Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cho sinh viên ngành y, dược hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (778.87 KB, 108 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




NGUYỄN THỊ KÍNH






TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC RÈN LUYỆN VÀ TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC
CHO SINH VIÊN NGÀNH Y, DƯỢC HIỆN NAY






LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC











HÀ NỘI - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ




NGUYỄN THỊ KÍNH





TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC RÈN LUYỆN VÀ TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC
CHO SINH VIÊN NGÀNH Y, DƯỢC HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC




Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80



Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HIỀN LƯƠNG






HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH 8
1.1. Những tiền đề, điều kiện hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh 8
1.1.1. Đạo đức truyền thống Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại,
cơ sở hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 8
1.1.2. Đạo đức học Mác-Lênin, cơ sở lí luận hình thành tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh 14
1.1.3. Hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh với sự hình thành tư
tưởng đạo đức của Người 17
1.2. Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 19
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vai trò, vị trí
của đạo đức cách mạng 20
1.2.2. Những chuẩn mực đạo đức mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh 24

1.2.3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo tư tưởng Hồ Chí
Minh 37
1.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về đạo đức người cán bộ y tế 43
Chương 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
NGÀNH Y, DƯỢC VIỆT NAM HIỆN NAY 49
2.1. Đặc điểm và vai trò của sinh viên ngành y, dược trong sự
nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay 49
2.1.1. Đặc điểm của sinh viên 49
2.1.2. Vai trò của sinh viên trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam 51
2.2. Thực trạng vấn đề đạo đức của sinh viên ngành y, dược hiện
nay 58
2.2.1. Những kết quả trong công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên
ngành y, dược những năm qua 58


2.2.2. Những hạn chế trong giáo dục đạo đức cho sinh viên ngành y,
dược những năm qua 64
2.3. Một số giải pháp nâng cao giáo dục đạo đức cho sinh viên ngành y,
dược theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 69
2.3.1. Rèn đức luyện tài cho sinh viên là yêu cầu khách quan trong sự
nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay 69
2.3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
đạo đức cho sinh viên ngành y, dược hiện nay 75
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98

1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lỗi
lạc của dân tộc Việt Nam, Người đã dành cả cuộc đời cống hiến cho sự
nghiệp cách mạng Việt Nam. Những tư tưởng của Người đã soi sáng con
đường cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Những tư tưởng đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị và vẫn
được Đảng ta lấy làm kim chỉ nam cho mọi hành động. Trong cương lĩnh xây
dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng ta đã xác định: tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa làm cho thế
giới quan Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống
tinh thần của xã hội.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa của nước ta hiện nay,
thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng giữ vai trò quan trọng. Đó là lực
lượng to lớn, luôn đi đầu trên tất cả các lĩnh vực, là lực lượng quyết định
tương lai của đất nước. Đảng ta đã khẳng định: sự nghiệp đổi mới có thành
công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong
cộng đồng thế giới hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên,
vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên. công tác thanh niên là vấn đề
sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của
dân tộc.
Sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi phải có
những con người có tri thức khoa học kỹ thuật, đồng thời cũng phải có những
phẩm chất đạo đức tốt. Vì vậy, bên cạnh việc giáo dục trang bị những tri thức
khoa học kỹ thuật cho người học cần phải tiến hành song song việc hoàn thiện
nhân cách, phẩm chất đạo đức, đặc biệt là đối với sinh viên - những chủ nhân
tương lai của đất nước.

2
Hiện nay, đất nước ta đang mở cửa giao lưu hội nhập với thế giới, nền
kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền

kinh tế thị trường có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, mặt khác
nó cũng có những tác động tiêu cực ảnh hưởng xấu tới đời sống xã hội. Sự
mở cửa nền kinh tế làm cho hàng loạt những luồng tư tưởng mới tràn vào
trong nước, trong đó không phải tất cả đều phù hợp và tốt cho người Việt
Nam. Bên cạnh những tư tưởng tiến bộ thì cũng có không ít những quan niệm
lệch lạc lai căng, không phù hợp với thuần phong mĩ tục của dân tộc. Những
quan niệm đó tác động tiêu cực đến đời sống xã hội, làm suy thoái đạo đức
trong một bộ phận dân cư, đặc biệt là học sinh, sinh viên.
Từ thực tiễn nêu trên cho thấy, giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh
viên theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là vô cùng cần thiết, đặc biệt là
trong điều kiện hiện nay khi Đảng ta đã phát động toàn dân học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh . Chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài
luận văn của mình là: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc rèn luyện và tu
dưỡng đạo đức cho sinh viên ngành y, dược hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng đạo đức
của Người nói riêng đã được tiến hành từ lâu và được rất nhiều tác giả quan
tâm đến. Trong những năm gần đây càng có nhiều tác giả viết về vấn đề này
hơn.
Tác phẩm “Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh” của Trần
Văn Giàu, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1997) đã đi phân tích điều kiện
kinh tế - xã hội nơi Hồ Chí Minh sinh sống từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, phân tích làm rõ bối cảnh quê hương của Hồ Chí Minh lúc bấy giờ. Qua
đó để thấy rõ những ảnh hưởng từ truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình
đến việc hình thành nhân cách của Hồ Chí Minh. Đồng thời, tác phẩm cũng
phân tích để thấy rõ hơn ảnh hưởng của truyền thống yêu nước, lịch sử vẻ

3
vang của quê hương xứ Nghệ với lớp lớp các thế hệ danh nhân cũng như
những anh hùng của quê hương trong việc hình thành nhân cách và đạo đức

của Hồ Chí Minh.
Tác phẩm “Văn hoá, đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh” của Bùi
Đình Phong, Nhà xuất bản Công an nhân dân (2008) cũng đã đi phân tích để
thấy rõ những đặc trưng bản chất trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đó là
nguyên tắc “ở đời và làm người”. Đồng thời, tác giả cũng đã đi phân tích để
thấy rõ tính thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là sự thống nhất giữa
tư tưởng chính trị và tư tưởng đạo đức, giữa tư tưởng và hành động, giữa đức
và tài. Tác phẩm cũng đã làm rõ về tính toàn diện trong tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh và những giá trị của những tư tưởng đó trong phạm vi dân tộc và
nhân loại.
Tác phẩm “Mãi mãi học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2008) đã khai thác nội dung tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thông qua ba phần chính. Phần một là những trích
đoạn và những bài viết của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng. Phần hai là
những nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thông qua nhiều bài viết của
nhiều tác giả khác nhau, ở những khía cạnh khác nhau của đạo đức cách mạng.
Phần ba bao gồm những câu chuyện kể về tấm gương đạo đức của Hồ Chí
Minh được sưu tầm từ lời kể của nhiều người và từ nhiều cuốn sách khác nhau.
Tác phẩm “Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” của Ban tư tưởng văn hoá trung ương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
(2007) đã tập trung vào việc nghiên cứu đạo đức là gì, vai trò và những ảnh
hưởng của nó trong đời sống xã hội, những chức năng nói chung của đạo đức.
Tác phẩm cũng đã đi phân tích thực trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của
một bộ phận cán bộ, đảng viên; đưa ra những nguyên nhân của tình trạng suy
thoái đó. Tác phẩm cũng đã nêu lên những yêu cầu của việc giáo dục đạo đức
trong thời kỳ mới.

4
Tác phẩm “Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống mấy vấn đề lí luận
và thực tiễn” của Lê Văn Tích, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2008) đã phân

tích sự ảnh hưởng của của bối cảnh kinh tế - xã hội, sự tác động qua lại của các
yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá đối với sự chuyển đổi tư tưởng, đạo đức, lối
sống của con người. Tác giả cũng đã phân tích để cho thấy những yếu tố tạo
nên sự bền vững của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là ở chỗ, Hồ Chí Minh đã
tìm được sự thống nhất biện chứng giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc
và quốc tế… Hơn nữa, Hồ Chí Minh cũng tin tưởng vào việc có thể chuyển đổi
được đạo đức, lối sống của con người phù hợp với thời đại. Qua tác phẩm này
tác giả cũng đã phân tích và nhấn mạnh tới yếu tố truyền thống trong tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh và những ảnh hưởng của yếu tố truyền thống trong việc
nâng cao đạo đức cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” của tác giả Lê Trọng Ân,
đăng trên Tạp chí Triết học, số 1- 2005 đã phân tích giá trị nhân sinh quan
trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và tác dụng của nó trong việc hình thành
nhân cách sống của con người, nhất là đối với những chiến sĩ cách mạng. Bài
viết cũng đã khái quát những nội dung cơ bản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
và khẳng định sự cần thiết của việc học tập tư tưởng đạo đức của Người.
Bài “Tính cách mạng trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” của tác giả
Vũ Văn Thuấn, Tạp chí Triết học, số 10- 2005 đã đi phân tích để thấy rõ
những điểm vĩ đại của đạo đức cách mạng, những điểm đối lập giữa đạo đức
cách mạng với nền đạo đức cũ- đạo đức duy tâm và chỉ được nêu lên nhưng
không được thực hiện. Qua đó, tác giả khẳng định giá trị to lớn của đạo đức
cách mạng trong sự nghiệp đổi mới của đất nước ta.
Bài “Đạo đức mới - đạo đức cách mạng từ các cách tiếp cận khác nhau”
của tác giả Trịnh Duy Huy, Tạp chí Triết học, số 1- 2006 đã phân tích và cho
thấy đạo đức Tư sản là sự đối lập giữa những giá trị đạo đức đã được nêu lên
và việc thực hiện nó, từ đó khẳng định sự tiến bộ của đạo đức cộng sản. Bài

5
viết cũng đã phân tích đạo đức mới dưới góc độ nhận thức luận, giá trị nhân
cách và những chức năng cơ bản của nó.

Bên cạnh những tác phẩm nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh, trong những năm qua cũng có nhiều tác giả và nhiều bài viết nghiên
cứu về tình hình đạo đức thanh niên và công tác giáo dục đạo đức đối với
thanh niên Việt Nam.
Tác phẩm “Cơ sở lí luận và thực tiễn của chiến lược phát triển thanh
niên” của Chu Xuân Việt đã dành một phần để khái quát những khái niệm
chung về thanh niên. Tác phẩm cũng đã trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về
thanh niên ở những khía cạnh khác nhau. Thứ nhất là sự nhìn nhận và đánh
giá vai trò, vị trí của thanh niên trong tiến trình lịch sử, qua các thời kỳ cách
mạng. Thứ hai là đường lối, nội dung giáo dục bồi dưỡng thanh niên thành
lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Thứ ba là nhiệm
vụ công tác thanh niên của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh - với chức năng là cánh tay phải và đội hậu bị của
Đảng trong công tác giáo dục và rèn luyện thanh niên. Tác phẩm cũng đã cho
thấy sự tin tưởng của Hồ Chí Minh đối với thế hệ thanh niên, sự nhìn nhận và
đánh giá một cách toàn diện của Người đối với vấn đề thanh niên, sự quan
tâm giáo dục toàn diện cho thanh niên, đặc biệt là giáo dục đạo đức.
Ngoài những tác phẩm và những bài viết nêu trên, còn rất nhiều tác
phẩm và những bài viết của các tác giả khác. Những tác phẩm đó đã đề cập
một cách toàn diện hay những khía cạnh khác nhau về tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh cũng như công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên nói chung và
cho sinh viên nói riêng . Nhưng nhìn chung, chưa có tác phẩm nào tập trung
nghiên cứu riêng về vấn đề rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cho sinh viên
ngành y, dược theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Vì vậy, qua luận văn này,
tác giả muốn đi sâu tìm hiểu và phân tích để làm rõ một cách hệ thống những
luận điểm cơ bản trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và công tác giáo dục

6
đạo đức cho sinh viên ngành y, dược Việt Nam hiện nay theo tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh.

3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
và vai trò của những tư tưởng đó với việc rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cho
sinh viên ngành y, dược Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Phân tích điều kiện, tiền đề hình thành và những nội dung cơ bản
trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
+ Phân tích làm rõ những kết quả và hạn chế trong công tác giáo dục
đạo đức cho sinh viên ngành y, dược theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ở
nước ta những năm qua.
+ Nêu lên một số phương hướng và giải pháp trong việc vận dụng tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên ngành y, dược Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng và công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên ngành y, dược Việt Nam
theo tư tưởng đạo đức của Người.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận văn chỉ nghiên cứu tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh thông
qua những bài viết, những việc làm của Người.
+ Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu công tác giáo dục đạo đức cho
sinh viên ngành y, dược Việt Nam theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh từ khi
đất nước đổi mới đến nay.

7
5. Cơ sở lí luận và phương pháp luận
5.1. Cơ sở lí luận
Luận văn được triển khai trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đạo đức

và vai trò của đạo đức trong xã hội.
5.2. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn sử dụng phép biện chứng duy vật, kết hợp giữa phương pháp
lôgic và lịch sử, phân tích, tổng hợp trong nghiên cứu các công trình khoa
học, các luận văn, luận án, những bài báo trong các tạp chí nói về đạo đức
sinh viên nói chung và sinh viên ngành y, dược nói riêng.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần vào việc nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc hơn
những nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với công tác
giáo dục đạo đức sinh viên ngành y, dược Việt Nam trong sự nghiệp cách
mạng của dân tộc, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Luận văn có thể trở thành
tài liệu tham khảo trong công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên ngành y,
dược hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết:
Chương 1: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Chương 2: Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong xây dựng
đạo đức cho sinh viên ngành y, dược Việt Nam hiện nay.


8
Chương 1
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

1.1. Những tiền đề, điều kiện hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
1.1.1. Đạo đức truyền thống Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại,
cơ sở hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Việt Nam cũng như bất kỳ một dân tộc nào khác trên thế giới, cũng có
một truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, một đời sống tinh thần

phong phú với những nét đặc thù riêng. Một trong những nét nổi bật nhất đó
là chủ nghĩa yêu nước và truyền thống nhân ái. Điều đó bắt nguồn từ chính
điều kiện sinh sống của dân tộc. Việt Nam nằm trong khu vực có nhiều thiên
tai, vì vậy đòi hỏi con người không những phải có nghị lực phi thường mà còn
phải có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, yêu thương đùm bọc lẫn
nhau. Những truyền thống tốt đẹp đó đã dần được hình thành, được bồi đắp và
làm giàu thêm từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó đã ăn sâu và trở thành cội rễ
trong đời sống văn hóa của người Việt.
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, ngoài việc phải gồng mình để
chống đỡ thiên tai, người Việt Nam còn phải luôn luôn chống trả các cuộc
xâm lăng của chế độ phong kiến phương Bắc. Điều này đòi hỏi sự cố kết dân
tộc, tinh thần đoàn kết cao và sự kiên cường bất khuất của mỗi người dân.
Chính điều kiện và hoàn cảnh sống như vậy đã tạo nên một dân tộc Việt Nam
với những truyền thống tốt đẹp, với tinh thần yêu nước cao cả và chủ nghĩa
nhân văn mang đậm những nét riêng. Chính chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa
nhân ái đó là hành trang tinh thần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc mang theo trong
quá trình đi tìm đường cứu nước và là cơ sở đầu tiên cho sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh sau này.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, ngay từ rất sớm, Hồ
Chí Minh đã chịu ảnh hưởng của nền giáo dục gia đình với những nguyên tắc

9
luân lý đạo đức Nho giáo như trung, hiếu, tiết, nghĩa, tam cương ngũ thường…
Hồ Chí Minh đã sớm học được ở người cha đức tính cần cù, tiết kiệm, khiêm
tốn, thật thà, sớm học được ở người mẹ lòng yêu thương con người, yêu quê
hương đất nước qua những câu ca dao tục ngữ, những câu hò điệu lý, những
câu hát ru quen thuộc. Như vậy, gia đình chính là nơi đầu tiên nuôi dưỡng tâm
hồn trong sáng của Hồ Chí Minh, là nơi đặt nền móng đầu tiên trong việc hình
thành tư tưởng đạo đức, nhân cách Hồ Chí Minh và cha mẹ chính là những tấm
gương sáng đầu tiên để Hồ Chí Minh học tập và noi theo.

Cùng với gia đình, quê hương xứ Nghệ chính là nơi tiếp nối truyền
thống gia đình trong việc vun trồng và bồi đắp tình cảm, lòng yêu quê hương
đất nước của Hồ Chí Minh. Nghệ An là vùng quê nghèo nhưng có truyền
thống hiếu học lâu đời, có truyền thống yêu nước nồng nàn, có tinh thần tự
lực tự cường cao, có ý chí kiên cường, luôn vùng dậy đấu tranh một cách
quyết liệt mỗi khi đất nước có giặc ngoại xâm. Nơi đây, trong mọi thời kỳ của
lịch sử dân tộc đã sinh ra những người con ưu tú của đất nước và những tên
tuổi đó đã đi vào lịch sử dân tộc như những tấm gương sáng chói về tài năng,
về truyền thống văn hóa và về chủ nghĩa anh hùng cách mạng như Nguyễn
Du, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu…
Hồ Chí Minh đã sinh ra và lớn lên trên vùng đất được coi là địa linh nhân
kiệt, nơi mà Giáo sư Trần Văn Giàu đã gọi là “dòng sông văn hóa”, là “Yên -
Triệu của nước Việt”. Những truyền thống tốt đẹp nhất của quê hương đã
được Hồ Chí Minh kế thừa, phát huy và nó đã trở thành một trong những nền
tảng tư tưởng đầu tiên và vững chắc cho sự hình thành tư tưởng đạo đức của
Người sau này.
Sự tiếp thu, lĩnh hội những giá trị đạo đức truyền thống của Hồ Chí
Minh là trên tinh thần chọn lọc và kế thừa những yếu tố tích cực, gìn giữ và
phát huy những nét đẹp trong truyền thống đạo đức của dân tộc, đồng thời
loại trừ những yếu tố cổ hủ, lạc hậu, cản trở sự phát triển của xã hội. Sự tiếp

10
thu những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc của Hồ Chí Minh là theo tinh
thần “gạn đục khơi trong”, chắt lọc lấy những gì tinh túy nhất từ hệ giá trị đạo
đức truyền thống. Hồ Chí Minh đã vận dụng những chuẩn mực đạo đức
truyền thống một cách khoa học, đồng thời có sự cách tân, đổi mới và bổ sung
những yếu tố mới, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh đất nước trong giai đoạn
mới. Bản thân cuộc đời và hệ thống tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chính là
biểu hiện rõ nét nhất và đầy đủ nhất cho những giá trị đạo đức truyền thống
Việt Nam.

Điều làm nên giá trị và sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung và tư tưởng đạo đức của Người nói riêng chính là sự vươn xa, tiếp cận
những giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại. Vì vậy, nghiên cứu những nguồn
gốc và cơ sở hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cần phải xem xét,
nhìn nhận từ nhiều chiều cạnh và góc độ khác nhau. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh là sự lĩnh hội, kế thừa và phát huy của nhiều tư tưởng đạo đức từ trước
đó. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng: tư tưởng của thời đại không phải tự
nhiên mọc lên như nấm sau cơn mưa, mà nó là sản phẩm, là tinh hoa của toàn
bộ các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa tư tưởng mà nhân loại đã tích lũy
được cho đến giai đoạn đó. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng đạo
đức của Người nói riêng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Phải khẳng định
rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng rất lớn, mang dấu ấn của cả Nho
giáo, Phật giáo, Lão giáo trong đó đậm nét hơn cả là dấu ấn của Nho giáo.
Khi nói về nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh Giáo sư Trần Văn
Giàu đã cho rằng: “nói Nho giáo thì đúng là có phần hẹp, hẹp là vì, nếu tôi
không lầm thì trong tác phẩm và tác phong của cụ Hồ ngoài dấu ấn của Nho
giáo còn có không ít dấu ấn của Lão giáo, của bách gia chư tử. Vậy có thể nói
rằng một trong những cội nguồn văn hoá trước tiên, hay là một trong những
tảng đá làm nền tư tưởng Hồ Chí Minh là hán học, Hán học rộng hơn là Nho
học” [22, tr.32].

11
Tuy nhiên sự kế thừa của Hồ Chí Minh đối với những tư tưởng đạo đức
Nho giáo là trên tinh thần chọn lọc những yếu tố tích cực nhất và phù hợp
nhất. Hồ Chí Minh đã tiếp thu không ít những nguyên lý, những chuẩn mực
đạo đức của Nho giáo như tinh thần trung, hiếu, tiết, nghĩa, nhân, trí, dũng,
liêm và không thể không nói đến tinh thần “tu thân” trong đạo Nho, bởi đó
chính là quá trình tự trau dồi và hoàn thiện con người về mặt đạo đức. Tu thân
là cơ sở đầu tiên để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Bên cạnh đó Hồ Chí Minh
cũng phê phán và loại bỏ những yếu tố thủ cựu, lạc hậu, tiêu cực của học

thuyết Nho giáo như tư tưởng đẳng cấp, trọng nam khinh nữ. Hồ Chí Minh đã
ứng dụng học thuyết Nho giáo vào xã hội Việt Nam một cách sáng tạo, làm
cho nó phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với thời đại mới.
Nhận xét về điều này, Giáo sư Đào Duy Anh đã cho rằng:
“Trong phong cách, phẩm cách và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
có nhiều yếu tố của Nho giáo mà chính những yếu tố Nho giáo ấy dung hòa
nhuần nhuyễn với những truyền thống ưu tú của dân tộc đã làm cho con người
Macxít - Lênin nít vĩ đại làm nhân dân thế giới ngưỡng mộ ấy cái sắc thái độc
đáo đã nói ở trên” [66, tr.28]. Hay như Giáo sư Đinh Xuân Lâm đã Nhận xét:
“dù cho còn bị hạn chế phần nào bởi khuôn khổ chật hẹp với ý thức hệ phong
kiến, nền văn hóa dân tộc vẫn thấm đượm tính nhân văn được đánh dấu một
cách sâu sắc bởi một truyền thống yêu nước chống ngoại xâm mãnh liệt, bởi
một đạo lí cao cả luôn hướng về những người lao động nghèo khổ… đó là
môi trường sống, cũng là nền tảng văn hóa của Nguyễn Sinh Cung” [33,
tr.262-263].
Bên cạnh Nho giáo, Hồ Chí Minh cũng chịu ảnh hưởng của tư tưởng
Phật giáo, đặc biệt là tư tưởng đạo đức. Hồ Chí Minh đã tiếp thu từ giáo lí nhà
Phật tinh thần từ bi hỉ xả, lòng thương yêu, khoan dung độ lượng đối với con
người, sự tin tưởng ở lòng hướng thiện của con người và luôn dùng lời lẽ để
khuyên răn, giáo dục con người. Sự tiếp thu những tư tưởng đạo đức của Phật

12
giáo càng làm sâu sắc thêm tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh.
Điều đó thể hiện rõ trong việc Người dành tình yêu thương cho tất cả mọi
người dân không phân biệt già, trẻ, gái, trai, không phân biệt đẳng cấp tầng
lớp trong xã hội. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã dành tình cảm thương yêu nhiều
nhất cho những người lao động, những người cùng khổ trong xã hội, những
người dễ bị tổn thương nhất, như người già, phụ nữ, trẻ em…
Ngoài những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên nền tảng tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh như truyền thống đạo đức dân tộc, sự ảnh hưởng sâu đậm

của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo chúng ta còn thấy trong suốt quá trình hoạt
động cách mạng Hồ Chí Minh đã không ngừng học tập, tiếp thu những tinh
hoa văn hóa của nhân loại. Trong những năm đầu tiên của thế kỷ 20, chủ
nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn đã được Hồ Chí Minh đã tiếp nhận tư
tưởng tiến bộ này và Người đã cố gắng tiếp thu nó theo cách riêng của mình,
đã phát triển các khái niệm độc lập, tự do, hạnh phúc - hạt nhân của chủ nghĩa
Tam Dân sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, lịch sử của Việt Nam,
làm cho nó mang tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc, tính cách mạng
triệt để trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh còn được biết đến
tinh thần Tự do - bình đẳng - bác ái của cách mạng phương Tây và Người đã
tìm cách để tiếp cận, tìm hiểu về tư tưởng tiến bộ đó. Quá trình tiếp thu văn
hóa phương Tây không phải là sự đoạn tuyệt với văn hóa cổ truyền Việt Nam
mà là sự bổ sung thêm về mặt kiến thức. Quá trình đó càng làm uyên bác
thêm vốn kiến thức của Người, làm cho Người hiểu rõ hơn về tình cảnh của
nhân dân lao động không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới, làm sâu sắc
thêm tình thương của Người đối với nhân dân lao động và những người bị áp
bức bóc lột.
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng đạo đức của Người nói
riêng là kết quả quá trình học tập, rèn luyện không ngừng. Quá trình học tập,

13
tiếp thu của Hồ Chí Minh đã không diễn ra một cách thụ động xuôi chiều mà
luôn có sự trao đổi, sàng lọc đối với văn hóa dân tộc. Người chỉ giữ lại và
phát huy những yếu tố tích cực, loại bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực, ảnh
hưởng xấu và cản trở sự phát triển của xã hội. Đối với văn hóa nước ngoài,
Người chỉ tiếp thu và vận dụng những yếu tố phù hợp với truyền thống dân
tộc, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước. Hồ Chí Minh đã không
lặp lại truyền thống một cách giản đơn. Người cũng không chỉ dừng lại ở việc
học tập tiếp thu từ truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam, mà đã tiếp cận

và tiếp thu từ tất cả các nền văn hóa tiên tiến nhất của nhân loại.
Hồ Chí Minh đã chắt lọc tất cả những gì tinh túy nhất từ văn hóa nhân
loại, từ tư tưởng của những con người vĩ đại. Người đã tiếp thu từ Khổng Tử
sức mạnh của đạo đức cá nhân và quá trình tu dưỡng đạo đức cá nhân, tiếp
thu từ Phật lòng từ thiện, từ Giêxu ước mơ hoàn thiện nhân cách con người,
từ Tôn Dật Tiên ý tưởng độc lập, tự do, hạnh phúc, từ chủ nghĩa Mác-Lênin
phép biện chứng duy vật. Như người đã nói:
“Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giêxu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là cách làm việc biện chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với
điều kiện nước ta.
Khổng tử, Giêxu, Mác, Tôn Dật Tiên Chẳng phải có những ưu điểm
chung đó sao? Họ đều muốn “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc
cho xã hội”. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ,
tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mĩ như những người
bạn thân thiết. Từ đó, Hồ Chí Minh đã nói rõ rằng: “tôi cố gắng làm người
học trò nhỏ của các vị ấy” [21, tr.51].
Tuy tiếp thu, học tập từ bên ngoài rất nhiều nhưng chúng ta thấy rõ
rằng, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là của riêng Hồ Chí Minh chứ không

14
phải của ai khác. Nó là sản phẩm của sự giáo dục gia đình, của truyền thống
quê hương đất nước và vẫn mang những nét độc đáo riêng rất Hồ Chí Minh.
Trong quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, Hồ Chí Minh luôn trên
tinh thần gìn giữ vốn văn hóa riêng, đặc sắc của dân tộc. Dù cho đã đi qua
nhiều trung tâm văn hóa trên thế giới, sống ở nhiều đất nước khác nhau, trong
nhiều điều kiện hoàn cảnh khác nhau nhưng Người vẫn mang trong mình cốt
cách của dân tộc Việt Nam, tinh thần của Việt Nam. Người đã không bị hòa
tan trong các nền văn hóa khác bởi Người có tấm lòng yêu nước nồng nàn

cháy bỏng, nó đã hằn sâu trong trái tim và khối óc của Người. Bản thân Hồ
Chí Minh chính là một tấm gương sáng chói về sự chống lại những văn hóa
lai căng và gìn giữ những nét đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc.
1.1.2. Đạo đức học Mác-Lênin, cơ sở lí luận hình thành tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh
Trong lịch sử đạo đức học, nhiều học thuyết đạo đức đã tồn tại hàng
ngàn năm ở cả phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên các học thuyết đó
ngoài những yếu tố tích cực, hướng tới hoàn thiện đạo đức, nhân cách con
người thì còn mang trong nó những yếu tố tiêu cực.
Ở phương Đông, tư tưởng đạo đức trong học thuyết Nho giáo của
Khổng Tử khá phổ biến và ảnh hưởng khá lớn trong đời sống tinh thần của
người dân nhiều nước. Tuy nhiên, nó còn mang tính thần bí, mang tính đẳng
cấp rõ rệt, nó ru ngủ người dân, khuyến khích con người an phận với số mệnh
đã được “ông trời” định đoạt của mình.
Với đạo đức Phật giáo, dù cho trong học thuyết của mình đã rất quan
tâm đến việc tu dưỡng và hoàn thiện nhân cách của con người, hướng con
người tránh xa những hành vi xấu thì giáo lí Phật giáo vẫn còn mang yếu tố
duy tâm khi hướng con người đến cõi Niết Bàn, cực lạc. Đạo đức Phật giáo
cũng tạo cho con người tâm lí an phận, cam chịu và con đường để thoát khỏi

15
mọi khổ đau là cắt đứt với việc đời, việc người, tu hành để đến cõi Niết Bàn,
đến miền cực lạc.
Ở phương Tây, mặc dù trong thời kỳ cận đại đã có nhiều tư tưởng đạo
đức khá tiến bộ. Nhưng phổ biến nhất trong xã hội vẫn là tư tưởng đạo đức
Thiên Chúa giáo. Mặc dù sức hút và ảnh hưởng của nó hầu như lan tỏa trong
khắp xã hội, nhưng xét về bản chất, nó là một học thuyết mang tính chất duy
tâm tôn giáo, nó xoa dịu những nỗi đau trong thực tại của con người bằng
cách hướng họ đến một thế giới bên kia, một thế giới của Chúa sau khi đã
chết đi. Tư tưởng đạo đức Thiên Chúa giáo cũng làm triệt tiêu tinh thần đấu

tranh của con người để giành lấy một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Như vậy, hầu như tất cả những học thuyết đạo đức trong truyền thống
bên cạnh những tác dụng tích cực trong việc điều chỉnh hành vi của con người
thì vẫn còn mang trong nó những yếu tố duy tâm chủ nghĩa hoặc mang tính chất
tôn giáo, chưa chỉ ra được con đường hiện thực để đưa con người thoát khỏi sự
bất công trong xã hội, thoát khỏi ách áp bức bóc lột của các tầng lớp trên.
Với quan niệm duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng đạo đức
là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, có tác dụng điều chỉnh
hành vi của con người trong các mối quan hệ xã hội. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã
kiên quyết gạt bỏ những học thuyết đạo đức có tính chất tôn giáo và duy tâm
chủ nghĩa, những học thuyết đạo đức được rút ra từ những nguồn gốc phi lịch
sử và cũng đã chứng minh rằng đạo đức mang tính lịch sử, mỗi giai đoạn lịch
sử thì quan niệm về đạo đức cũng khác nhau.
Đạo đức học Mác-Lênin chỉ ra rằng, đạo đức của xã hội, một mặt do
điều kiện kinh tế - xã hội lúc bấy giờ quy định, mặt khác nó cũng có mối quan
hệ với các hình thái ý thức xã hội khác và chịu sự tác động của các hình thái ý
thức xã hội đó. Điều đó cho phép chúng ta giải thích một cách đúng đắn, khoa
học những hiện tượng đạo đức trong xã hội, đồng thời cũng cho phép con

16
người tìm ra những con đường, những biện pháp khoa học để hoàn thiện đạo
đức xã hội.
Tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra rằng, con người
muốn có đời sống tốt đẹp trong xã hội, một đời sống vật chất đầy đủ, một đời
sống tinh thần lành mạnh và phong phú, một cuộc sống gia đình hạnh phúc thì
phải tiến hành cuộc đấu tranh để xoá bỏ chế độ bất công, tổ chức một xã hội
mới. Cuộc sống hạnh phúc và tốt đẹp của con người do chính con người quyết
định chứ không phải do bất kì một đấng siêu nhiên nào sáng tạo ra.
Như vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra cho con người một con đường
đúng đắn nhất, hiện thực nhất để có một cuộc sống tốt đẹp hơn bằng chính

tinh thần đấu tranh, bằng chính sự lao động của mình, con người có thể làm
chủ cuộc sống của mình. Đạo đức học Mác-Lênin đã cổ vũ cho tinh thần đấu
tranh, tinh thần lao động và phấn đấu hết mình cho một xã hội tốt đẹp của
quần chúng nhân dân lao động.
Quan điểm đạo đức của chủ nghĩa Mác-Lênin mang tính tích cực rõ rệt.
Quan niệm đó được rút ra từ thực tiễn đời sống xã hội, từ việc phản ánh tư
tưởng đạo đức cách mạng phù hợp với hoàn cảnh mới và thời đại mới. Đạo
đức của chủ nghĩa Mác-Lênin là đạo đức hướng đến việc mang lại lợi ích và
công bằng đến với mọi người dân lao động. Đó là đạo đức mang lại quyền lợi
cho số đông trong xã hội, là đấu tranh để giải phóng con người khỏi ách áp
bức bóc lột. Đó là quan điểm đạo đức tiên tiến nhất lúc bấy giờ.
Hồ Chí Minh đã bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa nhân đạo cao
cả của nhân loại, đấu tranh vì quyền lợi của nhân dân lao động, đó là điều mà
Hồ Chí Minh đang mong mỏi và cũng đã bỏ nhiều công sức để tìm kiếm. Sự
bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin đã khiến cho những nền tảng đạo đức căn bản là
lòng yêu nước thiết tha cháy bỏng, lòng yêu thương con người sâu sắc ở Hồ
Chí Minh có điều kiện phát triển. Tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác-Lênin
cũng là cơ sở quan trọng để tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giải quyết một

17
cách thấu đáo, hợp lí mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa cá nhân và xã
hội. Qua nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở
nên khoa học hơn, dần được hoàn chỉnh thêm và được tăng thêm sức sống.
1.1.3. Hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh với sự hình thành tư
tưởng đạo đức của Người
Sẽ là không đầy đủ nếu ta chỉ xét đến những nhân tố khách quan mà
không xét đến nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến quá trình hình thành tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh. Bản thân Hồ Chí Minh chính là một nhân tố quan
trọng và có tính chất quyết định cho sự hình thành tư tưởng đạo đức của
Người.

Hồ Chí Minh là người có tố chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo,
ham hiểu biết, nhạy bén với cái mới Tất cả những điều nói trên đều đã được
thực tiễn cách mạng và lịch sử chứng minh một cách rõ ràng nhất.
Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, mong muốn cho đất nước được giải
phóng khỏi ách nô lệ, được độc lập tự do. Dù rất khâm phục và kính trọng các
vị tiền bối, song Hồ Chí Minh đã không tán thành con đường cứu nước của
họ. Người đã quyết tâm lựa chọn con đường riêng của mình, đi tìm con đường
cứu nước mới thực sự phù hợp với đất nước. Trong quá trình đó, Người đã đi
qua nhiều châu lục, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa của nhân loại, đã học tập
không ngừng nghỉ, học tập một cách sáng tạo, học mọi lúc mọi nơi và Hồ Chí
Minh đã tỏ ra là người có ý thức chủ động sáng tạo trong việc học tập tiếp thu
các học thuyết đạo đức trên thế giới. Trong suốt ba mươi năm hoạt động ở
nước ngoài và trong thời gian trực tiếp lãnh đạo cách mạng trong nước, Hồ
Chí Minh đã tích lũy được khối lượng tri thức khổng lồ của nhân loại, tích lũy
được những kinh nghiệm phong phú và quý báu, đã trở thành một nhà tư
tưởng lớn, một lãnh tụ vĩ đại của đất nước, một nhà lãnh đạo cách mạng có
tầm cỡ và uy tín trên thế giới, một nhà ngoại giao có văn hóa lịch lãm và tinh
tế, có nghị lực và bản lĩnh phi thường.

18
Quá trình hoạt động cách mạng cũng đã giúp Hồ Chí Minh có sự trải
nghiệm thực tiễn, nhận thức vấn đề một cách sâu sắc, làm cho tư duy của
Người thêm nhạy bén với mọi thay đổi của thời đại, nhạy bén với những vấn
đề mới có thể nảy sinh, có thể nhìn xa trông rộng mọi vấn đề của cách mạng.
Quá trình hoạt động đó đã giúp Hồ Chí Minh nhận thức từ rất sớm và rất rõ về
vai trò quan trọng của đạo đức cách mạng trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
Người đã chỉ rõ: người cách mạng phải có đạo đức cách mạng thì mới gánh
đuợc nặng và đi đuợc xa. Nếu không có đạo đức cách mạng thì không thể
hoàn thành được sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Ngay từ
những năm 20 của thế kỷ XX, khi viết tác phẩm “Đường kách mệnh” Hồ Chí

Minh đã dành riêng một phần để nói về tư cách của một người cách mệnh,
trong đó Người đã nêu lên tất cả những phẩm chất đạo đức mà một người
cách mệnh cần phải có và cần phải rèn luyện. Cũng chính từ việc nhận thức
được vai trò quan trọng của đạo đức trong đời sống và trong hoạt động cách
mạng cho nên trong rất nhiều các bài viết, bài nói chuyện sau này Người đã
dành phần lớn để nói về đạo đức cách mạng.
Không chỉ thấy được vai trò quan trọng của đạo đức cách mạng trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, với kinh
nghiệm thực tiễn, với tầm nhìn xa trông rộng và với sự nhạy cảm của mình,
Hồ Chí Minh đã hết sức cảnh giác trước những nhân tố có thể làm suy thoái
đạo đức của cán bộ đảng viên như sức quyến rũ của đồng tiền, sức mạnh của
quyền lực. Vì vậy Người đã sớm tiến hành công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho mọi tầng lớp nhân dân, ở mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề, đặc biệt là
đối với thanh niên - những chủ nhân tương lai của đất nước, những người sẽ
tiếp nối thế hệ cha anh, những người sẽ nắm giữ vận mệnh của dân tộc.
Như vậy, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không phải tự nhiên có được,
cũng không phải là sản phẩm thuần túy được rút ra từ trong đầu Hồ Chí Minh
mà là sản phẩm của quá trình tiếp thu học hỏi và vận dụng một cách sáng tạo

19
từ di sản đạo đức truyền thống của dân tộc, từ tinh hoa văn hóa của nhân loại
và từ chính tài năng, trí tuệ và bản lĩnh Hồ Chí Minh. Những kiến thức mà Hồ
Chí Minh tiếp thu được đã được soi dọi dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-
Lênin với một phương pháp luận khoa học - phương pháp biện chứng duy vật
đã giúp Người nhận thức, vận dụng một cách sáng tạo những kiến thức mà
Người đã tích lũy được. Từ đó Người đã đưa ra nhiều luận điểm mới trong tư
tưởng đạo đức của mình, Người đã xây dựng những chuẩn mực đạo đức mới
trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc, phát triển nó
thành đạo đức cách mạng trong giai đoạn mới, phù hợp với yêu cầu của lịch
sử. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cũng là kết quả của quá trình tự rèn luyện,

tự giáo dục; là kết quả của quá trình học tập không ngừng nghỉ, học tập một
cách có ý thức và theo một phương thức riêng của mình. Tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh là sự kết tinh cô đọng những yếu tố đạo đức truyền thống và
những yếu tố của thời đại để hình thành nên một quan điểm đạo đức rất riêng,
rất Hồ Chí Minh và mang đậm bản sắc của dân tộc Việt Nam.
1.2. Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh của những giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp đã được chắt lọc, được cách tân cho phù hợp với thời đại
mới. Đó cũng là kết quả của quá trình học tập, tiếp thu những tinh hoa văn
hóa nhân loại để hình thành nên một tư tưởng đạo đức đặc biệt với diện mạo
riêng, mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Đó là một hệ thống tư tưởng hoàn
chỉnh với cấu trúc nội tại bao gồm vị trí, vai trò của đạo đức; hệ thống luận
điểm với mối quan hệ mật thiết tạo thành một chỉnh thể; những phẩm chất đạo
đức trong giai đoạn mới và những nguyên tắc để rèn luyện đạo đức trong suốt
quá trình hoạt động cách mạng và trong đời sống hàng ngày.

20
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vai trò, vị trí
của đạo đức cách mạng
Đạo đức cách mạng theo quan niệm của Hồ Chí Minh đó là đạo đức
của giai cấp công Việt Nam, đại diện cho quyền lợi của giai cấp công nhân và
của toàn dân tộc Việt Nam. Đạo đức đó phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước
Việt Nam. Đạo đức cách mạng bao gồm những nội dung chính là: lòng yêu
thương con người, trung với nước, hiếu với dân, cần, kiệm, liêm chính, chí
công vô tư, đoàn kết nhất trí trong Đảng và trong nhân dân, tinh thần đoàn kết
quốc tế trong sáng.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng có vị trí quan trọng
trong việc hình thành con người mới. Để con người có thể phát triển hoàn
thiện thì phải tiến hành giáo dục một cách toàn diện cả về tài năng và trí tuệ,

trong đó, đạo đức là gốc của người cách mạng. Có đạo đức cách mạng con
người sẽ có thêm nghị lực để phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, vươn lên
trong mọi lĩnh vực.
Theo Hồ Chí Minh thì một người có năng lực thôi chưa đủ. Ngoài năng
lực còn phải là một người có phẩm chất đạo đức tốt, bởi “có tài mà không có
đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Tài
là tài năng trí tuệ, là sự hiểu biết những tri thức văn hóa, khoa học kỹ thuật.
Đức là đạo đức, là lối sống, cách ứng xử của con người trong các mối quan hệ
xã hội.
Trong mối quan hệ giữa đức và tài thì đức đóng vai trò là phương
hướng, là động lực phục vụ xã hội của mỗi cá nhân. Đức ở đây phải trả lời
cho câu hỏi mình phục vụ ai? Nếu không trả lời đúng câu hỏi này thì dù tài
giỏi mấy cũng vô dụng, thậm chí có hại cho dân cho nước.
Một người có tài cần phải có tư tưởng, có ý thức phục vụ nhân dân, một
lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng, không vì lợi ích cá nhân mà

21
phải công tâm, chính trực. Đó cũng là cơ sở của một người có cái đức xã hội
chủ nghĩa. Nếu không có những con người có tư tưởng phục vụ nhân dân thì
sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của đất nước ta sẽ không bao giờ có
thể thành công được.
Sự gắn bó khăng khít giữa đức và tài còn thể hiện ở chỗ: tài năng của
con người có liên quan chặt chẽ đến việc anh ta sử dụng tài năng đó như thế
nào. Một người có tài năng nhưng trong đầu óc đầy rẫy những tư tưởng tư
sản, không muốn phục vụ nhân dân, chỉ mưu lợi ích riêng cho bản thân mình
thì cái tài ấy dù có cao siêu đến đâu đi chăng nữa cũng không có lợi ích gì cho
dân cho nước, vì những người đó lúc nào cũng chỉ bo bo giữ quyền lời cho
mình, bắt người khác phục vụ mình. Một người có tài trước hết phải là người
khiêm tốn, không tự kiêu tự mãn, phải là người gần gũi với nhân dân, quan
tâm đến lợi ích chung của tập thể, của nhân dân, tự nguyện đem tài năng của

mình phục vụ nhân dân, không suy bì lợi ích danh vọng cá nhân thì cái tài ấy
mới thực sự có ích.
Là một người có hiểu biết sâu rộng và chịu ảnh hưởng lớn của nền văn
hóa phương Đông nói chung và nền giáo dục Nho học nói riêng, Hồ Chí Minh
luôn coi đạo đức là tiêu chí quan trọng để đánh giá một con người, coi đó là
một trong những tiêu chí để con người có thể hoàn thiện nhân cách. Đặc biệt
là đối với người cách mạng thì tiêu chuẩn đạo đức là đầu tiên và không thể
thiếu.
Đạo đức cách mạng giúp cho con người giữ vững được niềm tin, lí trí,
có thêm nghị lực để vượt qua mọi khó khăn gian khổ, giữ vững được mục tiêu
phấn đấu. Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Theo Hồ Chí Minh: “làm cách mạng là để cải
tạo xã hội cũ thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng
là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian
khổ, có sức mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải

×