thời gian trong ngày. Trong khi đó, các cơ sỏ y tế khác lại chưa được
trang bị lò đốt chất thải y tế, vì vậy gây nên sự lãng phí do không tận dụng hết
công suất của lò đốt chất thải y tế hiện có. Tại nhiều cơ sở y tế, chất thải y tế
vẫn để lẫn với các loại chất thải khác và được chôn lấp đơn giản tại các bãi
chôn lấp chất thải sinh hoạt. Hiện tại, với sự tài trợ của chính phủ Pháp, Bộ y tế
đang xây dựng một đề án quy hoạch tổng thể về quản lý chất thải y tế.
Qua số liệu thống kê về tình hình xử lý chất thải rắn của một số nước trên
thế giới cho thấy rằng, Nhật Bản là nước sử dụng phương pháp thu hồi chất thải
rắn với hiệu quả cao nhất (38%), sau đó đến Thụy Sỹ (33%), trong đó Pháp sử
dụng phương pháp xử lý vi sinh nhiều nhất (30%),…các nước sử dụng phương
pháp chôn lấp hợp vệ sinh nhiều nhất trong việc quản lý chất thải rắn là Phần

Lan (84%), Thái Lan (84%), Anh (83%),…Dưới đây là những mô tả tổng quan
về tình hình quản lý chất thải rắn nguy hại ở Việt Nam và một số nước trên Thế
giới.
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 14
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
2.2. Tình hình quản lý, thu gom, xử lý chất thải rắn Y tế ở Việt
Nam và Thế Giới
2.2.1 Tình hình quản lý, thu gom, xử lý chất thải rắn ở Việt Nam
Quản lý chất thải Y tế nguy hại (Quy chế quản lý chất thải rắn Y tế, Bộ Y
tế) được định nghĩa như sau: là các hoạt động kiểm soát chất thải nguy hại
trong suốt quá trình từ khi chất thải phát sinh đến xử lý ban đầu, thu gom, vận
chuyển, lưu giữ và tiêu hủy chất thải Y tế nguy hại.
Việc quản lý các chất thải nguy hại có ý nghĩa cực kì quan trọng. Mỗi
công đoạn đều có thể xảy ra các rủi ro và đều đòi hỏi kinh phí để hoạt động. Do đó,
công tác quản lý đòi hỏi phải phân tích và kiểm soát một cách chủ động từ khâu
phát sinh chất thải cho đến khâu tiêu huỷ cuối cùng. Các chất thải nguy hại thường
phát sinh từ các nguồn thải khác nhau, do đó cần phải xử lý và thải bỏ theo một
trình tự nhât định.
Việc thu gom chất thải rắn nguy hại từ các nguồn khác nhau tùy thuộc vào
điều kiện, khả năng cụ thể của nguồn thải. Rác thải nguy hại trước khi xử lý phải
được phân loại để giảm chi phí cho vấn đề xử lý tiếp theo.
Hình 2: Cần phân loại chất thải y tế ngay tại nguồn phát sinh
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 15
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
Công tác phân loại chất thải rắn Y tế tại nguồn chưa được thực hiện hoặc
thực hiện chưa tốt. Trong đó, có 81,25% bệnh viện thực hiện phân loại chất thải
nhưng còn phiến diện, chưa theo chuẩn mực và kém hiệu quả do nhân viên chưa
được đào tạo; 45% bệnh viện chưa tách riêng các vật sắc nhọn ra khỏi chất thải rắn
Y tế; 11,4% bệnh viện có vật sắc nhọn chưa được thu gom vào các hộp đựng theo
đúng tiêu chuẩn quy định.

Về lưu trữ chất thải trong bệnh viện: hầu hết các chất thải trong bệnh viện
được tập trung trong các khu đất trong bệnh viện, không có mái che, không có hàng
rào bảo vệ, việc thiêu hủy còn rất sơ sài,…
Phần lớn hơn 310 phòng khám tư nhân trong thành phố chưa chịu trách
nhiệm đối với rác thải của mình, chưa thực hiện đúng quy trình thu gom,
chuyển giao rác y tế cho công nhân vận chuyển rác (số liệu theo Bộ Tài nguyên
Môi Trường, Báo cáo tổng kết 2006).
Ở những nơi có điều kiện, chất thải nguy hiểm cần được xử lý trước khi
đem tiêu huỷ cuối cùng, nhằm giảm thiểu hoặc triệt tiêu nguy cơ của chất thải
nguy hiểm. Do đặc tính khác nhau giữa các loại chất thải, cho nên không thể xử
lý như nhau.
Tình hình thu gom rác thải trong bệnh viện hiện nay là không hoàn toàn.
85% rác thải y tế là chất thải sinh hoạt, tương tự như chất thải sinh hoạt của hộ
gia đình không cần phải xử lý đặc biệt. Còn lại 25% là rác thải nguy hại cần
được xử lý. Lượng chất thải y tế do hệ thống bệnh viện thải ra mỗi ngày lên đến
200.000 tấn rác sinh hoạt và 30.000 tấn rác thải nguy hại. Quy chế quản lý chất
thải y tế hiện hành không đề cập đến việc cho phép hay cấm bán chất thải. Gần
đây, khi tại một số bệnh viện lớn bị phát hiện có một số cá nhân đứng ra bán
chất thải y tế, Bộ Y tế đã có văn bản yêu cầu cấm mua bán, cho tặng chất thải y
tế nguy hại.
Chất thải tái chế khi đã ở nhiệt độ cao thì thành phẩm không gây hại cho
sức khỏe. Điều nguy hiểm là, nếu chất thải đó chưa được xử lý an toàn thì
người tiếp xúc trực tiếp (trong quá trình vận chuyển, súc rửa) sẽ chịu ảnh
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 16
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
hưởng. Vì vậy, yêu cầu hàng đầu là chất thải bệnh viện phải được phân loại và
xử lý nghiêm ngặt.
2.2.2.Tình hình quản lý, thu gom, xử lý chất thải rắn Y tế ở trên Thế giới:
- Ở Pháp: các chất thải nguy hại chỉ được thiêu hủy khoảng 40%, số còn
lại chưa được xử lý hợp vệ sinh. Hiện nay hàng năm có khoảng 20 triệu tấn

chất thải không được xử lý đã chất đống ở những nơi hoang vu và không người
khai thác. Ngoài ra do phí lưu giữ chất thải ở Pháp khá rẻ nên các nước láng
giềng đã không do dự mang chất thải của quốc gia mình sang đổ ở các bãi chất
thải tại Pháp.
- Ở Hà Lan: việc xử lý chất thải của Hà Lan được sự tham gia tổng lực
của chính quyền , xã hội cũng như các cơ quan chuyên ngành. Chất thải nguy
hại được xử lý bằng nhiều cách khác nhau, trong đó phần lớn được thiêu hủy,
một phần được tái chế. Trước đây, Hà Lan tiến hành thiêu hủy chất thải nguy
hại ở ngoài biển. Hàng năm, Hà Lan có tới hơn 20 triệu tấn chất thải, 60% trong
số này được đổ ở các bãi chứa, phần còn lại được đưa vào các lò thiêu hủy hoặc
tái chế. Để bảo vệ Môi Trường, chính phủ Hà Lan đã đề ra mục tiêu giảm chất
thải hàng năm để giảm chi phí xử lý. Công nghệ xử lý chất thải nguy hại chủ
yếu được áp dụng là thiêu hủy, nhiệt năng do các lò thiêu hủy sinh ra sẽ được
hòa nhập vào mạng lưới năng lượng chung của đất nước. Việc thiêu hủy chất
thải nguy hại được tiến hành ở những lò đốt hiện đại với kĩ thuật mới nhất, hoặc
việc tổ chức sản xuất được ứng dụng những quy trình đặc biệt nhằm tạo ra
nguồn nguyên liệu mới, thuận lợi cho công việc chế biến.
- Ở Hồng Kông: cơ sở xử lý chất thải nguy hại tập trung được xây dựng
từ năm 1987 đến năm 1993. Với hệ thống thu gom vận chuyển và thiết bị xử lý
hiện đại, công nghệ chủ yếu là xử lý nhiệt và xử lý hóa/ lý đã xử lý được hầu
hết lượng chất thải nguy hại tại Hồng Kông. Tại đây người ta cũng đã tiến hành
nghiên cứu và đề xuất quy chế chung về sự tiêu hủy chất thải, đặc biệt là chất
thải hóa học. nhờ hệ thống nghiền nhỏ để chôn lấp, hệ thống kiểm soát việc
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 17
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
chôn lấp, kiểm soát nơi thu gom, vận chuyển xử lý và tiêu hủy chất thải, nhất là
chất thải rắn nguy hại đã góp phần nâng cao chất lượng quản lý ở Hồng Kông.
2.3. Các phương pháp xử lý chất thải rắn:
Phát sinh chất thải
Thu gom, phân loại và lưu giữ tại nguồn

Tập trung
Truyền tải và vận chuyển Tách, xử lý và tái chế
Tiêu hủy
Sơ đồ: Nguyên tắc chung của công nghệ xử lý chất thải nguy hại
Hiện nay, về cơ bản có 3 phương pháp xử lý chất thải rắn:
- Phương pháp chôn lấp.
- Phương pháp thiêu hủy.
- Phương pháp xử lý bằng công nghệ sinh học.
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 18
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
2.3.1. Phương pháp chôn lấp:
Chất thải nguy hại trước khi chôn lấp phải được xử lý nhằm giảm tối đa
khả năng rò rỉ các chất ô nhiễm vào môi trường hoặc khi hệ thống bảo đảm an
toàn của bãi chôn lấp bị trục trặc. Các giải pháp quản lý và kĩ thuật này bao
gồm:
- giảm khối lượng chất thải tại nguồn.
- Xử lý các hợp chất hữu cơ dễ bị phân hủy bằng phương pháp sinh học.
- Xử lý bằng nhiệt để phá hủy chất thải hữu cơ.
Hình 3: Ô chôn lấp chất thải
• Phương pháp chôn lấp hoàn toàn
Đối với các loại rác thải sinh hoạt, công nghệ ít độc hại thường được thu
gom, vận chuyển, chuyển đến các bãi chứa sau đó được chôn lấp đi. Đây là
phương pháp đơn giản nhất, rẻ tiền nhưng không vệ sinh dễ gây ô nhiễm các
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 19
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
nguồn nước ngầm và tốn diện tích đất chứa bãi rác. Phương pháp này chỉ phù
hợp với những nước kém phát triển, kinh tế còn khó khăn.
Đối với các chất thải độc hại thì đáy bãi chôn lấp phải được xử lý đầm
nén hoặc trãi tấm lót polymer đặc biệt, sao cho chất thải được chôn lấp hoàn
toàn cách ly với môi trường bên ngoài. Với cách này khá tốn kém.

• Phương pháp chôn lấp có xử lý
Rác thải thu gom về được phân ra làm 2 loại: rác vô cơ và rác hữu cơ.
Đối với rác vô cơ được đem đi chôn lấp, còn rác hữu cơ được nghiền ủ làm
phân bón.
2.3.2. Phương pháp thiêu hủy:
Chất thải rắn nguy hại được xử lý bằng quá trình đốt thông qua sự nhiệt
phân. Đốt là một quá trình oxy hóa chất thải rắn nguy hại ở nhiệt độ rất cao. Để
quá trình phân hủy bằng nhiệt đạt hiệu quả cao thì ngoài yếu tố oxi tự nhiên còn
cần thời gian đủ lâu để khí thải sinh ra được duy trì cho quá trình cháy hoàn
toàn, nhiệt độ phải đủ cao, quá trình xoáy trộn lẫn tốt.
Đây là quy trình xử lý cuối cùng ứng dụng cho một số chất thải không
thể tái chế, tái sử dụng hay dự trữ an toàn trong bãi chôn lấp. Phần tro sau khi
đốt được chôn lấp.
Hình 4: Lò đốt chất thải rắn y tế
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 20
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
Đốt chất thải nguy hại được sử dụng như một biện pháp xử lý để giảm
tính độc, thu hồi năng lượng và có thể xử lý một khối lượng lớn chất thải. Nhìn
chung dùng lò thiêu hủy là phương pháp sạch nhưng chi phí cao.
Phương pháp thiêu đốt chỉ sử dụng khi chất thải là chất độc sinh học,
không bị phân hủy sinh học và bền vững trong môi trường.
Các công nghệ hiện nay thường được sử dụng để đốt chất thải nguy hại
là:
Bảng 2: Tổng hợp các công nghệ thường sử dụng đốt chất thải nguy hại
Loại công
nghệ
Nguyên lý quá
trình
Khu vực áp
dụng

Nhiệt độ
đốt (
0
C)
Thời gian
lưu
Lò đốt thùng
quay
Chất thải nguy hại
được đốt trong ống
trụ gạch chịu nhiệt
quay.
Đốt bất cứ
loại chất
thải nguy
hại nào.
650 – 1370 Vài giờ
Lò đốt một
buồng đứng
Chất thải nguy hại
được phân nhỏ bằng
khí nén hoặc hơi áp
suất cao và bọ cháy
ở trạng thái lơ lửng.
Chất thải
nguy hại ở
dạng bùn có
thể bơm
được.
700 – 1650 0,1 – 1 giây

Lò đốt nhiều
tầng
Chất thải nguy hại
được đốt ở chế độ
nhiệt tăng dần.
Bùn và các
chất thải
nguy hại ở
dạng đã
viên.
760 – 980 Vài giờ
Lò đốt tầng
sôi
Chất thải nguy hại
được phun vào
trong lớp sôi đã
được đốt nóng.
Chất thải
nguy hại rắn
dạng viên.
760 – 1100 Vài phút
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 21
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
Qua bảng 2.1 cho chúng ta thấy, thời gian lưu của các chất thải trong lò
đủ để đốt cháy đối với pha khí ít nhất là 2 giây, còn với pha rắn thì phải trong
một vài giờ tùy theo kích thước chất thải.
Có 3 phương pháp thiêu đốt:
- Thiêu đốt tại lò đốt tập trung.
Ưu điểm: làm giảm tối đa những tác động nguy hại của rác thải đối với
môi trường và sức khỏe cộng đồng.

Nhược điểm: gặp khó khăn về việc lựa chọn vị trí, thiết bị vận chuyển và
kho tạm chứa chất thải nguy hại.
- Thiêu đốt tai chỗ.
Ưu điểm: giảm chi phí vận chuyển.
Nhược điểm: các cơ sở có lò đốt thường nằm lẫn với các khu dân cư nên
việc xây dựng sẽ gây ô nhiễm không khí trong khu vực. Bên cạnh đó nếu đốt
không đúng theo quy định kĩ thuật rất dễ gây ra các tác động xấu.
- Thiêu đốt trong lò xi măng.
Ưu điểm: thiêu đốt trong lò xi măng là chất cặn sau thiêu đốt được sử
dụng làm nguyên liệu cho xi măng, tiết kiệm được nguồn tài nguyên.
Nhược điểm: phải tốn một khoản tiền cho việc xử lý trước khi đưa chất
thải vào đốt.
2.3.3. Phương pháp sinh học:
- Nuôi giun đất (nuôi tự nhiên và nuôi công nghiệp).
Nuôi tự nhiên: rải một lớp bùn cống lên vùng đất cần cải tạo và thả giun
xuống. Dưới tác dụng của giun đất sẽ tạo ra một lớp đất tơi xốp giàu chất hữu
cơ.
Nuôi công nghiệp: làm giàn nuôi giun trong đó có nhiều giàn. Thả giống
giun trên nền phế thải hữu cơ, tạo điều kiện môi trường (pH, độ ẩm, nhiệt độ,
không khí,…)thích hợp, bổ sung thêm thức ăn cho giun.
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 22
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
- Phương pháp phân hủy vi sinh: có nhiều loại vi sinh vật có khả năng
phân hủy các chất hữu cơ phức tạp thành các hợp chất đơn giản thông qua việc
ủ hảo khí với men vi sinh công nghiệp.
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 23
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn phát triển hiện nay lượng rác thải ngày càng thải ra
nhiều làm cho môi trường bị ô nhiễm trầm trọng. Công tác lập báo cáo đánh giá

tác động môi trường các bệnh viện chưa được quan tâm đúng mức. Hồ sơ kỹ
thuật, quy trình vận hành các hệ thống, thiết bị xử lý chất thải chưa được
chuyển giao, huấn luyện đối với các bệnh viện xây mới hoặc nâng cấp. Công
tác kiểm tra việc quản lý chất thải y tế, bảo vệ môi trường tại các bệnh viện, cơ
sở y tế còn bị buông lỏng, thiếu quan tâm.
Việc xử lý chất thải y tế, bảo vệ môi trường tại các bệnh viện còn nhiều
khó khăn, bất cập. Đặc biệt tình trạng xử lý chất thải lỏng nguy hại hiện nay ở
các bệnh viện là đáng báo động, nguy cơ lây nhiễm, ảnh hưởng môi trường
sống rất cao.Việc phân loại chất thải rắn y tế còn chưa đúng quy định, còn lẫn
vào chất thải sinh hoạt. Phương tiện thu gom như túi, thùng đựng chất thải còn
thiếu và chưa đồng bộ, hầu hết chưa đạt tiêu chuẩn, vật sắc nhọn chưa được cô
lập an toàn. Không có phương tiện vận chuyển riêng biệt, chuyên dụng, nơi lưu
giữ không bảo đảm vệ sinh, có nhiều nguy cơ gây rủi ro do vật sắc nhọn rơi vãi,
nhiều côn trùng xâm nhập. Nơi tập trung chất thải không có mái che, rào bảo
vệ. Rác thải sinh hoạt tại các bệnh viện huyện cũng chưa được xử lý một cách
triệt để.
Kinh phí đầu tư cho các hệ thống xử lý chất thải y tế nói riêng, công tác
quản lý chất thải y tế, bảo vệ môi trường nói chung tại bệnh viện, cơ sở y tế còn
thiếu nhiều, chưa tương xứng với nhiệm vụ quản lý chất thải y tế, bảo vệ môi
trường theo quy định của pháp luật. Dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý rác
thải y tế, rác thải sinh hoạt tại nhiều huyện còn nhiều khó khăn.
Kiến nghị:
- Cần tăng cường thực hiện các hoạt động thu gom, xử lý chất thải, đặc
biệt là việc thu gom và xử lý các chất thải nguy hại. Bên cạnh đó, công tác quản
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 24
Tiểu luận Quản lý chất thải rắn GVHD: Trần Thị Thanh Thuỷ
lý và bảo vệ môi trường phải hướng đến các mục tiêu cụ thể như: không ngừng
cải thiện và bảo vệ môi trường, nhằm nâng cao chất lượng và sức khỏe của
nhân dân, đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước,…
- Ban hành quy chế quản lý chất thải Y tế, thành lập các đội giám sát và

phân công từng người trong đội giám sát, giám sát các khoa, các phòng trong
việc thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải.
- Quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cho cán bộ, nhân
viên phụ trách quản lý chất thải y tế, bảo vệ môi trường trong các bệnh viện, cơ
sở y tế. Xem xét việc phân bổ và sử dụng kinh phí xử lý chất thải y tế tại các
bệnh viện, bảo đảm cân đối đủ và phù hợp với thực tế tại từng bệnh viện ngoài
định mức khoán kinh phí hàng năm. Phối hợp tốt với Sở Tài nguyên và Môi
trường trong việc lập kế hoạch, phân bổ, sử dụng kinh phí sự nghiệp môi
trường; thanh tra, kiểm tra việc quản lý chất thải y tế, bảo vệ môi trường trong
các bệnh viện, cơ sở y tế. Cần chỉ đạo công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Nhóm SVTH: Tuấn Anh - Chương - Khánh - Dũng Trang 25

×