Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Vai trò của hoạt động thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và giá trị pháp lý của Báo cáo thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.69 KB, 10 trang )

MỞ BÀI
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X đã ghi nhận quan điểm về
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN do dân vì dân với mục tiêu chiến lược
phát triển là đưa đất nước ta đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước công
nghiệp, hiện đại. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng đã chỉ rõ phải “đổi mới và hoàn
thiện khung pháp lý”, thực hiện phương châm “Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật. Mọi cơ quan tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ
chấp hành Hiến pháp và pháp luật”, đòi hỏi văn bản pháp luật, trong đó văn bản
quy phạm pháp luật (VBQPPL) được ban hành cần đảm bảo không chỉ về số
lượng mà còn đảm bảo cả về chất lượng của chúng. Có thể thấy, chất lượng
VBQPPL được ban hành phụ thuộc rất nhiều vào việc tuân thủ chặt chẽ quy trình
soạn thảo và ban hành VBQPPL, một trong những khâu quan trọng cơ bản đó là
hoạt động thẩm định và báo cáo thẩm định dự báo VBQPPL. Chính vì vậy, nhóm
chúng em chọn đề tài số 3 “Vai trò của hoạt động thẩm định dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật và giá trị pháp lý của Báo cáo thẩm định dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật. Cho ví dụ minh họa.”
I. HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH DỰ THẢO VBQPPL:
1. Khái niệm:
Với cách hiểu thông thường, Từ điển Giáo dục Khoa học Tiếng Việt năm
2006 giải thích “thẩm định” là “xem xét để xác định”.
Dưới góc độ pháp lý, theo Tù điển Luật học do Viện khoa học pháp lí Bộ
Tư pháp biên soạn thì “thẩm định có nghĩa là việc xem xét, đánh giá và đưa ra kết
luận mang tính pháp lí bằng văn bản về một vấn đề nào đó. Hoạt động này do tổ
chức và cá nhân có chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện…Việc thẩm định có thể tiến
hành với nhiều đối tượng khác nhau như: thẩm định dự án, thẩm định báo cáo
thẩm định hồ sơ, thẩm định thiết kế, thẩm định đồ án thiết kế quy hoạch..”
Còn Quy chế thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL ban hành theo Quyết định
số 05/2007/QĐ-TTg ngày 10/01/2007 của Thủ tướng Chính Phủ định nghĩa hoạt
động dự thảo VBQPPL là hoạt động “xem xét đánh giá về nội dung hình thức của
dự án, dự thảo nhằm đame bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đông bộ
của dự án, dự thảo trong hệ thống pháp luật”. Đây có thể coi là cách tiếp cận thể


hiện rõ nét nhất bản chất cũng như đặc trưng của hoạt động thẩm định.
2. Đối tượng và chủ thể của hoạt động thẩm định :
Đối tượng của hoạt động thẩm định ở trung ương được quy định chi tiết ở
Luật Ban hàn văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và một số văn bản có liên
quan. Theo đó, chỉ có một số dự thảo sau cần thẩm định: dự thảo Luật, pháp lệnh;
Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội (Điều 36 Luật ban hành VBQPPL); dự thảo
nghị quyết của Chính Phủ ( Khoản 1, Diều 63 Luật ban hành VBQPPL); dự thảo
quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Khoản 3, Điều 67 Luật ban hành VBQPPL);
thông tư của Bộ trượng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, các văn bản liên tịch khác.
Cũng theo quy định của pháp luật hiện hành thì chủ thể có quyền tiến hành
hoạt động thẩm định ở trung ương gồm: Bộ Tư pháp hoặc Hội đồng thẩm định
pháp chế của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan chủ trì soạn thảo (Khoản 6, Điều 36
Nghị định 24/CPquy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật ban
hành VBQPPL).
3. Quy trình tiến hành hoạt động thẩm định :
Quy trình hoạt động thẩm định dự thảo VBQPPL được quy định tại điều 36
Luật ban hành VBQPPL và được cụ thể hóa tại quy chế thẩm định dự thảo
VBQPPL ban hành theo Quyết định số 05/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ. Theo đó, hoạt động này bao gồm các bước như sau:
Thứ nhất, soạn thảo chuẩn bị hồ sơ và gửi hồ sơ thẩm định.
Thứ hai, phân công nghiên cứu thẩm định.
Thứ ba, tổ chức nghiên cứu dự thảo hoàn thiện và gửi văn bản thẩm định.
II. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH VBQPPL:
Trong thời gian qua, đặc biệt là hơn hai thập kỉ của thời kì đổi mới, Việt
Nam đã có những bước tiến quan trọng trong hoạt động xâu dựng pháp luật. Hiện
nay, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động xây dựng đã dần
dần xác lập được một quy trình tương đối hợp lí, dân chủ và đồng bộ về thủ tục
trình tự soạn thảo, ban hành VBQPPL. Vai trò của hoạt động thẩm định đã được
ghi nhận và đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau:
Thứ nhất, thẩm định dự thảo VBQPPL của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền nói chung và cơ quan nhà nước ở trung ương nói riêng là một giai đoạn
quan trọng, không thể thiếu trong quy trình ban hành VBQPPL. Đây là khâu cuối
cùng trước khi cơ quan, người có thẩm quyền chính thức xem xét, ban hành văn
bản ( đối với dự thảo nghị định của Chính phủ; quyết định của Thủ tướng Chính
phủ; Thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ) hoặc trước khi
Chính phủ xem xét thông qua để trình Quốc hội (đối với dự án Luật, Nghị quyết
của Quốc hội).
Thứ hai, hoạt động thẩm định còn là căn cứ, cơ sở, chuẩn mực đánh giá dự
thảo VBQPPL, góp phần đảm bảo tính khả thi của VBPL. Với tư cách là cơ quan
tham mưu, là “người gác cổng” các chủ thể có thẩm quyền tiến hành hoạt động
thẩm định, có trách nhiệm đưa ra những đánh giá, xem xét rất cơ bản và trung
thực giúp cơ quan hữu qua tiếp cận được dự thảo VBQPPL một cách nhanh nhất
sâu nhất, có trọng tâm nhất. điều đó thực sự giúp trả lời nhanh chóng, chính xác
và thỏa đáng câu hỏi “đồng ý hay không” đối với mọi vấn đề của dự thảo, giúp
VBQPPL được thông qua thuận lợi. Mặt khác cùng với việc cung cấp thông tin về
dự thảo dưới góc độ vừa toàn diện vừa mang tính chuyên môn thẩm định. Đây
còn là cơ sở để giải thích thuyết phục những ý đồ lập pháp, là cơ sở để giải thích
luật sau này. Chỉ thông qua công tác thẩm định, cơ quan có thẩm quyền mới đánh
giá dược những mặt được và chưa được của các dự thảo VBQPPL và từ đó đảm
bảo tính khả thi cũng như đề ra biện pháp thích hợp để nâng cao chất lượng dự
thảo.
Thứ ba, thẩm định còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cơ quan
soạn thảo. Đóng vai trò là hoạt động kiểm định lại kết quả làm việc của cơ quan
chủ trì, soạn thảo, thẩm định góp phần không nhỏ trong việc nâng cao trách
nhiệm của cơ quan này. Những tham vấn trong báo cáo thẩm định được cơ quan
chủ trì soạn thảo tiếp thu kịp thời sửa đổi bổ sung đã mang lại chất lượng cao hơn
cho dự thảo cũng như hiệu quả làm việc của cơ quan này. Từ đó, cơ quan chủ trì
soạn thảo dần đân hoàn thiện hơn cả về kĩ năng lẫn trách nhiệm trong quả trình
soạn thảo VBQPPL.
Thứ tư, thẩm định còn là cơ chế đảm bảo, nâng cao sự phối hợp và giám

sát lẫn nhau của các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động ban hành văn bản
quy phạm pháp luật- một khía cạnh của hoạt động quản lý nhà nước. Thẩm quyền
thẩm định được giao cho những chủ thể nhất định nhưng hoạt động này đòi hỏi sự
phối hợp nhịp nhàng và ăn khớp của hầu hết các chủ thể thâm gia vào quá trình
xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Các bước từ chuẩn bị dự án,
lập dự thảo đến trình dự án Luật đều ảnh hưởng đến khâu thẩm định và ngược lại
kết quả thẩm định cũng có tác động không nhỏ đến các giai đoạn trên. Có thể
đánh giá một cách chung nhất, các cơ quan có thể ban hành văn bản quy phạm
pháp luật nhanh chóng, thuận lợi là nhờ một quy trình thẩm định tương đối hợp lí
và khoa học. Nếu thẩm định không chuẩn xác và được tiến hành không đảm bảo
yêu cầu về mặt chuyên môn sẽ mangđến cho chủ thể có thẩm quyền khác trong
hoạt động soạn thảo những bức xúc, mâu thuẫn, ảnh hưởng đến chất lượng các
văn bản quy phạm pháp luật được ban hành. Ở góc độ khác, khi có sự tham gia
cảu Hôi đồng thẩm định các chủ thể có thẩm quyền trong soạn thảo văn bản còn
nâng cao được ý thức trách nhiệm của mình, từ đó hoàn thành tốt và ngày càng
hoàn thiện hơn nữa công việc được giao.
Ngày 16/12/2009, đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội rút ngẫu nhiên
ba hồ sơ do Sở Tư pháp thẩm định thì thấy cả ba hồ sơ đều không có biên bản tổng
hợp ý kiến, giải trình của các đơn vị liên quan góp ý vào dự thảo quyết định, Sở Tư
pháp chỉ làm nghĩa vụ thẩm định về hình thức văn bản, trong khi nội dung còn sơ
sài. Ông Nguyễn Tiến Dũng, Phó Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội thành phố yêu
cầu Sở Tư pháp phải nghiêm túc tiến hành đúng quy trình, cách thức thẩm định
làm tốt vai trò tham mưu trong quá trình xây dựng và ban hành quyết định chỉ thị
của Ủy ban nhân dân.
(1)
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động thẩm định dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật, Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành Quyết định số
05/2007/QĐ-TTg ngày 10 tháng 01 năm 2007 kèm theo là Quy chế thẩm định dự
án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Tiếp đó, Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố (như: Nghệ An, Bình Định, Quảng Ninh…) cũng ban hành các Quyết

định Ban hành Quy chế thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trên địa
1()
/>

×