Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Truyện ngắn chiến tranh của Ernest Hemingway

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.62 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP
. HỒ CHÍ MINH
--------------------

--------------------


Nguyễn Tiến Dũng





TRUYỆN NGẮN CHIẾN TRANH
CỦA ERNEST HEMINGWAY



Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 60 22 30



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS. ĐÀO NGỌC CHƯƠNG









Thành phố Hồ Chí Minh - 2008

Lời cảm ơn

Tôi xin chân thành cảm ơn:
Thầy giáo hướng dẫn, Tiến só Đào Ngọc Chương
Giáo sư Lưu Đức Trung, Phó Giáo sư Lương Duy Trung
Các thầy cô Tổ Văn học nước ngoài, các thầy cô Khoa Ngữ văn
Phòng Sau Đại học & CN Trường Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh
Anh Nguyễn Hồng Vỹ
Gia đình và bạn bè
đã tận tình giúp đỡ, góp ý, bổ sung cho tôi hoàn thành luận văn này.

Gia Lai, ngày 31 tháng 8 năm 2008
Người viết luận văn:

Nguyễn Tiến Dũng
Lớp Cao học Văn học nước ngoài K 16




PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Một ghi chú của Gail Calwel trong một quyển sách nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh E.
Hemingway do thư viện Kennedy tổ chức ngày 10 & 11 tháng 4 năm 1999 có đoạn:
“Hemingway ở đỉnh cao của làn sóng thời đại. Đó là sự nổi loạn chống lại thứ văn xuôi thượng
lưu Anh đạo đức giả và nói quá sự thật.”
Thực vậy, sáng tác của E. Hemingway nói chung và truyện ngắn chiến tranh của ông nói
riêng đã khẳng định điều đó.
Sự nghiệp văn học của E. Hem
ingway được kể đến hơn tám mươi bài thơ, năm vở kịch,
mười hai tiểu thuyết và hơn một trăm truyện ngắn với nhiều đề tài khác nhau. Đó là một gia tài
văn học không nhỏ của một nhà văn gần 40 năm cầm bút và lăn lộn khắp các chiến trường. Các
nhà nghiên cứu thế giới và Việt Nam đã dành nhiều tâm huyết để tìm
tịi, nghin cứu các sáng tác
của E. Hemingway trên nhiều khía cạnh khác nhau như đề tài, thi pháp, thể loại, ngôn ngữ,
nhân vật, phong cách nghệ thuật… và có nhiều công trình thành công đáng kể.
Đặc biệt, các công trình nghiên cứu về đề tài chiến tranh và truyện ngắn của E.
Hemingway được các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều nhất và có nhiều phát hiện quan trọng.
Có thể nói, đề tài chiến tranh là đề tài quen thuộc và chủ đạo trong sáng tác Hemingway. Ông
được xem là một trong những nhà văn viết về chiến tranh xuất sắc nhất của thế kỉ XX cùng với
Barbusse, Erich M
aria Remarque… Hơn thế nữa, Hemingway được coi là nhà văn tiên phong
của nghệ thuật viết truyện ngắn hiện đại. Thậm chí có ý kiến rằng E. Hemingway viết truyện
ngắn thành công hơn tiểu thuyết mặc dù ông đạt giải Nobel về tiểu thuyết (G. G. Marquez).
Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và xuyên suốt về
truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway. Trong khi đó mảng truyện ngắn chiến tranh của
Hemingway chiếm một phần không nhỏ trong sáng tác của ông. Tôi nghĩ rằng mảng truyện
ngắn chiến tranh của E. Hemingway là mảng sáng tá

c có nhiều giá trị về nội dung và nghệ thuật
mà chúng ta chưa có dịp tìm hiểu. Đó là lí do quan trọng của đề tài này.
Về mặt các ấn phẩm, số lượng truyện ngắn của E. Hemingway được dịch sang tiếng Việt
chỉ hơn 70 truyện trong tổng số hơn 100 truyện, trong đó một số tru
yện ngắn chiến tranh tiêu
biểu chưa được dịch. Do vậy, người viết luận văn này đã cố gắng dịch sang tiếng Việt bốn
truyện ngắn: Đêm trước trận đánh (Night Before Battle), Đêm trước đổ bộ (Night Before
Landing), Điểm đen chỗ giao lộ (Black Ass at the Crossroads), Cảnh vật muôn màu (Landscape
with Figures) mà chúng tôi cho rằng đây là những truyện ngắn chiến tranh tiêu biểu của
Hemingway. Chúng tôi hy vọng rằng những truyện ấy bổ sung vào mảng truyện ngắn chiến
tranh của E. Hemingway đã được dịch nhằm giúp cho việc nghiên cứu mảng truyện ngắn chiến
tranh của E. Hemingway toàn diện và sâu sắc hơn.
Trong luận văn này, chúng tôi tập hợp được các truyện ngắn về đề tài chiến tranh của E.
Hemingway và bước đầu xác định những đặc t
rưng cơ bản của truyện ngắn chiến tranh
Hemingway ở hai phương diện: không gian nghệ thuật và nhân vật với tư cách là hai đặc điểm
cơ bản xác lập đặc trưng truyện ngắn chiến tranh của Hemingway. Với những nỗ lực như thế,
hy vọng đề tài của chúng tôi sẽ góp phần phục vụ cho mảng tác phẩm của E. Hemingway trong
nhà trường, nhất là đối với cá nhân tôi.

2. Lịch sử vấn đề
Từ năm 1924, sau khi in our time ra đời, trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều nghiên
cứu về E. Hemingway, phong cách nghệ thuật và sáng tác của ông. Cho đến nay, có rất nhiều
công trình nghiên cứu về Hemingway mang giá trị thiết thực. Để phục vụ cho luận văn của
mình, chúng tôi chia các nghiên cứu về E. Hemingway theo các vấn đề sau đây:
2. 1. Về đề tài chiến tranh
Các nhà xuất bản trên thế giới đã sắp xếp tác phẩm của E. Hemingway theo đề tài chiến
tranh, gồm những ấn phẩm sau:

-Hemingway on War By Ernest Hemingway and Ernest Hemingway Edited by Sean

Hemingway and Sean Hemingway in Trade Paperback at SimonSays.
-Men at War -New York Crown Publishers, 1942.
-Hemingway's War Fiction and "The Best god-dammed God you Ever Knew".
Autores: Tim Pingleton; Localización American, ISSN 1695-7814, Vol.1, …
Đây là các tuyển tập sáng tác của E. Hemingway gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, các bài
báo, bài phỏng vấn và ghi chép về chiến tranh của Ernest Hemingway do gia đình cùng các nhà
xuất bản sưu tầm, tuyển chọn. Qua việc sắp xếp các tác phẩm theo đề tài chiến tranh ở trên,
người sưu tầm, tuyển chọn bước đầu đã chú ý đến các sáng tác về đề tài chiến tranh của E.
Hem
ingway và đã có công tập hợp các sáng tác ấy với nhiều thể loại. Việc làm này chứng tỏ
mọi người đã chú ý đến mảng sáng tác về chiến tranh của E. Hemingway, một mảng sáng tác
mà E. Hemingway có nhiều thành công và gây nhiều ấn tượng với công chúng. Tuy vậy, cho
đến nay, chưa có ấn phẩm nào sắp xếp truyện ngắn chiến tranh của Hemingway thành tuyển
tập. Điều đó đồng nghĩa với việc nghiên cứu truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway chưa
được quan tâm thỏa đáng.
Ở Việt Nam, từ năm 1985, Lê Đình Cúc đã đề cập đến đề tài chiến tranh của E.
Hemingway qua luận án phó tiến sĩ: Tiểu thuyết về chiến tranh của Hemingway [29]. Trong
luận án của mình, Lê Đình Cúc đã khảo sát những tiểu thuyết tiêu biểu của Hemingway nhằm
làm rõ thái độ và qua
n niệm của E. Hemingway về chiến tranh. Lê Đình Cúc nhận định: “Cùng
đi song song với đề tài chiến tranh là đề tài tình yêu và sức sống mãnh liệt của con người” [31,
tr.9].
Trong một bài tham luận về Hemingway mang tên Âm hưởng thời đại trong
Hemingway, Lê Huy Bắc cho rằng: “Hemingway tập trung khắc họa hai diện mạo: chết trong
chiến tranh và sống trở về”, “Chiến tranh hiện diện trong tác phẩm của Hemingway trước tiên
không phải bằng bộ mặt thật với đạn bom, xe tăng pháo binh… mà nỗi ám ảnh ghê hồn” [15,
tr.24-27]
. Tuy ý kiến của Lê Huy Bắc không mới và chưa tập trung nhưng đó là sự tái khẳng
định đề tài chiến tranh trong sáng tác nói chung và trong truyện
ngắn của E. Hemingway nói riêng.

2. 2. Về thể loại
Trong bài viết Hemingway ‘s English Reputation, DSR. Welland quan tâm đến hình
thức đặc biệt của in our time. Ông cho rằng tập in our time chính là tiểu thuyết phân chia
thành các đoạn [107, tr.10-35].
Còn Philip Young, trong Ernest Hemingway, cho rằng truyện ngắn của E. Hemingway l
à
loại văn đơn giản, sắc cạnh và Hemingway có những truyện ngắn phác thảo (Sketch) [110].
Khái niệm sketch của Philip Young chỉ một kiểu truyện ngắn của E. Hemingway. Khái niệm
này của P. Young đã gây nhiều tranh cãi, vì bản thân khái niệm sketch không bao hàm được các
đặc điểm của truyện ngắn E. Hemingway. Sau này, Arlen J. Hansen [41], Lê Huy Bắc [12], Đào
Ngọc Chương [22] tiếp tục bàn về khái niệm sketch. Trong đó ý kiến của Arlen J. Hansen và
Đào Ngọc Chương đã lí giải khái niệm sket
ch với nhiều góc độ khác nhau và góp phần làm
sáng tỏ vấn đề thể loại truyện ngắn của E. Hemingway. Chúng tôi sẽ trình bày vấn đề này rõ
hơn ở Chương 1 của luận văn.
Trong bài “in our time, những nét phác thảo của một phong cách nghệ thuật” [79],
căn cứ trên tiêu chí thể loại, Trần Thị Thuận đánh giá rằng in our time gần với truyện ngắn
hơn cả và
đó là những trang viết đặt nền móng nghệ thuật của E. Hemingway sau này. Ý kiến
của Trần Thị Thuận tuy chưa hoàn hảo nhưng đó là một cách xác định thể loại truyện ngắn của
E. Hemingway.
Cũng nghiên cứu về in our time, nhưng Đào Ngọc Chương đã lí giải sâu sắc hơn về vấn
đề thể loại của in our time trên cơ sở phân tích các khái niệm đoản văn, chương (chapter). Đào
Ngọc Chương xem kiểu chương xen (chapter) trong in our time như một truyện ngắn độc lập
trên cơ sở nguyên lí
tảng băng trôi của E. Hemingway [23]. Theo chúng tôi, đây là nhận định
phù hợp nhất, vì nó có thể lí giải các đặc điểm truyện ngắn của E. Hemingway. Do đó, trong
quá trình tiến hành luận văn, chúng tôi đã căn cứ ý kiến của Đào Ngọc Chương để khảo sát và
xếp loại truyện ngắn của Hemingway.
Lê Huy Bắc cho rằng truyện ngắn E. Hemingway có kích thước và nhiều chủng loại khác

nhau: Truyện dong ý thức, truyện ngắn thư, truyện ngắn kịch, truyện ngắn mini, ngụ ngôn hiện
đại, truyện ngắn triết lí, truyện ngắn t
heo trường phái minimalism [52, tr.6].
Các nhận định trên cho thấy sự đa dạng, phong phú và phức tạp về thể loại truyện ngắn
của E. Hemingway.
2. 3. Về hiện thực
Khi nói về hiện thực trong tác phẩm văn học là nói đến thế giới hiện thực đã được t
ái tạo
qua thế giới chủ quan của tác giả. Thế giới ấy chính là một hiện thực khác, một hiện thực thứ
hai, dù mang hình bóng của thế giới khách quan ngoài đời. Không gian của tác phẩm văn học
cũng nằm trong thế giới ấy. Với cách hiểu như vậy, hiện thực phản ánh trong sáng tác của E.
Hemingway được nhiều nhà nghiên cứu nhìn nhận với nhiều khái niệm khác nhau như: không
gian, hiện thực, bối cảnh, hoàn cảnh…
Trong lời giới thiệu công trì
nh Hemingway, A Collection of Critical Essays, Robert P.
Weeks nhận xét: không gian trong sáng tác của Hemingway là hạn hẹp và đơn giản [81, tr.10].
Theo Einkeshchein (trong Selected Stories by Enest Hemingway), hiện thực trong tác
phẩm Hemingway đề cập đến thế giới đầy tội ác và nỗi kinh hoàng [94]. Einkeshchein phân
tích quá trình chuyển biến cuộc sống của E. Hemingway từ 1924 đến cuối những năm 1930 và
cho rằng: quan điểm của Hemingway trước thực tại là căm ghét bạo lực, chống chiến tranh và
chủ nghĩa phát xít quyết liệt. Hemingway có tư tưởng ủng hộ cách mạng.
Còn Ivan Kashkeen lại nhìn nhận: Hemingway nhìn thấy hiện thực vỡ vụn (trong Of
Greatest Importtance: The Prose of Enest Hemingway) [100, tr.160-172]. Và Philip Young
thì hình dung thế giới của Hem
ingway qua “khe hở của một bức tường”, “Thế giới của
Hemingway là thế giới trong đó mọi thứ không sinh hoa, kết quả mà là một thế giới nổ tung,
gãy vỡ, không hình thành, luôn bị gặm mòn” [110, tr.216].
Trong khi đó Leon Edel cho rằng: Thế giới trong Hemingway là thế giới của những hành
động hời hợt, một sự phản ánh thô thiển, cách nhìn thế giới của E. Hemingway là “loại nghệ sĩ
của không gian nhỏ bé với cái nhìn giới hạn” [93, tr.20].

Các nhà nghiên cứu Thuỵ Điển lại có ý kiến: Thế giới trong tác phẩm E. H
emingway
không có sự thương cảm [88, tr.151-164]. Nhà nghiên cứu Đức, Helmut Papajewski, nhận
xét: bên dưới cái hạn hẹp của thế giới truyện ngắn E. Hemingway là “mối quan tâm thường trực
về số phận bi kịch của con người” [107, tr.75].
Lê Huy Bắc cho rằng: “Thế giới của Hemingway không chỉ là thế giới của những căng
thẳng, đổ vỡ mà còn là thế giới của nhiều cạm bẫy” [15, tr.38]. Đặc biệt Lê Huy Bắc chú ý đến
yếu tố không gian tác động đến tính cách của nhân vật: “Hemingway xây dựng không gian này
là để khắc họa nên tính cách chủ đạo chung cho các nhân vật, tính cách anh hùng. Chính môi
trường sống đầy bạo lực và quan niệm sống hào hùng trên đã tạo nên kiểu nhân vật riêng biệt
của Hemingway” [15, tr.36
].
Hoàng Nhân lại chú ý cách miêu tả không gian chiến tranh trong tác phẩm của E.
Hemingway: “Tác giả đã mô tả sinh động những cảnh đổ nát, hoang tàn trong chiến tranh.”
[70, tr.202]. Hoàng Nhân nhận xét thêm: “Thế giới miêu tả của Cézanne và Hemingway có vẻ
chật hẹp, không bao quát được sự ti
nh tế có tính chất cổ điển.” [70, tr.224]. Ý kiến của Hoàng
Nhân khẳng định một lần nữa ý kiến của Robert P. Weeks đã nêu ở trên.
2. 4. Về nhân vật
Hầu hết các nhà nghiên cứu đã nêu được các kiểu nhân vật hoặc đề cập đến vấn đề con
người trong tác phẩm E. Hemingway:
-Nhân vật trong hoàn cảnh bi đát, khắc nghiệt
:
Ray B. West và Philip Young đều quan tâm đến sự tồn tại khó khăn của các nhân vật
trong hoàn cảnh khắc nghiệt [81, tr.11].
André Maurois cho rằng trong cái thế giới đầy bất trắc của chiến tranh và cái chết thường
xuyên hiện diện, trong tình trạng đầy kích động và luôn dự cảm những nguy hiểm, nhân vật của
E. Hemingway có hai cách giải quyết hoặc bằng cách tìm quên trong uống rượu và làm tình đến
đờ đẫn giác quan hoặc sống bằng cách sống khắc kỉ, chấp nhận kéo dài cuộc báo tử [22, tr.35]


John Killinger miêu tả tình cảnh bi đát của những người lính trở về sau chiến tranh [101].
E. Johnson, trong Giã từ hòa bình riêng lẻ, đặt vấn đề: con người thoát ly và con người nhập
cuộc. Einkeshchein lại nói đến con người với tâm hồn tàn phế [94]. Còn Helmut Papajewski và
một số nhà nghiên cứu Pháp, Thụy Điển cho rằng đó là những con người trống rỗng, buồn bã
đến cực độ [107, tr. 75-80].
-Con người với nỗi cô đơn
:
Khi đề cập đến E. Hemingway, Drobishevshii có nhận xét: truyện của ông mang sắc thái
“bi kịch của sự cô đơn” [81, tr.12]. Cùng với ý kiến ấy, Jonh Killinger cho rằng Hemingway
luôn đề cập đến con người cô đơn [101]. Còn Helmut Papajewski nhận định: trong tác phẩm
của Hemingway luôn có sự sợ hãi, sự cô độc tận cùng của cá nhân, đến nỗi tình yêu đối lứa
cũng không thể hóa giải nổi [107, tr.81-88].
Hoàng Nhân và Lê Huy Bắc chú ý đến hình ảnh nhân vật người lính trở về trong truyện
ngắn E. Hem
ingway dở điên dở dại, bấn loạn và “lánh đời”, mang trong lòng những vết thương
âm ỉ [15, tr.27, 29].
- Con người với cái chết:

Cái chết trong tác phẩm E. Hemingway được các nhà nghiên quan tâm nhiều nhất.
Malcolm Cowley nhận xét: không một nhà văn nào trong thời đại chúng ta lại có thể cho ta
nhìn thấy nhiều xác chết như thế [92, tr.40]. Còn Jonh Killinger cho rằng cái chết là hình tượng
thường trực trong tác phẩm của Hemingway, thậm chí đó chính là một thứ chìa khóa lí giải
những bí mật của thế giới E. Hemingway [101]. Philip Young trong Ernest Hemingway lại nói
đến cái chết và sự biến hình [111]. Còn Thorsten Jonsson dành nguyên một chương Sự gần gũi
với cái chết để nói đến cái chết khi viết về E. Hem
ingway [99]. Trong Tiêu chuẩn của cái chết,
L. Kistein cho rằng cái chết là nỗi ám ảnh và danh dự của con người. Ivan Kashkeen không tin
rằng E. Hemingway bị cái chết ám ảnh nên hạn chế tầm nhìn [100, tr.172].
Ở một góc độ khác, John Killinger và Maxwell Geimar khám phá cái chết, cái tôi hiện
sinh, cái hư vô nằm ngay ở đề tài chiến tranh trong tác phẩm E. Hemingway [22, tr.27, 36].

Phát hiện trên khẳng định thêm quan niệm của E. Hemingway về các khía cạnh của chiến tranh:
cái chết, cái hư vô, sự vô lí… Và tất cả điều này được phản ánh rất rõ trong truyện ngắn mà
chúng tôi sẽ đề cập ở các chương sau.

Lê Huy Bắc lại nhắc đến những cái chết vô nghĩa, những “cái chết bất đắc kì tử” [15,
tr.27] của các nhân vật trong tác phẩm E. Hemingway. Tuy nhiên, Lê Huy Bắc cũng đánh giá
rất chủ quan khi kết luận: “Hemingway thường đề cập đến cái chết nhưng những cái chết ấy
luôn mang âm hưởng của sử thi, không một chút bi lụy, nhẹ nhàng như cái chết của chính
ông…” [1
5, tr.39].
-Con người với sức sống của tâm hồn:
Các nhà văn thế giới và Việt Nam đều chú ý đến cuộc sống tâm hồn của nhân vật.
Trong The Dumb Ox in Love and War, Wyndham Lewis cho rằng nhân vật của
Hemingway là loài súc vật ăn đậu hũ ở cửa lò sát sinh [103, tr.76]. Còn Sean O’ Faolain, trong
Ernest Hemingway, lại nhận định: nhân vật của E. Hemingway không có đầu óc, quá khứ,
truyền thống, kí ức [106, tr.112]. Và trong Hemingway: Gauge of Moral, Edmund Wilson thì
nhận xét: con người trong tác phẩm Hemingway như những vi khuẩn sống trong
nước dưới dạng đơn bào [109, tr.214].
Các nhà nghiên cứu Việt Nam
thì đánh giá nhân vật trong sáng tác của E. Hemingway
lạc quan hơn. Hoàng Nhân viết: “tình yêu cuộc sống đưa đến khả năng phát hiện ra những sự
đơn giản thế giới tâm hồn của con người, xa lạ với những ước lệ thông thường“ [70, tr.201]. Lê
Huy Bắc cho rằng: “Hemingway đã xây dựng được những chiến binh dũng cảm, xem cái chết
tựa lông hồng, khi đã xác định cho mình lý tưởng, một nguyên tắc sống” [15, tr.27]. Nguyễn
Hải Hà lại có ý kiến:
“Các nhân vật yêu mến của ông đều vượt lên sự cô đơn, chán chường,
hoài nghi, khắc phục chấn thương tâm hồn trong một thời đại bão táp để trở thành người khắc
kỉ kiên cường” [15, tr.8].
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra nhân vật của E. Hemingway dù ở trạng thái tích cực
hay tiêu cực nhưng ở họ có khả năng chịu đựng thử thách và giàu khát vọng sống, khát vọng tự

do.
-Những nhân vật mang dấu ấn tác giả
:
Trong hai công trình Ernest Hemingway và Ernest
Hemingway: nhà văn như là một
nghệ sĩ (Hemingway: The Writer as Artist), Philip Young quan tâm đến nhân vật-Hemingway
(Hemingway hero), là nhân vật có quan hệ với cuộc đời tác giả [22, tr.33]. Philip Young lại chú
ý đến nhân vật Nick trong các truyện ngắn của E. Hemingway. Nhân vật Nick được miêu tả
theo một quá trình từ tuổi thơ đến trưởng thành. Còn Ivan Kaskeen chú ý đến nhân vật hóa
thân, mang dáng dấp tác giả trong sáng tác của E. Hemingway trong Ernest Hemingway-bi
kịch của tay thợ lành nghề [22, tr.32]. Có thể nói Nick là nhân vật trung tâm và là hóa thân
của tác giả
trong l
iên truyện, mang dấu ấn của tác giả nhiều nhất.
Sau khi nghiên cứu các sáng tác của Hemingway, Hoàng Nhân nhận xét: sáng tác của E.
Hem
ingway rất phong phú về đề tài song “Dù viết đề tài gì, tác giả chỉ nói về mình, những cảm
xúc và suy tư của mình trước cuộc sống đã từng trải” [70, tr.223]. Nhận xét của Hoàng Nhân đã
chú ý đến cảm nghĩ, tư tưởng chủ quan của tác giả trong tác phẩm của E. Hemingway. Có lẽ
Hoàng Nhân muốn nhấn mạnh sự trải nghiệm của E. Hemingway thể hiện trong tác phẩm. Còn
Nguyễn Hải Hà nhận xét thẳng thừng: “Nhiều nhân vật trung tâm là hóa thân của tác giả, đậm
nét tự truyện tinh thần nhưng sáng tác của Hemingway lại là câu chuyện ve thân phận con
người” [15, tr.8].
2. 5. Về cách viết truyện ngắn
Các nhà nghiên cứu trên thế giới và trong nước như: Carlos Baker, H. E. Bates, James

Fenton, Hoàng Nhân, Nguyễn Hải Hà, Lê Huy Bắc, Đào ngọc Chương… đều chú ý đến đặc
điểm nổi bật của nghệ thuật viết nói chung và truyện ngắn nói riêng của E. Hemingway như
nguyên lí tảng băng trôi, bút pháp độc thoại, đối thoại, cách sử dụng ngôn ngữ… Nguyễn Hải
Hà cho rằng: “Crédo (tín điều) thẩm mỹ của Hemingway gói gọn trong nguyên lý tảng băng

trôi, Hemingway chủ trương đãi cát tìm vàng, đưa văn học xí
ch gần cuộc sống, dân chủ hóa
văn học, đề cao cái đẹp giản dị bằng sự ngắn gọn, văn phong điện tín” [15, tr.8]. Hoàng Nhân
lại nhận định: “Ông xây dựng nhân vật bằng cách xóa sạch để làm lại ngay từ đầu, để uốn nắn
lại hình ảnh” [70, tr.227], …
Hầu hết các công trình trên đã đề cập đến các yếu tố nghệ thuật
trong sáng tác của E. Hemingway như: th
i pháp, thể loại, thi pháp nhân vật, nhân vật trung tâm,
độc thoại nội tâm, nguyên lý tảng băng trôi, đề tài chiến tranh… Trong đó chúng tôi quan tâm
nhất là các công trình sau đây, những công trình có liên quan đến luận văn này:
-Tiểu thuyết về chiến tranh của Hemingway (Luận án phó tiến sĩ của Lê Đình Cúc,
1985). Qua những tiểu thuyết tiêu biểu của E. Hemingway, Lê Đình Cúc đã phân tích, lí giải
được quan niệm, thái độ của E. Hemingway đối với chiến tranh. Tuy công trình trên còn nhiều
cần bàn song đó là công trình công phu sớm nhất tại Việt Nam
nghiên cứu về đề tài chiến tranh
trong sáng tác của Hemingway.
-Đặc trưng thể loại truyện ngắn qua truyện ngắn của Hemingway (Luận án Tiến sĩ
của Trần Thị Thuận năm 2000). Thông qua nhân vật chủ đạo Nick Adam, Trần Thị Thuận khái
quát lên đặc điểm thể loại truyện ngắn của E. Hemingway. Cách làm của Trần Thị Thuận cũng
là một hướng nghiên cứu về E. Hemingway nhưng cách làm ấy chưa thuyết phục. Vì nhân vật
Nick chỉ chiếm số lượng 45/102 truyện ngắn của E. Hem
ingway [81, tr.33]. Như vậy căn cứ
hoàn toàn vào nhân vật Nick Adam để khái quát đặc điểm thể loại truyện ngắn của E.
Hemingway là chưa thỏa đáng.
-Thi pháp tiểu thuyết và sáng tác của Ernest Hemingway (Chuyên
luận của Đào Ngọc Chương, NXB Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2003). Đào Ngọc
Chương căn cứ trên lý thuyết thi pháp học để khảo sát các sáng tác của E. Hemingway trong
phạm vi thi pháp tác giả. Cách làm ấy đã đi sâu và lí giải được nhiều vấn đề trong sáng tác của
Hemingway như: nguyên lí tảng băng trôi, thi pháp tiểu thuyết, thi pháp nhân vật …
Nhìn chung các công trình của thế giới và Việt Nam đã có nhiều đóng góp về E.

Hemingway ở nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau như: thể loại, nhân vật, phong cách
nghệ thuật, đề tài… Trong đó có những công trình đề cập đến đề tà
i chiến tranh, hiện thực
chiến tranh mà E. Hemingway mô tả, vấn đề con người trong tác phẩm của Hemingway như:
nỗi sợ hãi, cô đơn, sự ám ảnh, cái chết… Tất cả những công trình ấy đã có những gợi ý cho đề
tài của tôi đang thực hiện. Tuy nhiên, các công trên chưa có những nhận định chuyên sâu về
truyện ngắn chiến tranh của E. Hem
ingway hoặc có nhận định về truyện ngắn chiến tranh
nhưng chưa trọn vẹn, nhất quán. Đặc biệt, chưa có công trình nào đặt vấn đề trực tiếp về việc
nghiên cứu mảng truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway như một chỉnh thể nghệ thuật,
theo một nguyên tắc nghệ thuật xuyên suốt. Chính vì lí do ấy, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu
đề tài: Truyện ngắn chiến tranh của E.Hemingway .

3. Đối tượng nghiên cứu
3. 1. Về ấn phẩm
Trong đề tài này, đối tượng nghiên cứu chính là các truyện ngắn về chiến tranh của E.
Hemingway. Chúng tôi khảo sát các ấn phẩm sau đây:
-Truyện cực ngắn của E. Hemingway (Đào Ngọc Chương và Nguyễn Thị Huyền Linh
dịch-Nhà xuất bản Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2001).
-Truyện ngắn (Ernest Hemingway, Lê Huy Bắc chủ biên và giới thiệu, Nhà xuất bản
Văn học, 2004).
-The Collected Stories (Ernest Hemingway-Edited and introduced by
Fames Fenton-United Kingdom - Everyman’s Library).
-Ernest Hemingway: The Collect
ed Stories (Ernest Hemingway-Fames Fenton-
Everyman’s Library-Random House, May 25, 1995).
-The Complete Short Stories of Ernest Hemingway (Ernest Hemingway-Charles
Scribner’s Sons, New York, 1987).
-In Our Time (Ernest Hemingway, Copyright 1925, Charles Sribner’s, New York).


3. 2. Về phương diện nghiên cứu
Với luận văn này, chúng tôi cố gắng làm rõ đặc điểm truyện ngắn chiến tranh của E.
Hemingway qua các khía cạnh sau:
-Làm nổi bật được cách nhìn của E. Hemingway về hiện thực chiến tranh qua các kiểu
không gian như: Không gian tàn phá, hủy diệt, chết chóc, Không gian di tản, rút lui, Không
gian trú ẩn.
-Tìm hiểu về con người trong chiến tranh trong truyện ngắn chiến tranh E. Hemingway
với vấn đề nhân bản, tồn sinh, thái độ của tác giả về con người trong chiến tranh qua một số
kiểu nhân vật m
à người viết đã cố gắng tìm hiểu và mạnh dạn đặt tên: Những người tham chiến,
Những người lính trở về, Đoàn người di tản, Nhân vật xác chết.

4. Phương pháp nghiên cứu
Đầu tiên chúng tôi khảo sát tất cả các truyện ngắn của E. Hemingway để tìm ra các dấu
hiệu của truyện ngắn chiến tranh và xếp loại thành mảng truyện ngắn chiến tranh. Trong quá
trình nghiên cứu, chúng tôi đã khảo sát 102 truyện ngắn (gồm truyện ngắn và các thể loại tương
đương được coi là truyện ngắn-Phụ lục 1) và căn cứ các dấu hiệu về đề tài, tình tiết, nội dung,
nhân vật… của truyện, chúng tôi đã thống kê được 41 truyện có những dấu hiệu được xem l
à
truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway (Phụ lục 2).
Sau đó, chúng tôi tìm, đặt tên và nhận định về các kiểu không gian, các kiểu nhân vật
trong truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway.
Trên cơ sở các quan điểm đã có về sáng tác, về truyện ngắn của E. Hemingway nói
chung, chúng tôi cố gắng tìm ra sự sáng tạo của E. Hemingway trong nghệ thuật truyện ngắn
chiến tranh của ông. Chúng tôi hy vọng từ những tìm
tòi đó sẽ phát hiện đặc trưng cơ bản
truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway.
Dù khả năng của cá nhân có hạn nhưng chúng tôi đã cố gắng dịch thêm bốn truyện ngắn
về đề tài chiến tranh của E. Hemingway mà các ấn phẩm đã xuất bản về truyện ngắn của E.
Hemingway chưa có để bổ sung về số lượng của mảng truyện này. Chúng tôi cũng hy vọng

công việc ấy sẽ đóng góp một p
hần nhỏ về việc tìm hiểu E. Hemingway.
Trên quy trình ấy, chúng tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp tiếp
cận thi pháp, Phương pháp nghiên cứu tác giả, Phương pháp nghiên cứu lịch sử, xã hội và chú ý
đến hiện tượng liên văn bản trong sáng tác của E. Hemingway. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng
các phương pháp khác như: Phương pháp thống kê, Phương pháp so sánh văn học, Phương
pháp tiếp cận hệ thống… trong quá trình tiến hành luận văn.

5. Phạm vi nghiên cứu
Qua luận văn này, chúng tôi mong muốn sẽ khái quát được đặc
trưng của truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway. Nhưng do khuôn khổ của một luận văn,
khả năng cá nhân và thời gian có hạn nên chúng tôi không thể nghiên cứu, khảo sát truyện ngắn
chiến tranh của E. Hemingway đầy đủ trên các bình diện như: đề tài, ngôn ngữ, kết cấu và các
bình diện thi pháp khác. Chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu về kiểu không gian và kiểu nhân
vật trong truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway.

















PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: Truyện ngắn và truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway
1. 1. Truyện ngắn
Khi hỏi về định nghĩa truyện ngắn, nhà văn, nhà hoạt động chính trị tiến bộ, giáo sư
người Đôminicana, Juan Bosch (sinh năm 1909), cho rằng: “Định nghĩa thế nào là một truyện
ngắn rất khó, dễ chừng một nhà phê bình văn học xuất chúng cũng chưa chắc đã làm nổi”.
Thực vậy, từ trước đến nay có rất nhiều định nghĩa về truyện ngắn:
Từ điển văn học (NXB KHXH, Hà Nội 1984, Tập 2) và Từ điển thuật ngữ văn học
định nghĩa: “Đó là một hình t
hức tự sự nhỏ”, “Mô tả một khía cạnh nào đó của cuộc sống, ít
nhân vật và sự kiện. Yếu tố quan trọng nhất là cô đúc, có dung lượng lớn và cách hành văn
nhiều ẩn ý” [40, tr.370]. Định nghĩa của các từ điển ở trên không sai, nó phù hợp với truyện
ngắn truyền thống nhưng chưa khái quát đặc trưng chủ yếu của truyện ngắn nói chung, nhất là

truyện ngắn hiện đại.
Nhà văn Mỹ, William Saroyan (sinh 1908), cho rằng: “Truyện ngắn, đó là một cái gì
không cùng”, “Đó thật là một cái gì khơi mãi không hết… Tôi thấy không nên ràng buộc truyện
ngắn vào các quy tắc nào hết.” [69, tr.103]. Nhà văn Tô Hoài nhận định: “truyện ngắn l
à một
thể loại có tính chiến đấu mạnh”, “truyện ngắn chính là cách cưa lấy một khúc đời” và
“truyện ngắn đòi hỏi hoàn thiện” [69, tr.8-9].
Trong bài nói chuyện với học viên Trường viết văn Nguyễn Du vào tháng 12 năm 1995,
Nguyên Ngọc đã phân tích khái niệm văn xuôi hư cấu để đưa ra khái niệm truyện ngắn. Theo
ông, truyện ngắn và tiểu thuyết đều là văn xuôi hư cấu (là cái khác với văn xuôi tư liệu như bút

kí, phóng sự…), “truyện ngắn ngắn vì nó là tác phẩm nghệ thuật chưng cất, chứ không phải là
nguyên liệu thô” [1, tr.8-27]. Nguyên Ngọc còn đối chiếu các thuật ngữ để làm nổi bật khái
niệm truyện ngắn như: conte (truyện hoang tưởng-tiếng Pháp), récit (truyện kể lại, truyện ngắn-

tiếng Pháp), nouvelle (truyện ngắn-tiếng Pháp), roman (tiểu thuyết-tiếng Pháp), novel (tiểu
thuyết-tiếng Anh)… Cách giải thích của Nguyên Ngọc đã xác định được khái niệm cơ bản của
truyện ngắn và giúp cho người ta bước đầu hình dung diện mạo truyện ngắn. Trong chuyên luận
của m
ình [22], Đào Ngọc Chương đã lí giải các khái niệm trên rõ ràng hơn và so sánh các khái
niệm ấy với truyện ngắn, tiểu thuyết Mỹ trong truyền thống và hiện đại để rút ra nhưng đặc
trưng về thể loại trong sáng tác của Hemin
gway.
Nhà văn Nguyễn Kiên lại tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn qua mối liên hệ với tiểu thuyết:
“Tác động qua lại giữa tiểu thuyết và truyện ngắn là điều hiển nhiên, chí ít thì nó cũng đã dẫn
đến sự tìm tòi, có chủ định hẳn hoi hoặc là ngẫu hứng, về sự trộn lẫn hoặc đan xen các thủ
pháp nghệ thuật” [1, tr.68]. Nguyễn Kiên đã dẫn các truyện trong in our time để chứng m
inh
cho mối liên hệ đó.
Một số người lại xem nội dung là tiêu chí cơ bản để khái quát nên đặc điểm truyện
ngắn. Nhà văn Nga Alexandr Fadeev (1901-1956) quan niệm: “Truyện ngắn có ý nghĩa lớn của
những hình thức nhỏ và về mặt nội dung cũng như về tư tưởng, truyện ngắn không có gì khác
tiểu thuyết. Nó cũng phải nói tới những gì cần thiết cho nó, chỉ có điều nó ngắn, nên khó hơn.
Truyện ngắn đòi hỏi sự nghiê
m khắc, sự chính xác trong hình thức” [Báo Văn học Liên Xô,
22/12/1971]. Nhà văn Trung Quốc Giả Bình Ao cũng nhấn mạnh yếu tố nội dung nhưng phải
độc đáo: “Từ nội dung đến hình thức, bạn tìm được hai chữ độc đáo, bạn sẽ đứng vững” [76,
tr.379].
Có nhà văn bỏ qua bố cục của truyện ngắn. Trong tác phẩm Gorki bàn về văn học (NXB
Văn học, Hà Nội, 1970), M. Gorki nói
: “Tôi không bao giờ soạn bố cục, bố cục tự nó hình
thành trong quá trình làm việc; chính các nhân vật soạn ra. Mỗi nhân vật đều có logic hành
động.” Cách viết của M. Gorki đã làm tiền đề cho truyện ngắn hiện đại sau này.
Nhiều người lại tìm khái niệm truyện ngắn qua việc so sánh với thơ. Nhà văn Ireland
Frank O’Connor (1903-1966) cho rằng: “Truyện ngắn rất gần với thơ ở chỗ phải ngắn, súc


tích” [69, tr.110]. Phạm Thị Hoài xem truyện ngắn là đứa con của thơ và văn xuôi: “Truyện
ngắn dường như là đứa con tất yếu của mẹ THƠ và cha là VĂN XUÔI, nó là thơ viết bằng văn
xuôi, bên ngoài mang tình cha mà bên trong mang tính mẹ” [1, tr.112]. Cách so sánh trên cũng
nêu được nét cơ bản của truyện ngắn song nó vẫn còn chung chung.
Gần đây, người ta chú trọng đến cấu trúc của truyện ngắn. Trong một buổi nói chuyện
ngày 15/
6/2007, tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, tiến sĩ - nhà văn Mỹ, Charles Waugh, cho
rằng: “Giờ đây, cấu trúc của truyện ngắn trở nên hết sức quan trọng. Người viết truyện
ngắn phải đặc
biệt đầu tư vào cấu truc.”
Nhìn chung các ý kiến nêu trên đều trình bày được một số đặc trưng cơ bản của truyện
ngắn. Trong đó ý kiến của Nguyên Ngọc [1, tr.8-27] và Đào Ngọc Chương [ 22, tr.83-98]
đi sâu
phân tích các thuật ngữ để tìm ra khái niệm truyện ngắn là thuyết phục nhất. Tuy vậy, nhiều ý
kiến chỉ là những kinh nghiệm, kĩ thuật viết truyện của những nhà văn tên tuổi dành cho những
nhà văn trẻ. Hoặc một số ý kiến chỉ nêu được các đặc trưng của truyện ngắn truyền thống chứ
không nêu được khái niệm về truyện ngắn nói chung. Với nội hàm khái niệm truyện ngắn như
vậy, chúng ta chưa thể khao sát truyện ngắn của Hemingway một cách toàn diện. Vì truyện
ngắn hiện đại nói chung và truyện ngắn Mỹ, truyện ngắn Hemingway nói riêng có nhiều điều
cần bàn.
Truyện ngắn Mỹ có một lịch sử phát triển lâu dài.
Từ thuở lập quốc cho đến thế kỉ XIX, Người Mỹ chia văn xuôi thành hai dạng: fiction
(văn xuôi hư cấu) và non-ficti
on (văn xuôi không hư cấu). Trong đó fiction chia thành novel
(tiểu thuyết) và short story (truyện ngắn) [12, tr.5-9].
Trong Lược sử truyện ngắn [42], Arlen J. Hansen (1936-1993), giáo sư văn chương Anh
tại đại học Pacific (California) cho rằng: Ở thế kỉ XIX sự xuất hiện phổ biến của hai khái niệm
sketch (đoản tác) và tale (chuyện kể) làm cho văn xuôi t
hế giới có những biến đổi. Chỉ riêng ở

Mỹ cũng có hàng trăm cuốn sách tự xưng là tuyển tập các đoản tác: Sketch Book (Tập đoản tác)
của Washington Irving, Suburban Sketches (Những đoản tác ngoại ô) của William Dean
Howells, Tales of Grostesque and Arabesque (Những chuyện kể hoang đường và kì quái) của
E. Poe, Piazza Tales (Những t
ruyện kể chốn quảng trường) của Hermann Melville. Hai thuật
ngữ này tạo nên hai thái cực mà từ đó truyện ngắn phát triển. Chuyện kể xuất hiện lâu đời hơn
đoản tác. Về hình thức, chuyện kể là văn nói còn đoản tác là văn viết. Về cơ bản, mỗi truyện kể
là một phương tiện qua đó nền văn hóa nói về chính mình và nhờ thế giữ gìn được những giá trị
và khẳng định bản sắc của m
ình; Thế hệ già nói với thế hệ trẻ thông qua những truyện kể;
Truyện kể có khi cường điệu, nói thái quá. Còn đoản tác dựa trên sự kiện và mang tính báo chí,
nên có nhiều phân tích và miêu tả hơn, ít tự sự và kịch tính hơn so với truyện kể. Đặc biệt, bản
chất của đoản tác có tính gợi mở. Và trong thế kỉ XIX, truyện ngắn đã biến thiên từ loại truyện
kể đầy tưởng tượng đến loại đoản tác mô tả chính xác thực tế. Có khi chúng kết hợp cả hai hình
thức này tạo thành một kiểu truyện ngắn mang diện mạo mới. Cha đẻ của truyện ngắn loại này

là các nhà văn N. Gogol, N. Hawthortone, E. Hoffmann, E. Poe… [42]
Cho đến những năm 30 của thế kỉ XX, những ấn phẩm quá cỡ của W. Faulkner và E.
Hemingway làm cho độc giả khó phân biệt chúng là truyện ngắn hay t
iểu thuyết. Và các thuật
ngữ fiction hay story, short story, sketch được dùng để gọi tên các tác phẩm của các nhà văn
này.
Có thể nói, truyện ngắn được xem là thể loại quen thuộc và phổ biến ở Mỹ. Nó là tinh
thần của người Mỹ nên đặc điểm của nó cũng khác với các truyện ngắn khác trên thế giới.
Parrington một nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng Mỹ nhận xét: “Truyện ngắn thường được coi là
thể tài trong đó thể hiện rõ nhất tinh thần dân tộc Mỹ tức là ý hướng sùng bái hiệu quả, cố hết
sức loại bỏ những gì dư thừa và một số khao khát thường xuyên là đi tìm một thứ kĩ thuật sao
cho đáng gọi là hoàn thiện” [1, tr.55].
Cùng với ý kiến trên, Vương Trí Nhàn cũng nhận xét về đặc điểm
và quá trình phát triển

của truyện ngắn Mỹ:
Nhiều hơn là những truyện ngắn tâm lí, truyện ngắn sử dụng những phương tiện có khả
năng tăng cường một thứ cốt truyện bên trong chứ không phải những biến đổi bên ngoài mà ai
cũng nhận ra được… Sở dĩ truyện ngắn có những thay đổi như trên, là do những vấn đề gốc,
những mối quan hệ cá nhân v
à hoàn cảnh, hành động và thời gian… đang được nhìn nhận
không giống như văn học truyền thống. [69, tr.192-194].
Qua cách dẫn giải, phân tích dài dòng ở trên, chúng tôi muốn nói rằng truyện ngắn là một
thể loại văn học đặc biệt và phức tạp. Chúng tôi không thể đưa ra một khái niệm truyện ngắn
đầy đủ mà chỉ nêu một số đặc điểm sau đây như một giới thuyết về truyện ngắn và cũng chỉ
nhằm phục vụ trong giới hạn của luận văn này:
Truyện ngắn là thể loại văn x
uôi hư cấu, có quan hệ chặt chẽ với tiểu thuyết. Truyện
ngắn được viết ngắn gọn, cô đọng, súc tích, giàu ý nghĩa, có khả năng phản ánh đa dạng các
mặt của cuộc sống. Nội dung của truyện ngắn phong phú, hì
nh thức của truyện ngắn linh hoạt,
biến hóa muôn hình muôn vẻ.
Với cách hiểu truyện ngắn như vậy, chúng tôi hy vọng có thể tiếp cận với truyện ngắn
của Hemingway.
1. 2. Truyện ngắn E. Hemingway
Có nhiều ý kiến khác nhau về truyện ngắn của E. Heminway.
Nhà văn Anh Storm Jameson cho rằng truyện ngắn E. Hemingway “có quá ít cái để nói”
[81, tr.30]. Leon Edel chỉ xem E. Hemingway là “nhà văn hạng hai” [93, tr.20]. Trong khi đó,
Sean O’Faolain lại đánh giá cao về truyện ngắn của Hemingway: “ngôn ngữ điện tín được gửi
từ mặt trận với giá cao cho mỗi chữ” [106, tr.145]. Nhà văn Truman Capote (sinh 1924), hai
lần được g
iải O’ Henry, lại công nhận nghệ thuật viết truyện ngắn của E. Hemingway qua cách
so sánh với các nhà văn khác: “Henri James (1843-1916) là một bậc thầy về sử dụng dấu chấm
phẩy, còn người biết xuống dòng không thể chê trách là E. Hemingway” [69, tr.107].
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đánh giá và tiếp nhận truyện ngắn của E.

Hem
ingway với nhiều chiều hướng. Nhiều công trình của Lê Đình Cúc, Lê Huy Bắc, Đào Ngọc
Chương, Đặng Anh Đào, Hoàng Nhân, Huy Liên, Trần Thị Thuận… đã nghiên cứu truyện ngắn
của Hemingway trên các bình diện khác nhau. Nhiều ý kiến nhận định rằng sáng tác nói chung
và truyện ngắn của E. Hemingway dựa trên nguyên lí tảng băng trôi. Lê Huy Bắc cho rằng: “tự
thân chúng (truyện ngắn) là những thế giới nghệ thuật riêng biệt, sinh động trong hướng quy tụ
theo nguyên lý tảng băng trôi” [52, tr.5]. Đào Ngọc Chương cũng đã chỉ ra những biểu hiện của
nguyên lí ấy:
Đó là hiện tượng khoảng trắng trong đối thoại và độc thoại; hiện tượng lắp ghép, lặp lại,

phiến đoạn trong kết cấu ở nhiều cấp độ; hiện tượng phi cốt truyện hay cốt truyện bên trong
của cốt truyện; hiện tượng liên văn bản trong cách đọc văn bản tác phẩm; hiện tượng đa
giọng một cách đặc b
iệt trong ngôn ngữ; hiện tượng chất thơ trong lời văn… [26, tr.5]
Nhìn chung các công trình đã có nhiều phát hiện về giá trị nội dung, nghệ thuật truyện
ngắn của E. Hemingway. Tuy nhiên, ý kiến của Lê Huy Bắc và Trần Thị Thuận làm chúng tôi
còn nhiều băn khoăn. Lê Huy Bắc đánh giá truyện ngắn E. Hemingway với các đặc điểm như:
Số lượng nhân vật ít, đối thoại nhiều, sử dụng nhiều hình ảnh tượng trưng, thời gi
an vật lí, độc
thoại nội tâm, sự phát triển từ truyện ngắn đến tiểu thuyết… [54, tr.105-110].
Trần Thị Thuận cũng nhận định: “Hiện thực truyện ngắn Hemingway được xây dựng trên
cơ sở truyện ngắn và các chương xen”, “giữa các chương và truyện ngắn có sự tác động qua
lại” [81, tr.30]. Đặc biệt, Trần Thị Thuận chọn nhân vật Nick
Adam làm cơ sở chủ đạo để khái
quát lên đặc điểm thể loại truyện ngắn của E. Hemingway.
Các nhận định trên đã khái quát được những đặc điểm cơ bản truyện ngắn Hemingway:
ngắn gọn, cô đọng, hình thức đặc biệt, ngôn ngữ điện tín… Song theo chúng tôi vẫn có điều
chưa ổn. Chẳng hạn ý kiến của Lê Huy Bắc tuy phát hiện truyện ngắn E. H
emingway mạnh về
đối thoại nhưng nhìn chung vẫn còn sơ sài và chưa phản ánh đặc điểm cơ bản của truyện ngắn

E. Hemingway. Vì truyện ngắn nào cũng ít nhân vật chứ không riêng gì truyện ngắn E.
Hemingway. Còn hình ảnh tượng trưng và độc thoại nội tâm chưa phải là đặc trưng chủ yếu của
truyện ngắn mà ở tiểu thuyết của ông. Ý kiến của Trần Thị Thuận cũng chưa thuyết phục. Vì

các chương xen chỉ có trong in our time và số lượng rất ít so với toàn bộ truyện ngắn (18
chương/102 truyện) nên không thể căn cứ vào các chương xen để xây dựng truyện ngắn E.
Hemingway. Mặc dù Trần Thị Thuận đã cố gắng chứng minh, phân tích, lí giải nhân vật Nick
Adam nhằm khái quát lên truyện ngắn E. Hemingway nhưng cách làm đó không ổn vì trước sau
gì nhân vật này chỉ là nhân vật liên truyện. Nhân vật Nick Adam chỉ là một trong nhiều yếu tố
để xác định truyện ngắn E. Hemingway chứ không thể là căn cứ chủ yếu để xác định thể loại
truyện ngắn của E. Hemingway.
Như vậy, việc khảo sát truyện ngắn E. Hemingway nói chung và truyện ngắn chiến tranh
của ông nói riêng còn nhiều điều phức tạp. Chúng ta cần phải khảo sát toàn diện, sâu sắc hơn
nữa. Qua nghiên cứu nhiều ý kiến đánh giá về truyện ngắn của E. Hemingway, chúng tôi xem ý
kiến của g
iáo sư Arlen J. Hansen là tương đối phù hợp:
Những truyện ngắn của Hemingway thường có thể đạt sức hấp dẫn nhờ khai thác những
biểu tượng tâm linh cổ truyền (nước, cá, những vết thương ở bụng), nhưng chúng liên quan mật
thiết với đoản tác (sketch) hơn truyện kể (tale). Như thế, Hemingway đôi lúc đã có có thể trình
bày những câu chuyện dựa vào sự thật của ông như những bài báo. Ngược lại, truyện ngắn của
những nhà văn cùng thời với ông như William Faulkner giống truyện kể (tale) hơn [42]
.
Đây là điểm mấu chốt để xác định đặc điểm truyện ngắn của E. Hemingway mà trước
đây mọi người nhìn nhận với nhiều chiều khác nhau. Theo chúng tôi, E. Hemingway chịu ảnh
hưởng rất nhiều văn học truyền thống của Mỹ, đặc biệt là hình thức đoản tác (sketch) của thế kỉ
XIX như đã nói ở Mục 1.1. Nói cách khác, hình thức đoản tác rất phù hợp với phong cách thể
hiện của E. Hem
ingway và rất phù hợp trong xu hướng văn học hiện đại. Hình thức này được
E. Hemingway sáng tạo một cách độc đáo tạo thành một kiểu truyện ngắn mới, mang đậm
phong cách E. Hemingway. Và điều ấy được chứng minh qua cách viết truyện ngắn của

Hemingway: “Nhà văn biết thật rõ truyện ngắn sẽ viết. Nhưng có trường hợp đã bắt tay
vào
công việc rồi, tự anh vẫn không biết là mọi chuyện kết cục sẽ ra sao. Trong quá trình phát triển
hành động, mọi việc bỗng thay đổi. Chính điều đó, tạo nên vận động và đến lượt mình, vận
động làm nên truyện ngắn “ [69, tr.94].
Như vậy, cách viết của E. Hemingway mang nặng hình thức đoản tác hơn là truyện ngắn
thông thường. Khái niệm đoản tác (sketch) được hiểu là một thể loại văn học chứ không đơn
thuần là một kiểu truyện ngắn (truyện ngắn phác thảo) như các tài liệu t
rước đây đã viết. Theo
chúng tôi, khái niệm đoản tác (sketch) vừa chỉ một thể loại văn học (đoản tác) vừa chỉ một kiểu
truyện ngắn của E. Hem
ingway (truyện ngắn phác thảo). Vì những truyện ngắn của E.
Hemingway hầu như dựa vào các sự kiện lịch sử, xã hội, chiến tranh… Các truyện ngắn ấy
mang tính báo chí, phân tích nhiều hơn là miêu tả, ít tính tự sự… giống như thể loại đoản tác đã
trình bày. Do đó từ trước đến nay lấy khái niệm truyện ngắn truyền thống để đánh giá truyện
ngắn E. Hemingway là chưa thỏa đáng.
Bên cạnh đó, phải kể đến loại truyện cực ngắn mà chúng ta thấy xuất hiện trong in our
time. Đây là loại truyện mà E. Hemingway viết rất thành công và ông được coi như người tiên
phong của loại truyện này. Cụ thể là khi viết về truyện cực ngắn, người ta lấy truyện cực ngắn
của E. Hemingway làm dẫn chứng (Giới thiệu truyện thình lình của Đinh Từ Bích Thúy,
www. damau.org, 22/01/2007).
Truyện cực ngắn là một kiểu t
ruyện đặc biệt ngắn gọn, linh hoạt, độc đáo, giàu tính kịch
rất thịnh hành trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Đặng Anh Đào viết: “Một chất liệu cần thiết
cho những truyện cực ngắn, là kịch tính. Bởi lẽ, tính chất giảm thiểu đến mức trơ trụi của một
truyện ngắn đòi hỏi độ căng của kịch” [1, tr.93]
. Chúng tôi cho rằng cách viết cực kì cô đọng,
giàu kịch tính, giảm thiểu đến mức trơ trụi của truyện cực ngắn đã ảnh hưởng rất nhiều trong
cách viết truyện ngắn E. Hemingway.
Vậy đặc điểm cơ bản của truyện ngắn E. Hemingway là gì?

Điều cảm nhận chung nhất về truyện ngắn Hemingway là loại văn chương thô ráp, ít trau
chuốt, các truyện hầu như không có cốt truyện, tính xung đột không nằm ở bề mặt và ít bộc lộ
cảm
xúc trực tiếp. Hầu hết truyện ngắn của E. Hemingway chỉ là sự tái hiện những thoáng chốc
của cuộc sống xung quanh, những chuyện thường ngày như câu cá, uống rượu, đấm bốc, chiến
tranh…
Cơ sở nghệ thuật của truyện ngắn E. Hemingway chính là xuất phát từ những cái bình
thường. Đó là cuộc đời thường không t
ô điểm, màu mè. Cốt truyện trong truyện ngắn của ông
cũng khác. Nó không phải là cốt truyện theo những biến cố, sự kiện thông thường của truyện
ngắn truyền thống mà nó mang tính bao hàm nhiều yếu tố khác nữa. Nó là cốt truyện cuộc đời.
Cái đặc sắc của truyện ngắn E. Hemingway là cách khơi nguồn cảm xúc cho người đọc,
tạo cho người đọc tham gia sáng tạo trong thưởng thức tác phẩm. Vì vậy truyện ngắn của E.
Hem
ingway đã tạo ra một sự cách tân lớn lao cho truyện ngắn hiện đại thế giới.
Từ đặc điểm trên, chúng tôi khảo sát truyện ngắn của E. Hemingway được in từ năm
1924 cho đến năm 2004 và có các ấn phẩm tiêu biểu sau:
-In Our Time (Ernest Hemingway-1925): 13 truyện và 18 chương
(chapter).
-The Fifth Collumn and The First Forty-Nine Stories (Ernest Hemingway-1938): 49
truyện ngắn.
-The Complete Short Stories of Ernest Hemingway: The Finca Vigia
Edition (Ernest Hemingway- Charles Scribner’s Sons, New York, 1987): 70 truyện.
-The Ernest Hemingway: The Collected Stories (Ernest Hemingway-Fames Fenton-
Everyman’s Library-Random House, May 25, 1995): 81 truyện và 18 chương.
-Truyện cực ngắn của Ernest Hemingway (Đào Ngọc Chương và Nguyễn Thị Huyền
Linh dịch-Nhà xuất bản Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh): 18 chương và 21 truyện. Trong đó có 04
truyện mà các tài liệu trên không có, đó là Billy Gilbert, Bob White, Ed Paige, Lão Hurd và bà
Hurd.
-Truyện ngắn (Ernest Hemingway, Lê Huy Bắc chủ biên và giới thiệu - Nhà xuất bản

Văn học-2004): 58 truyện.
Sau khi tổng hợp các ấn phẩm, chúng tôi có 84 truyện và 18 chương. Trong đó có 2

chương được in lại thành 2 truyện: Chương 10 được in thành Một truyện rất ngắn (A Very
Short Story) và Chương 11 được in thành Nhà cách mạng (The Revolutionist). Và chúng tôi
coi 18 chương như là 18 truyện độc lập như các truyện ngắn khác (Ý kiến của Đào Ngọc
Chương [23] và Trần Thị Thuận [81] cũng xem các chương ấy là một truyện độc lập). Như vậy
chúng tôi thống kê và khảo sát tất cả 102 truyện ngắn và chương của E. Hemingway (Phụ lục
1).
Qua khảo sát truyện ngắn của E. Hemingway, chúng tôi nhận thấy rằng việc phân định
truyện ngắn của ông gặp nhiều phức tạp. Đó là những truyện ngắn của E. Hemingway có độ dà
i
khác nhau. Có truyện được coi như truyện vừa, có truyện lại rất ngắn, chưa tới 100 từ. Vì vậy
trong các ấn phẩm, người biên tập thường chú thích thêm: Short Short hay Short Story [96]
hoặc fiction, non-fict
ion. Bên cạnh đó, truyện ngắn E. Hemingway cũng gồm các kiểu truyện
khác nhau như: kiểu chương (chapter), kiểu truyện ngắn phác thảo (sketch)... Sự phức tạp này
gây khó khăn trong việc xác định thể loại của đối tượng nghiên cứu.
Vì thế, để có một cách nhìn đầy đủ về mảng truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway,
trong luận văn này, chúng tôi nghiên cứu tất cả các kiểu truyện ngắn của E. Hemingway, chỉ
loại trừ tiểu thuyết và bài viết trên các ấn phẩm
báo chí, tạp chí hoặc các bài ghi chép, phỏng
vấn của E. Hemingway.

1. 3. Truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway - những dấu hiệu nhận biết
Theo chúng tôi, một truyện ngắn được gọi là truyện ngắn chiến tranh thì
truyện ngắn đó
phải có ít nhất một trong các yếu tố như: đề tài, nội dung, tình tiết, nhân vật, không gian, thời
gian… có liên quan đến chiến tranh hoặc gián tiếp có quan hệ với chiến tranh. Thông thường đó
là những truyện ngắn viết về những cuộc chiến đấu, những trận chiến quyết liệt với những tiếng

nổ rung trời, những pha bắn phá, giết chóc rùng rợn, hình ảnh những người lính xung t
rận giữa
đạn bom khói lửa… Hoặc đó là những truyện ngắn viết về những người lính trở sau cuộc chiến
với những vết thương trên cơ thể và chấn thương tinh thần… Tuy nhiên trong thực tế có những
truyện không có bóng dáng của tiếng súng, khói lửa, hình ảnh người lính chiến đấu cũng như
hình ảnh người lính trở về song hơi hướng của chiến tranh vẫn âm ỉ, tiềm tàng trong tác phẩm
ấy. Chính những ám
ảnh của chiến tranh mới là sự khủng khiếp nhất mà chiến tranh để lại. Vì
thế những truyện ngắn ấy cũng được xem là truyện ngắn chiến tranh. Và để nhận diện truyện
ngắn chiến tranh của Hemingway, chúng tôi dựa trên các dấu hiệu ấy.
Có thể nói, truyện ngắn của E. Hemingway đa dạng và phong phú về đề tài như: đấu bò,
đi săn, đấm bốc… nhưng ấn tượng nhất và thành công nhất vẫn là đề tài chiến tranh, một đề tà
i
mà ông đã thành công ở tiểu thuyết.
Từ những truyện ngắn đầu tiên trong in our time, E. Hemingway đã quan tâm đến chiến
tranh. Ông có những kinh nghiệm thực tế trong cuộc chiến và hầu hết những tác phẩm của
Hemingway được viết từ các tuyến lửa nên không khí của câu chuyện bao giờ cũng đượm mùi
thuốc súng.
Nhưng do điều kiện đã nói (phạm v
i luận văn, khả bản thân, thời gian) nên ở đề tài này
chúng tôi chỉ khảo sát ở hai bình diện không gian và nhân vật của truyện ngắn chiến tranh E.
Hemingway. Chúng tôi nghĩ rằng đây là hai bình diện cơ bản, có khả năng quyết định kiểu
dạng, mô hình nghệ thuật của truyện ngắn chiến tranh E. Hemingway. Đó là không gian của
những cuộc tấn công bất thành, những cảnh lửa đạn, thương tật, chết chóc và sự bất nhẫn. Đó là
những con người tồn tại trong chiến tranh:
những người tham chiến, người lính bỏ ngũ, người
lính trở về sau chiến tranh hay hình ảnh người dân trong vùng có chiến sự bị giết, bị đạn pháo
sát hại… Tất cả những điều ấy bước đầu hình thành một diện mạo cho truyện ngắn chiến tranh
của E. Hemingway. Và từ đó mở ra thế giới truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway, một
thế giới không rộng dài ở bề mặt nhưng có khả năng mở r

a thêm nhiều lần hơn về phía bên
trong.
Với cách làm như vậy chúng tôi tìm thấy truyện ngắn của E. Hemingway có 41 truyện
mang những dấu hiệu nêu trên và chúng tôi gọi đó là truyện ngắn chiến tranh của E.
Hemingway (Phụ lục 2).




CHƯƠNG 2: Không gian trong truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway

2. 1. Khái niệm không gian
Không gian trong tác phẩm văn học hay còn gọi là không gian nghệ thuật, là một khái
niệm thi pháp học chỉ “hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là sự mô hình hóa thế giới của
tác gia” [75, tr.120].
Khái niệm này còn được Trần Đình Sử còn giải thích thêm trong Thi pháp Truyện Kiều:
Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của sự sống con người, gắn liền với ý niệm và
sự cảm n
hận về giới hạn giá trị của con người. Không gian nghệ thuật có thể xem là một
“không quyển” tinh thần bao bọc cảm thức của con người, là một hiện tượng tâm linh, nội cảm
chứ không phải là hiện tượng địa lí và vật lí. Không gian địa lí và vật lí xung quanh chỉ là yếu
tố mang không gian sự sống của con người. [74, tr.143]
Tuy khái niệm trên còn nhiều điều bàn bạc nhưng nó đã chỉ ra được đặc trưng chủ yếu
của không gian trong tác phẩm văn học và tương đối phù hợp cách tiếp cận tác phẩm về phương
diện thi pháp. Trong điều kiện tài liệu có được, chú
ng tôi căn cứ trên khái niệm này để nghiên
cứu không gian trong truyện ngắn E. Hemingway.
Trong 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân cho rằng: không gian nghệ thuật là “phẩm
chất định tính quan trọng của hình tượng nghệ thuật, bảo đảm cho việc tiếp nhận toàn vẹn thực
tại nghệ thuật và tổ chức kết cấu tác phẩm” và “việc tổ chức không gi

an của tác phẩm văn học
thế kỉ XX có xu hướng dùng kí ức nhân vật như không gian nội tâm để triển khai cốt
truyện” [3, tr.317, 323].
Nguyễn Thái Hòa, trong Những vấn đề thi pháp của truyện, chia không gian trong tác
phẩm văn học thành các dạng: “không gian bối cảnh, không gian sự kiện, không gian tâm lí và
không gian kể chuyện” [44, tr.88]
.
Trong Dẫn luận nghiên cứu văn học, V. E. Khalizev cho rằng: “Các biểu tượng về
không gian trong tác phẩm văn học thường có ý nghĩa khái quát” [ 71, tr.82}. Tức là nó phải
chứa đựng một tư tưởng nghệ thuật, biểu đạt một nội dung xã hội, lịch sử, tư tưởng, tình cảm
nhất định. Không gian nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với cảm xúc và mang ý nghĩa nhân si
nh
của nhà văn.
Hầu hết các quan niệm về không gian nghệ thuật đều khẳng định vai trò của không gian
trong tác phẩm văn học. Đó là sản phẩm mang tính sáng tạo và chủ quan của nhà văn. Một
không gian nghệ thuật được gọi là một hình tượng không gian khi không gian ấy biểu hiện mô
hình thế giới con người.
Theo cách hiểu của chúng tôi, không gian trong tác phẩm văn học là không gian mà nghệ
sĩ cảm nhận, chiếm lĩnh và thể hiện một cách nghệ thuật trong tác phẩm. Trong tác phẩm, ta
thường bắt gặp sự hình ảnh bầu trời, mặt đất, con đường, cánh đồng, dòng sông, ngôi nhà…
Tuy nhiên, bản thân các sự vật ấy chưa phải là không gian nghệ thuật mà chỉ là không gian hiện
thực. Không gian nghệ thuật không đồng nhất với không gian hiện thực. Không gian hiện thực
chỉ là cơ sở làm nảy sinh sự nhận thức, cảm nhận về không gian của người nghệ sĩ. Không gi
an
nghệ thuật đóng vai trò quan trọng trong chỉnh thể nghệ thuật trong tác phẩm, cùng với các yếu
tố khác góp phần xây dựng nên một tác phẩm hoàn chỉnh. Nó hiện ra trong tác phẩm như là một
thành tố nghệ thuật, một hình tượng không gian. Nó mang tính chủ quan và dấu ấn sáng tạo của
nhà văn.
Không gian nghệ thuật có thể là không gian điểm, không gian tuyến, không gi
an mặt

phẳng. Không gian điểm (địa điểm) được xác định bằng các giới hạn và tính chức năng của nó,
tính đối lập của nó. Chẳng hạn như không gian quảng trường, chiến trường, đồng quê, con
đường, ngôi nhà… Còn không gian tuyến và không gian mặt phẳng có thể vươn ra chiều rộng
hay chiều thẳng đứng. Riêng không gian tuyến còn có chiều dài không liên quan đến chiều rộng
(Ví dụ như con đườn
g có tính thời gian: đường đời).
Chúng ta thường gặp các dạng không gian nghệ thuật như: không gian cụ thể (không gian
địa lí, không gian vật lí, không gian thiên nhiên, không gian vũ trụ, không gian xã hội…),
không gian ảo, không gian huyền thoại, không gian nỗi niềm… Các dạng không gian này làm
cho việc xây dựng không gian nghệ thuật trong tác phẩm thêm phong phú, độc đáo.


2. 2. Không gian trong truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway
Khi nói đến không gian trong truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway là nói đến cách
cảm nhận về thế giới, về hiện thực của E. Hemingway, mà hiện thực ở đây là hiện thực chiến
tranh. Có nghĩa là không gian trong truyện ngắn chiến tranh Hemingway là sự cảm thụ thẩm
mỹ của ông về hiện thực chiến tranh mà ông đã chứng kiến, kinh qua, cảm nhận và biểu hiện
thái độ của m
ình về hiện thực ấy qua tác phẩm.
Cũng như nhiều nhà văn khác, không gian trong truyện ngắn chiến
tranh của Hemingway có thể có nhiều dạng. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ tập trung ở dạng
không gian cụ thể. Đó là những chiếc cầu, con đường, trận địa, giao thông hào, bức tường, ngôi
nhà… được mô tả trong không khí chiến tranh tàn khốc, trong hoàn cảnh chiến sự ác liệt… Và
bối cảnh của nó là chiến tranh thế giới I, nội chiến Tây Ban Nha 1936-1938, chiến tranh vùng
Tiểu Á… Tuy nhiên, chúng t
ôi chỉ xem xét những hình ảnh nào mang ý nghĩa như một hình
tượng nghệ thuật góp phần biểu hiện nội dung, tư tưởng của tác phẩm mà người ta có thể hình
dung được một hiện thực chiến tranh khốc liệt. Cụ thể hơn, chúng tôi chỉ khảo sát những hình
ảnh không gian đạt đến hình tượng nghệ thuật ở phạm vi đề tài chiến tranh nhằm phát hiện ra
đặc điểm truyện ngắn chiến tranh của Hemingway.

Với cách làm ấy, chúng tôi phát hiện không gian trong truyện ngắn chiến tranh của
Hem
ingway như một cuốn phim tài liệu về chiến tranh trong thời đại chúng ta. Nó vừa có ý
nghĩa phản ánh hiện thực vừa có ý nghĩa phê phán chiến tranh sâu sắc.
Ta có thể gặp các kiểu không gian sau đây trong truyện ngắn chiến tranh của
Hemingway:
2. 2. 1. Không gian tàn phá, hủy diệt, chết chóc
Con đường, góc phố, ngôi nhà, xà lim, thị trấn, giao thông hào, trận địa… bị bom đạn
tàn phá, huỷ diệt bởi chiến tranh là không gian địa lí và vật lý được E. Hemingway thể hiện
đậm đặc trong truyện ngắn chiến tranh của ông.
Ấn tượng nhất khi đọc truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway là
hình ảnh c
ác ngôi nhà sụp đổ, bị phá hủy và đầy rẫy chết chóc: “Bức tường màu hồng của căn
nhà đối diện đổ sập đến tận nóc, và một khung giường sắt cong queo dìa ra ngoài đường. Hai
xác người Áo nằm lẫn lộn trong đống gạch vụn nơi bóng đổ của căn nhà. Phía trên đường có
những xác chết khác nữa. Trong thành phố mọi thứ đều hỗn độn” (Chương 7) [53, tr.14].

Không gian ngôi nhà, không gian sinh sống của con người, trở thành không gian chiến trường
ác liệt. Cảnh tượng thật tang thương. Hemingway không nói nhiều, tả nhiều. Song bấy nhiêu
hình ảnh đã lột tả hết sự tàn khốc của chiến tranh.
Ngôi nhà thường là không gian để sống, để sum vầy, là không gian của gia đình, không
gian của sự đoàn tụ, hạnh phúc
… Song trong truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway, ngôi
nhà không phải là không gian để sống và càng không phải không gian của mái ấm, gia đình và
hạnh phúc, là không gian quần tụ của cộng đồng. Nó chỉ là nơi tránh đạn, là nơi trú ẩn, là chỗ
để phục kích, nơi để làm phim về chiến tranh với mục đích nào đó (Đêm trước trận đánh,
Cảnh vật muôn màu), là chỗ bị bao vây (Không có ai chết) và luôn bị đối phương phá hủy:

Dù sao đi nữa chúng đã pháo sập ngôi nhà một cách nhanh chóng trong vòng một phút.
Chúng tấn công tới, ngôi nhà bị phá hủy. Phải nín thở giữa những đợt tấn công ồ ạt và tiếng

đạn nổ ầm ầm. Đến lượt cuối cùng, chúng tôi đợi ít phút quan sát xem chúng ngừng pháo để
uống nước từ một vòi nước của chậu rửa bát trong nhà bếp (Cảnh vật muôn màu) [96, tr.673].
Trong không gian đó, người ta chỉ làm một điều duy nhất: tìm mọi cách để tồn tại.

×