Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Phân tích đối tượng điều chỉnh của Luật hành chính và cho ví dụ minh họa?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.67 KB, 4 trang )

Bùi Thị Hương - 342140
LHC.BTCN1: Phân tích đối tượng điều chỉnh của Luật hành chính và cho ví dụ minh
họa?
A. LỜI MỞ ĐẦU: Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là những nhóm quan hệ xã
hội xác định. Đối tượng điều chỉnh của Luật hành chính là những quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực quản lí nhà nước (hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước)
được những quy phạm pháp luật điều chỉnh.
1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
Có thể định nghĩa Luật hành chính dưới dạng chung nhất là: “tổng thể những quy
phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh, phát triển trong lĩnh vự quản
lí nhà nước. Tức là những quan hệ xã hội phát sinh, phát triển trong quá trình tổ chức và
thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan nhà nước”.
(2)
Nội dung của quan hệ này thể hiện: Việc thành lập, cải tiến cơ cấu bộ máy, cải
tiến chế độ làm việc, hoàn chỉnh các quan hệ công tác của các cơ quan nhà nước. Hoạt
động quản lí kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự xã hội
trên cả nước, ở từng địa phương hay từng ngành. Trực tiếp phục vụ các nhu cầu về vật
chất và tinh thần của nhân dân. Hoạt động kiểm tra, giám sát đối với việc thực hiện
pháp luật của các cơ quan, đơn vị trực thuộc, các tổ chức và cá nhân. Xử lí các cá nhân,
tổ chức có hành vi vi phạm trật tự quản lí hành chính.
(3)
Các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật hành chính được chia làm 3
nhóm sau:
Nhóm thứ nhất: Nhóm quan hệ xã hội phát sinh hoạt động chấp hành – điều hành,
của cơ quan quản lí nhà nước. Đây là nhóm lớn nhất và do đó quan trọng nhất.
Nhóm quan hệ xã hội này là đối tượng điều chỉnh cơ bản của luật hành chính.
Thông qua việc thiết lập những quan hệ loại này, các cơ quan hành chính nhà nước thực
hiện chức năng cơ bản của mình. Những quan hệ loại này rất phong phú, chủ yếu là
những quan hệ:
- Giữa cơ quan hành chính cấp trên với cơ quan hành chính cấp dưới theo hệ thống


chiều dọc ( giữa chính phủ với UBND TP HÀ NỘI) hoặc với các cơ quan chuyên môn
11,
Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Khoa Luật- ĐHQG HN, NXB, ĐHQG.
2
Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Khoa Luật- ĐHQG HN, NXB, ĐHQG.
3
Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Đại học Luật HN, NXB, CAND, 2008.
Luật hành chính
1
Bùi Thị Hương - 342140
thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh (Bộ giáo dục và đào tạo với sở giáo dục và đào tạo các
tỉnh, thành phố).
- Giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung với cơ quan hành chính
nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp (chính phủ và bộ công an) hoặc với cơ
quan trực thuộc nó (Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng yên với Sở tư pháp tỉnh Hưng Yên).
- Giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương với
cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp tỉnh nhằm thưch hiện chức
năng theo pháp luật (Bộ tư pháp với ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên).
- Giữa những cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn ở trung
ương, cơ quan này có một số quyền hạn đối với các cơ quan kia trong lĩnh vực quản lí
chức năng nhất định. Song giữa các cơ quan đó không có sự lệ thuộc về mặt tổ chức.
Trong các quan hệ loại này, chủ thể quản lí là cơ quan chuyên môn có chức năng tổng
hợp, phụ trách một lĩnh vực chuyên môn như: cơ quan tài chính, lao động – thương binh
và xã hội… Các cơ quan này có quyền hạn nhất định đối với các cơ quan chuyên môn
khác trong các lĩnh vực chuyên môn mà họ phụ trách (Bộ tài chính và Bộ tư pháp).
- Giữa cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương với các đơn vị trực thuộc trung
ương đóng tại địa phương đó ( UBND quận Đống Đa với trường Đại học Công Đoàn).
- Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị cơ sở trực thuộc ( Bộ ngoại
giao và trường Học viện ngoại giao).
- Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần

kinh tế ngoài quốc doanh. Các tổ chức kinh tế này được đặt dưới sự quản lí thường xuyên
của các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền (UBND với các hộ kinh doanh các
thể, tiểu chủ, hộ gia đình trên địa bàn).
- Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức xã hội (Chính phủ và Hội chữ
thập đỏ).
- Giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân, người nước ngoài, người
không quốc tịch ( như giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với người lạo động là
người nước ngoài).
Nhóm thứ hai: Những quan hệ xã hội mang tính chất chấp hành – điều hành phát sinh
trong hoạt động xây dựng, tổ chức công tác nội bộ của các cơ quan nhà nước khác.
Luật hành chính
2
Bùi Thị Hương - 342140
Mỗi loại cơ quan nhà nước có chức năng cơ bản riêng và để hoàn thành chức năng
cơ bản của mình, các cơ quan nhà nước phải tiến hành những hoạt động quản lí hành
chính nhất định. Đặc điểm của nhóm này là thể hiện những quan hệ giữa cấp trên với cấp
dưới (như giữa Thủ tướng và Bộ trưởng bộ tư pháp) hay giữa thủ trưởng với nhân viên
(như thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và nhân viên của mình).
Để cơ quan nhà nước có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình, hoạt động quản lí nội
bộ cần được tổ chức tốt, đặc biệt là những hoạt động như kiểm tra nội bộ, nâng cao trình
độ nghiệp vụ của cán bộ, phối hợp giữa các hoạt động của cơ quan… Hoạt động tổ chức
nội bộ giữ vai trò đặc biệt quan trọng, tạo điều kiện cần thiết cho các cơ quan nhà nước
thực hiện tốt chức năng cơ bản của mình. Tuy nhiên, nếu bộ máy nhà nước dành quá
nhiều thời gian và sức lực cho công tác tổ chức nội bộ thì hiệu quả quan lí sẽ giảm sút.
Nhóm thứ ba: Những quan hệ xã hội mang tính chất chấp hành-điều hành phát sinh
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước khác hoặc tổ chức xã hội khi được nhà
nước trao quyền thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
Trong thực tiễn quản lí hành chính nhà nước, trong nhiều trường hợp, pháp luật có
thể trao quyền thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành cho các cơ quan nhà nước khác
(không phải là cơ quan hành chính nhà nước), các tổ chức hoặc cá nhân. Hoạt động trao

quyền được tiến hành trên cơ sở những lí do khác nhau: chính trị, tổ chức, đảm bảo hiệu
quả… Vì vậy, hoạt động quản lí hành chính nhà nước không chỉ do các cơ quan hành
chính nhà nước tiến hành. Hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân
được trao quyền có tất cả những hậu quả pháp lí như hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước nhưng chỉ trong khi thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành cụ thể được
pháp luật quy định. Xem xét vấn đề từ hướng khác cho thấy, cơ quan hành chính nhà
nước không chỉ thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành mà cả hoạt động tài phán
trong những trường hợp nhất định.
C. KẾT BÀI. Việc xác định đối tượng điều chỉnh của luật hành chính là vấn đề quan
trọng. Cần lưu ý rằng, hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan quản lý nhà
nước là bộ phận cơ bản và quan trọng nhất trong đối tượng điều chỉnh của Luật hành
chính. Nhưng không phải mọi hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước đều do Luật
hành chính điều chỉnh.
Luật hành chính
3
Bùi Thị Hương - 342140
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội 2008.
2. Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Khoa Luật ĐHQGHN, Nxb. ĐHQGHN.
3. Sinhvienluat.vn
Luật hành chính
4

×