Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Vấn đề trí thức hóa công nhân doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (884.1 KB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




LÊ THỊ THANH






VẤN ĐỀ TRÍ THỨC HOÁ CÔNG NHÂN DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC Ở TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC












HÀ NỘI - 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





LÊ THỊ THANH





VẤN ĐỀ TRÍ THỨC HOÁ CÔNG NHÂN DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC Ở TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80




Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THÁI SƠN







HÀ NỘI - 2013
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. TRÍ THỨC HOÁ CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY - MỘT SỐ
VẤN ĐỀ CHUNG 8
1.1. Trí thức hoá công nhân, tầm quan trọng của trí thức hoá công
nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 8
1.1.1. Lý luận về vấn đề trí thức hoá công nhân 8
1.1.2. Tầm quan trọng của vấn đề trí thức hoá công nhân trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hoá đất nước 24
1.2. Nội dung cơ bản và một số yếu tố ảnh hưởng đến nội dung trí
thức hoá công nhân 30
1.2.1. Nội dung cơ bản trí thức hoá công nhân Việt Nam 30
1.2.2. Một số yếu tố ảnh hưởng, tác động đến nội dung trí thức hoá
công nhân 32
Chƣơng 2. TRÍ THỨC HOÁ CÔNG NHÂN DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở
THÁI NGUYÊN HIỆN NAY- VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP 37
2.1. Vấn đề trí thức hoá công nhân doanh nghiệp nhà nước ở Thái
Nguyên hiện nay 37
2.1.1. Doanh nghiệp nhà nước và công nhân trong các doanh nghiệp
nhà nước ở tỉnh Thái Nguyên 37

2.1.2. Vấn đề đặt ra trong quá trình trí thức hoá công nhân doanh
nghiệp nhà nước ở Thái Nguyên hiện nay 44
2.2. Một số giải pháp cơ bản hiện thực hóa nội dung trí thức hoá
công nhân doanh nghiệp nhà nước ở Thái Nguyên hiện nay 58
2.2.1. Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tạo môi
trường thúc đẩy trí thức hoá công nhân doanh nghiệp nhà nước
ở Thái Nguyên 58
2.2.2. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, coi trọng đào tạo
nghề; thu hút trí thức tham gia vào quá trình trí thức hoá công
nhân 59
2.2.3. Phát huy vai trò của hệ thống chính trị trong quá trình trí thức
hoá công nhân 65
2.2.4. Xây dựng hệ thống chính sách xã hội tạo động lực đẩy mạnh trí
thức hoá công nhân 70
2.2.5. Giác ngộ nhận thức của công nhân doanh nghiệp nhà nước ở
Thái Nguyên, đưa trí thức hoá công nhân thành quá trình tự trí
thức hóa 74
KẾT LUẬN 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
PHỤ LỤC 84
BẢNG QUY ƢỚC CHỮ VIẾT TẮT


CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CNCS : Chủ nghĩa cộng sản
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
CSVN : Cộng sản Việt Nam
GCCN : Giai cấp công nhân

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiếp nối truyền thống lịch sử vẻ vang của các thế hệ đi trước, trong giai
đoạn hiện nay vai trò của GCCN Việt Nam vẫn được khẳng định là “Giai cấp
lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản; giai cấp đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; lực lượng nòng cốt trong khối liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”
[12, tr.43-44].
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển
kinh tế tri thức, với mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm 2020 là “Phấn đấu đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
chính trị xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt, độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp
tục được nâng lên, tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong những giai
đoạn sau”

[13, tr.103]. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên đòi hỏi phải phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó nội
lực quyết định, trực tiếp là không ngừng nâng cao dân trí, xây dựng nguồn nhân
lực chất lượng cao. Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng có ý nghĩa quyết
định nhất đến sự nghiệp CNH, HĐH đất nước gắn liền với phát tríển kinh tế tri
thức. Sự lớn mạnh của GCCN là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của
công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã có chủ trương, giải pháp

sắp xếp, đổi mới để DNNN phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Mặc dù còn một số những hạn chế nhất định, nhưng nhìn chung
2
cổ phần hoá DNNN đã đạt được những kết quả tích cực. Khi bàn về vai trò
của DNNN, Nghị quyết Trung ương 6, khoá X về “Tiếp tục hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đã chỉ ra “Tiếp tục đẩy mạnh
đổi mới, sắp xếp lại, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước để góp phần giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo của thành
phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” [12, tr.143].
Qua 26 năm tiến hành đổi mới, GCCN nước ta đã có những chuyển
biến tích cực, mạnh mẽ, tăng nhanh về số lượng, ngày càng đa dạng về cơ cấu,
chất lượng được nâng lên đáng kể, dần hình thành một bộ phận công nhân trí
thức đang tiếp tục khẳng định vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông
qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên sự phát triển của
GCCN hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và
hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ
quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, ý
thức pháp luật còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân chưa được đào tạo cơ
bản và có hệ thống. Một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị
trường. Địa vị chính trị của GCCN còn mờ nhạt, chưa phát huy đầy đủ vai trò
nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức.
Là trung tâm chính trị, kinh tế của Việt Bắc, Thái Nguyên là điểm đến
để các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, thu hút một lực lượng rất lớn lao động tham gia. DNNN có vai trò
nòng cốt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đội ngũ
công nhân trong các DNNN trên địa bàn Thái nguyên là một bộ phận của giai
cấp công nhân Việt Nam; động lực to lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
của Thái nguyên và đất nước. Vì vậy, để xây dựng GCCN Việt Nam nói

chung, đội ngũ công nhân trong các DNNN trên địa bàn Thái nguyên nói
3
riêng cần quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo, mục tiêu Nghị quyết Trung
ương 6, Khoá X “Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công
nhân, không ngừng trí thức hoá công nhân là một nhiệm vụ chiến lược”…
“xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển về số lượng, nâng cao chất
lượng, cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát tríển đất nước; ngày càng được trí thức
hoá” [12, tr.48-50].
Trí thức hoá công nhân là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, là
một vấn đề mới và cần được sự quan tâm hơn nữa của các cấp, các ngành nói
chung và của các DNNN trên địa bàn Thái nguyên nói riêng. Từ những lý do
nêu trên, tác giả chọn đề tài “Vấn đề trí thức hoá công nhân doanh nghiệp
nhà nước ở tỉnh Thái nguyên hiện nay” làm luận văn thạc sỹ.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Xuất phát từ vai trò to lớn của giai cấp công nhân đối với quá trình đấu
tranh cách mạng cũng như xây dựng CNXH ở Việt Nam; nhất là trong quá
trình đổi mới và tiến hành CNH, HĐH đất nước đã có rất nhiều công trình
khoa học nghiên cứu của các cá nhân và tập thể về vấn đề này. Vấn đề xây
dựng GCCN Việt Nam đã được Đảng ta đề cập toàn diện, sâu sắc trong các
Nghị quyết Đại hội, Nghị quyết chuyên đề của Ban Chấp hành Trung ương.
Trên cơ sở đường lối, quan điểm của Đảng, đã có rất nhiều công trình khoa
học khai thác nghiên cứu về GCCN Việt Nam ở những khía cạnh khác nhau:
- Về lịch sử giai cấp công nhân, phong trào công nhân Việt Nam có các
công trình: Trần Văn Giàu, “Giai cấp công nhân Việt Nam - sự hình thành và
phát triển”, Nxb Sự thật, Hà Nội 1961. Nguyễn Công Bình, Vũ Huy Phúc,
“Một số vấn đề về lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam”, Nxb Lao động,
1974; “Lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam”, Nxb Lao
động, 1977. Trong những công trình này, các tác giả đã luận giải khá sâu sắc
sự ra đời của GCCN, của phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam; về
vị trí vai trò của GCCN Việt Nam, đồng thời chỉ ra những đóng góp to lớn của

4
GCCN, phong trào công nhân Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trên cơ sở nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng mà Đảng ta xác định, các tác giả
đưa ra những dự báo khoa học về xu hướng phát triển của GCCN, của phong
trào công nhân và Công đoàn Việt Nam trong giai đoạn mới.
- Về xây dựng giai cấp công nhân trong sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH
đất nước và trí thức hoá công nhân. Có các công trình đã được in thành sách
tham khảo và chuyên khảo như: Văn Tạo, “Đổi mới tư duy về giai cấp công
nhân - kinh tế tri thức và công nhân trí thức”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1997. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện Công nhân và Công đoàn,
“Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước”, Nxb Lao động, Hà Nội, 1999. PGS Cao Văn Lượng (chủ
biên), "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự phát triển giai cấp công nhân",
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Viện Công nhân và Công đoàn, “Giải
pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ
XXI”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2003. Viện Công nhân và Công đoàn, “Một số
vấn đề cơ bản về xây dựng và phát huy vai trò giai cấp công nhân Việt Nam
trong sự nghiệp CNH, HĐH”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2004; Dương Xuân
Ngọc, “Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; PGS, TS Tạ Ngọc Tấn, Nguyễn Duy
Hưng, Đoàn Văn Kiên (đồng chủ biên), “Xây dựng và phát triển giai cấp công
nhân Việt Nam trong điều kiện mới”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2008. Đặng
Ngọc Tùng (chủ biên), “Xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2008.
TS. Lê Thanh Hà, “Phát triển kinh tế tri thức và hoạt động của công đoàn Việt
Nam”; Nxb Lao động, Hà Nội, 2008 v.v.
- Một số luận án, luận văn bàn về vấn đề giai cấp công nhân tiêu biểu
như: Trần Thị Bích Liên, "Tích cực hoá nhân tố chủ quan để giai cấp công
nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình", Luận án tiến sĩ, chuyên ngành
5

Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000. Trần Ngọc Sơn,
"Sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam và vai trò của nó trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước", Luận án tiến sĩ, chuyên
ngành Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2001. Nguyễn Thị
Hường, “Giai cấp công nhân - giai cấp tiên phong trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 2011. Trần Thị Như Quỳnh, “Công nhân trí thức ở
thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp, hoá hiện đại hoá”,
Luận án tiến sĩ triết học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2011.
- Một số bài báo khoa học tiêu biểu như: Phạm Ngọc Dũng (2006), “Trí
thức hoá công nhân Việt Nam”, Khoa học xã hội, (12). GS.TS Mạch Quang
Thắng, “Giai cấp công nhân Việt Nam một số vấn đề lý luận cần tiếp tục làm
sáng tỏ”, Tạp chí Lao động Công đoàn, tháng 10 năm 2008.
Nhìn chung, các công trình và đề tài khoa học, bài viết xung quanh vấn
đề GCCN đã đi sâu, luận giải và làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai
trò sứ mệnh lịch sử của GCCN nói chung, GCCN Việt Nam trong sự nghiệp
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế nói riêng; đồng thời, đề cập đến vấn đề xây
dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào đề cập, nghiên
cứu có hệ thống vấn đề trí thức hoá công nhân trong các doanh nghiệp nhà
nước trên địa bàn Thái Nguyên. Do vậy, đề tài mà tác giả lựa chọn là công
trình độc lập, không trùng lặp với bất cứ công trình nào đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề trí thức hoá
công nhân trong các DNNN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên hiện nay; từ đó
6
xuất một số giải pháp cơ bản đẩy mạnh có hiệu quả việc trí thức hoá công
nhân trong các DNNN trên địa bàn Thái Nguyên.
3.2. Nhiệm vụ

- Làm rõ quan niệm về trí thức hoá công nhân, thực chất, nội dung, vai
trò trí thức hoá công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
- Phân tích những vấn đề đặt ra trong quá trình trí thức hoá công nhân
DNNN ở Thái Nguyên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản thực hiện trí thức hoá công nhân
trong các DNNN trên địa bàn Thái Nguyên hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quy luật phát triển
của trí thức hoá công nhân trong trong sự thống nhất biện chứng với sự phát
triển toàn diện GCCN và kinh tế tri thức qua thực tế các DNNN trên địa bàn
Thái Nguyên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề trí thức hoá công nhân
trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp nhà nước trên địa bàn Thái
Nguyên; thời gian chủ yếu từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng CSVN về GCCN và trí thức
hoá công nhân.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là tình hình GCCN, quá trình trí thức hoá
công nhân trong các DNNN trên địa bàn Thái nguyên thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước. Các kết luận trong luận văn dựa vào kết quả khảo sát, điều tra
xã hội học thực tế một số DNNN ở tỉnh Thái nguyên và qua số liệu tổng kết,
thống kê về trí thức hoá công nhân có liên quan của Trung ương và Thái
Nguyên để làm rõ những vấn đề mà mục đích, nhiệm vụ luận văn đặt ra.
7
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn: Luận văn sử dụng các phương
pháp, phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng; chủ yếu là các
phương pháp lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học
v.v để vừa làm sáng tỏ góc độ khoa học, mà còn làm sáng tỏ góc độ chính trị -
xã hội của vấn đề.

6. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu luận văn có thể là tài liệu, luận cứ khoa học cho
lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên, các nhà quản lý DNNN tham khảo trong việc đề
ra chủ trương, chính sách đẩy mạnh trí thức hoá, góp phần xây dựng GCCN
có phẩm chất, năng lực, phát huy tốt vị trí, vai trò lịch sử của mình trong sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH; hoàn thành chỉ tiêu kinh tế - xã hội của Thái
Nguyên và đất nước đặt ra.
Ngoài ra, Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho quá trình
giảng dạy, học tập và nghiên cứu những nội dung có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết:
Chƣơng 1: Trí thức hóa công nhân Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề
chung.
Chƣơng 2: Trí thức hóa công nhân doanh nghiệp nhà nước ở Thái
Nguyên hiện nay - vấn đề và giải pháp.


8
Chƣơng 1
TRÍ THỨC HOÁ CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Trí thức hoá công nhân, tầm quan trọng của trí thức hoá công
nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc
1.1.1. Lý luận về vấn đề trí thức hoá công nhân
1.1.1.1. Vấn đề trí thức hoá công nhân theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Trí thức hoá công nhân là một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa
quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển GCCN và liên quan trực

tiếp đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của đội ngũ này. Mặc dù C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin chưa đề cập đến thuật ngữ trí thức hoá công
nhân nhưng trong quan điểm, tư tưởng của các ông đã bàn khá nhiều về
nâng cao trình độ văn hoá, tri thức, trí tuệ cho công nhân.
Trong quá trình nghiên cứu sự phát triển của nền đại công nghiệp dưới
CNTB, C.Mác, Ph.Ăngghen phát hiện ra vai trò của tri thức, khoa học kỹ thuật
của tinh thần và trí tuệ người lao động trong việc phát triển lực lượng sản xuất
mà cụ thể là máy móc. C.Mác khẳng định “Thiên nhiên không chế tạo ra máy
móc… Tất cả những cái đó đều là sản phẩm lao động của con người… tất cả
những cái đó đều là những cơ quan của bộ óc con người do bàn tay con người
tạo ra, đều là sức mạnh đã vật hoá tri thức" [32, tr.272-273]. Như vậy, C.Mác đã
thấy rõ vai trò quan trọng của yếu tố tri thức khoa học trong sản xuất vì việc đầu
tư cho yếu tố này mang lại hiệu quả kinh tế rất cao. Hiện nay chúng ta cũng đã
nhận thức rằng đầu tư cho giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là đầu tư
khôn ngoan nhất, có lãi nhất.
9
Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa lao động và máy móc đại công
nghiệp dưới CNTB, C.Mác đã chỉ rõ, sự phát triển ngày càng hiện đại của
máy móc và hệ thống máy móc chính là quá trình từng bước thay thế lao động
giản đơn bằng lao động phức tạp có tính khoa học. Vì vậy, lao động trực tiếp
trở thành thứ yếu so với lao động khoa học của con người. C.Mác viết “Lao
động biểu hiện ra không phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá trình sản
xuất, mà chủ yếu là loại lao động trong đó con người, trái lại là người kiểm
soát và điều tiết quá trình sản xuất” [32, tr.369]. C.Mác cho rằng, toàn bộ quá
trình sản xuất “biểu hiện ra không phải như là một quá trình phụ thuộc vào tài
nghệ trực tiếp của người công nhân mà với tư cách là sự ứng dụng khoa học
trong lĩnh vực công nghệ” [32, tr.358].
Từ những phân tích trên C.Mác chỉ rõ “Theo đà phát triển của đại công
nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự trở lên ít phụ thuộc vào thời gian lao động
và số lượng lao động đã chi phí mà đúng ra chúng phụ thuộc vào trình độ

chung của khoa học và tiến bộ kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng
khoa học ấy vào sản xuất” [32, tr.368-369]. Chính vậy mà “phát minh đã trở
thành một nghề đặc biệt và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào
nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất
quyết định và kích thích” [32, tr.367].
Chúng ta có thể thấy những luận điểm trên hoàn toàn đúng với các đặc
trưng của nền kinh tế tri thức; các nguồn lực cho sản xuất truyền thống trước
kia (đất đai, lao động cơ bắp ) sẽ bị đẩy xuống hàng thứ yếu, thay vào đó là
yếu tố tri thức. Tri thức sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, quyết định
lợi thế so sánh của mỗi một quốc gia, khoa học công nghệ đóng vai trò trung
tâm trong tăng trưởng kinh tế, lao động có hàm lượng tri thức cao ngày càng
chiếm ưu thế hơn so với lao động giản đơn. Xu thế đó tất yếu đòi hỏi người
lao động công nghiệp phải có trình độ tri thức ngày càng cao và toàn diện.
10
Nền sản xuất công nghiệp hiện đại đòi hỏi GCCN phải không ngừng
nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng kỹ xảo Đồng thời
cũng tạo cơ chế sàng lọc khắc nghiệt đối với GCCN, ai đáp ứng được yêu cầu
về trình độ thì tồn tại còn nếu không thì sẽ bị đào thải.Với tinh thần đó thì
GCCN hiện đại phải là những người thực sự có trình độ chuyên môn và năng
lực trí tuệ cao, là lực lượng tiên phong ưu tú nhất so với các giai cấp tầng lớp
khác trong xã hội. Điều này đã được Ph.Ăngghen khẳng định từ thế kỷ XIX
ngay từ khi nền công nghiệp còn ở trình độ cơ khí. Ông cho rằng những người
lao động trong nền sản xuất hiện đại thì cần phải có năng lực phát triển toàn
diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất. Đến lượt mình nền sản xuất
đó sẽ tạo nên những con người mới, sẽ làm cho những thành viên trong xã hội
có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện của
mình. Vì vậy, Ph.Ăngghen nhấn mạnh “GCCN không chỉ cần đôi bàn tay
vàng mà còn cần sự sáng tạo của khối óc. Chính GCCN bằng bàn tay, khối óc
mà quá trình lao động của họ đã tạo ra sự vĩ đại của nước Anh” [28, tr.350].
Khi quan sát, nghiên cứu sự tác động của đại công nghiệp, của cách mạng

khoa học kỹ thuật đối với sự ra đời và phát triển của GCCN, C.Mác, Ph.Ăng
ghen đã nhận thấy sự ra đời và phát triển của một bộ phận “giai cấp vô sản trí
thức”. Trong bức thư “Gửi Đại hội quốc tế sinh viên xã hội chủ nghĩa”
Ph.Ăngghen viết “Các bạn hãy cố gắng làm cho sinh viên hiểu được rằng, giai
cấp vô sản trí thức phải được hình thành từ hàng ngũ sinh viên, bên cạnh và
trong hàng ngũ những người bạn của nó - các công nhân thủ công nghiệp -
giai cấp ấy có sứ mệnh phải đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng sắp
tới” [31, tr.613]. Như vậy, C.Mác, Ph.Ăngghen đã nhận thấy rằng, giai cấp vô
sản trí thức sẽ được hình thành từ hàng ngũ sinh viên, coi sinh viên là nguồn
bổ sung chủ yếu cho “giai cấp vô sản trí thức”, đồng thời giai cấp vô sản trí
thức phải là những người có trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật
11
cao, cùng với quá trình tăng lên về trí thức của công nhân hiện đại và quá
trình tăng lên của bộ phận “công nhân - trí thức”.
C.Mác, Ph.Ăngghen còn có dự báo khoa học về sự xích lại gần nhau,
chuyển hoá cho nhau giữa công nhân và trí thức, đồng thời nhấn mạnh “sự
“xích lại gần nhau” và “mất tính đối lập” giữa lao động chân tay và lao động
trí óc trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất xã hội và của khoa học, kỹ
thuật và của tiến bộ xã hội” [30, tr.36]. Đây chính là sự xích lại gần nhau,
chuyển hoá cho nhau giữa công nhân và trí thức trong quá trình phát triển của
đại công nghiệp theo hướng hiện đại hoá và tiến bộ phục vụ lợi ích trước hết
của đại đa số nhân dân lao động và sau đó là của toàn xã hội. Đây cũng chính
là kết quả về mặt cơ cấu xã hội của quá trình trí thức hoá công nhân. Bản thân
C.Mác và Ph.Ăngghen đều là trí thức, hai ông đã gia nhập vào phong trào
công nhân, hoạt động cùng GCCN để tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận cho
phong trào công nhân, đồng thời hai ông cũng tích cực tham gia vào quá trình
trí thức hoá công nhân.
Trên cơ sở kế thừa, vận dụng những quan điểm tư tưởng của C.Mác,
Ph.Ăngghen trong điều kiện lịch sử mới, V.I.Lênin đã làm phong phú hơn
những quan điểm C.Mác, Ph.Ăngghen trên lĩnh vực văn hoá và tư tưởng đối

với sự nghiệp cách mạng của công nhân nói riêng và đối với sự phát triển nền
kinh tế XHCN nói chung. V.I.Lênin chỉ rõ “về mặt kinh tế và chính trị, chính
sách kinh tế mới hoàn toàn bảo đảm cho chúng có khả năng xây dựng được
nền móng cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tất cả “chỉ” là tuỳ ở lực lượng
văn hoá của giai cấp vô sản và ở đội tiền phong của nó” [24, tr.74]. Bởi theo
Lênin văn hóa chính là trí tuệ của nhân dân trong đó có đội ngũ công nhân.
Khi bàn về tầm quan trọng của việc nâng cao tri thức cho nhân dân lao
động nói chung và công nhân nói riêng trong quá trình xây dựng CNXH,
trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết”
V.I.Lênin nhấn mạnh “Việc nâng cao năng suất lao động trước hết đòi hỏi
12
phải có cơ sở vật chất của nền đại công nghiệp một điều kiện khác để nâng
cao năng suất lao động, trước hết là nâng cao trình độ học vấn và văn hoá của
quần chúng nhân dân” [21, tr.229]. “Công nhân phải học tập tri thức của
chuyên gia tư sản bởi vì công nhân, nông dân càng nhanh chóng học tập được
cách tạo ra kỷ luật lao động tốt hơn và kỹ thuật lao động cao, bằng cách sử
dụng các chuyên gia tư sản để học lấy môn khoa học ấy thì chúng ta sẽ thoát
khỏi “khoản tiền cống” cho các chuyên gia đó” [21, tr.221].
Để thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của GCCN, V.I.Lênin nhấn mạnh,
GCCN phải liên minh được với nông dân, đặc biệt liên minh được với trí thức
cách mạng, bởi vì: “…trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô
sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được” [22, tr.218].
Đối với các nước lạc hậu xây dựng CNXH, theo V.I.Lênin, cuộc cách
mạng trên lĩnh vực văn hoá và tư tưởng, phát triển khoa học kỹ thuật có tầm
quan trọng đặc biệt; phải tìm mọi cách để chiếm được những tri thức khoa học
của nhân loại. V.I.Lênin sử dụng hình ảnh “Dùng cả hai tay mà lấy những cái
tốt nhất của nước ngoài” [21, tr.684] làm “vốn” tri thức cho mình để xây dựng
CNXH.
Như vậy, chúng ta thấy trong nền kinh tế tri thức thì tri thức là yếu tố
cơ bản tạo ra sự phát triển nhanh chóng. Nhưng tri thức lại do con người sáng

tạo ra. Hơn nữa con người không chỉ sáng tạo ra tri thức mới mà còn biết sử
dụng có hiệu quả nguồn tri thức và công nghệ kỹ thuật cao tạo ra nguồn năng
nội sinh cho sự phát triển. Vì vậy trong kinh tế tri thức vai trò của các nguồn
tài nguyên thiên nhiên và lao động giản đơn ngày càng giảm, trong khi giá trị
của công nghệ cao, công nghệ thông tin, lao động có chuyên môn kỹ thuật và
trình độ quản lý cao ngày càng tăng. Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri
thức bản thân người công nhân, GCCN không ngừng tự đào tạo, được đào tạo,
bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ mọi mặt, nhất là trình độ khoa học công
nghệ, tạo thành xu hướng tri thức hoá công nhân trong nền công nghiệp hiện
13
đại, kinh tế tri thức. Đồng thời việc rút ngắn giữa nghiên cứu khoa học vào
sản xuất trong nền công nghiệp hiện đại đã dẫn đến một thực tế là, các nhà
nghiên cứu, các nhà sáng chế, các kỹ sư, kỹ thuật viên cao cấp gia nhập vào
hàng ngũ GCCN hiện đại ngày càng đông tạo ra xu hướng trí thức hoá công
nhân. Hai xu hướng này đồng thời diễn ra trong nền kinh tế tri thức nhất là xu
hướng trí thức hoá công nhân đã dẫn đến sự hình thành và phát triển công
nhân trí thức (những công nhân lao động trí óc, có trình độ cao đẳng và tương
đương trở lên).
Trong bối cảnh thế giới khi mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang
diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến các lĩnh vực đời sống xã hội thì đội ngũ
công nhân trí thức xuất hiện ngày càng đông đảo, điều đó khẳng định tính đúng
đắn trong tầm nhìn chiến lược và những dự báo có sức thuyết phục của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về quá trình trí thức hoá công nhân.
Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, nên ngay từ những năm đầu của công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc,
Hồ Chí Minh chỉ rõ “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có học thức”
[37, tr.306]. Do đó người luôn quan tâm đến tới việc nâng cao trình độ học
vấn, tay nghề, ý thức giai cấp cho GCCN, để sao cho trong GCCN xuất hiện
ngày càng đông đảo bộ phận công nhân có trình độ tri thức cao, xứng đáng
với vai trò lịch sử của mình. Hồ Chí Minh đề cập đến “công nông trí thức

hoá”, “trí thức hoá công nông” và tầm quan trọng của quá trình này. Theo đó,
“trí thức hoá công nông” không có nghĩa công - nông biến thành trí thức, hoà
tan vào trí thức mà là phải nâng cao trình độ học vấn, trí tuệ, chuyên môn của
công - nông. “Công nông hoá trí thức” cũng không phải là hạ thấp vai trò trí
tuệ của trí thức mà có nghĩa là trí thức phải gắn với công - nông, phục vụ công
- nông, phục vụ sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, trong đó có
trí thức.
14
Cách luận giải như vậy của Hồ Chí Minh cho thấy, tầng lớp trí thức và
GCCN phải luôn gắn bó với nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong
quá trình xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Để phát huy vai trò tiền
phong là “gốc”, là lực lượng nòng cốt của cách mạng, theo Hồ Chí Minh,
GCCN “cần phải học tập văn hoá để nâng cao trình độ tri thức mình” [34,
tr.204]; đồng thời căn dặn: “Cần phải có kế hoạch bồi dưỡng cho cán bộ và
công nhân có trình độ văn hoá và kỹ thuật khá”, thậm chí “phải có trình độ
không kém gì kỹ sư” [36, tr.224]. Khi bàn về mối quan hệ giữa lao động chân
tay với lao động trí óc, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, không được phép coi khinh, phân
biệt đối xử lao động trí óc và lao động chân tay. Lao động nào cũng vinh quang,
lao động nào cũng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thân nhằm thoả mãn nhu
cầu xã hội và bản thân. Bác dạy: “Mỗi người chúng ta phải nhận rõ, lao động chân
tay và lao động trí óc đều vẻ vang, đáng quý. Chúng ta phải chống tư tưởng xem
khinh lao động” [36, tr.349]. Sự xích lại gần nhau, tác động và chuyển hoá giữa
công nhân và trí thức cũng là một xu thế đang diễn ra nhanh chóng do sự phát
triển của khoa học - công nghệ. Chỉ rõ mối quan hệ biện chứng này, Hồ Chí
Minh cho rằng “Do sáng kiến và kinh nghiệm trong thi đua mà lao động chân
tay nâng cao trình độ kỹ thuật của mình. Do thi đua mà lao động trí óc gần
gũi, giúp đỡ, cộng tác, học hỏi những người lao động chân tay và trở lên
những người trí thức hoàn toàn. Thế là phong trào thi đua làm cho công, nông,
binh, trí thức hoá và trí thức thì lao động hoá” [34, tr.475]. Trí thức hoá công
nhân là khách quan và là nội dung quan trọng trong xây dựng GCCN. Trí thức

hoá công nhân là nhằm hướng đến cái đích phục vụ tốt hơn lao động sản xuất
và làm tăng cường vị trí, vai trò của GCCN trong quản lý sản xuất và quản lý
xã hội. Theo Hồ Chí Minh, quá trình thực hiện “trí thức hoá công nông” thì
vai trò của tầng lớp trí thức là rất quan trọng nhằm “chuyển” tri thức vào nhân
dân nói chung và công nhân nói riêng. Hồ Chí Minh chỉ rõ “ vì nếu không có
thầy giáo thì không có giáo dục Bây giờ xây dựng kinh tế, không có cán bộ
15
không làm được việc. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói
gì đến kinh tế, văn hoá” [36, tr.224].
Từ quan điểm trên của Hồ Chí Minh về trí thức hoá công nông, về mối
quan hệ giữa lao động chân tay và lao động trí óc; chúng ta nhận thức được
rằng, Hồ Chí Minh không đối lập GCCN và tầng lớp trí thức và cũng không
cho rằng công nhân hoà tan vào trí thức hoặc trí thức hoà tan vào công nhân
mà Hồ Chí Minh chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa GCCN và tầng lớp trí
thức diễn ra theo xu hướng ngày càng xích lại gần nhau, thậm chí chuyển hoá
bộ phân cho nhau. Người công nhân ở vị thế này có thể là người trí thức và
ngược lại người trí thức ở vị thế kia có thể là công nhân. Nhưng hoàn toàn
không đồng ý với cách hiểu cho rằng, GCCN hiện nay biến mất trong nền
“văn minh trí tuệ” và trở thành “giai cấp đồng nguyên”, tầng lớp trí thức giữ
vai trò lãnh đạo nền văn minh “hậu công nghiệp” chúng ta không thể phủ
nhận vai trò của tầng lớp trí thức trong sự phát triển của kinh tế tri thức nhưng
không vì thế mà phủ nhận vai trò sứ mệnh lịch sử của GCCN. Như vậy, một
trong những điều kiện để tiến tới một xã hội không còn sự phân biệt giữa lao
động trí óc và lao động chân tay như dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen thì
GCCN phải nhận thức và thực hiện có hiệu quả quá trình “trí thức hoá công
nhân” trong suốt quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
1.1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức hoá công
nhân
Thấm nhuần quan điểm trên của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, ngay từ những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước theo định

hướng XHCN, Đảng CSVN đã chú ý đến việc thực hiện trí thức hoá công
nhân và quan điểm đó được định hình ngày càng rõ nét trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH; bắt đầu từ Đại hội VIII (năm 1996). Là một nước nông
nghiệp, quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH một mặt dẫn đến xu hướng công nhân
hoá người lao động (từ nông dân, trí thức, công nhân viên chức,…), mặt khác
16
tạo xu hướng trí thức hoá công nhân, tạo điều kiện để GCCN nước ta phát
triển cả vê số lượng và chất lượng. Do đó để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn
mới, nhiệm vụ “từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp” [6, tr.80] cần phải “xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh
về mọi mặt, phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, nâng cao trình độ học
vấn và tay nghề, có năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, có tác
phong công nghiệp và ý thức tổ chức kỷ luật, lao động đạt năng suất, chất
lượng và hiệu quả ngày càng cao” [5, tr.67-68, 123]. Đây chính là tinh thần trí
thức hoá công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.
Tại Đại hội IX (năm 2001), chủ trương trí thức hoá công nhân chính
thức được đặt ra. Lần đầu tiên Đảng ta sử dụng khái niệm kinh tế tri thức và
nêu rõ “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có những biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ
có những bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật
trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Vì vậy con đường CNH, HĐH
ở Việt Nam cần và có thể “rút ngắn” đồng thời với từng bước phát triển nền
kinh tế tri thức. Như vậy, mặc dù Việt Nam chưa giải quyết xong bước
chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp nhưng bối
cảnh trong nước và quốc tế đã tạo ra những điều kiện và cơ hội để Việt Nam
có thể thực hiện một bước chuyển kép từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền
kinh tế công nghiệp và từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.
Điều kiện kinh tế đó đã tạo tiền đề, môi trường và động lực thúc đẩy xu hướng
công nhân hoá người lao động cùng với xu hướng trí thức hoá công nhân,
hình thành và phát triển đội ngũ công nhân trí thức ở nước ta. Do đó, để đáp
ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH cùng với phát triển kinh tế tri thức, đối với

GCCN, Đảng ta khẳng định cần “Coi trọng phát triển cả về số lượng và chất
lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề
nghiệp, thực hiện “trí thức hoá công nhân”… [7, tr.69, 91, 124].
17
Tại Đại hội X (năm 2006), Đảng ta xác định, một trong những phương
hướng để phát triển đất nước là: Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc
tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất
nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri
thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH. Phát triển mạnh các
nghành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết
hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất
của nhân loại. Từ phương hướng này, Đảng ta yêu cầu GCCN phải “phát triển
về số lượng và chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước” [10, tr.118].
Gần đây, Đại hội XI (năm 2011) Đảng ta tiếp tục khẳng định “Toàn cầu
hoá và cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình
hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức” [13, tr.183]. Do vậy, nước ta
cần phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất
lượng, năng suất hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát
triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức” [13, tr.98]. Đối với GCCN,
Đảng CSVN yêu cầu: “Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển
GCCN cả về số lượng và chất lượng, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học
vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao
động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế” [13,
tr.240-241].
Những dự báo của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và của
Đảng CSVN về xu hướng trí thức hoá công nhân đang được hiện thực hoá.
Hiện nay kinh tế tri thức đang phát triển mạnh ở các nước công nghiệp phát
triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Canada, Nga và các nước công nghiệp

mới nổi như Hàn quốc, Singapo và định hình ngày càng rõ nét ở các nước
đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil. Theo quy định chung hiện
18
nay về tiêu chí của kinh tế tri thức mà nhiều nước chấp nhận, được gói gọn
trong con số 70%. Cụ thể là: trên 70% GDP là do các ngành sản xuất và dịch
vụ cung ứng công nghệ cao mang lại (công nghệ cao là do công nhân trí thức
đảm nhiệm); trên 70% trong cơ cấu giá trị gia tăng là kết quả của lao động trí
óc; trên 70% công nhân lao động trí óc (công nhân trí thức); trên 70% là vốn
con người [4, tr.13-20]. Ở Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu hiện nay, kinh tế
tri thức đã chiếm từ 45% - 70% GDP [41, tr.195].
Cùng với sự phát triển của kinh tế tri thức là xu hướng trí thức hoá công
nhân, thực tiễn cho thấy trên thế giới hiện nay đã xuất hiện và phát triển ngày
càng nhiều công nhân trí thức trong khi lực lượng công nhân truyền thống
giảm dần. Tính đến năm 2000, không còn một nước TBCN phát triển nào còn
lượng công nhân truyền thống làm việc trong lĩnh vực sản xuất và vận chuyển
sản phẩm chiếm hơn 1/6 hoặc 1/8 tổng số công nhân lao động của nước đó.
Cụ thể ở Mỹ, lao động chân tay giảm từ 50% năm 1950 xuống còn 20% năm
1990 và đến năm 2000 chỉ còn dưới 10%. Tương ứng với điều này là tỷ lệ
công nhân trí thức ngày càng tăng và chiếm ưu thế về số lượng so với tỷ lệ
công nhân truyền thống. Trong vòng 10 năm (1986-1996) tỷ lệ công nhân
truyền thống của Đức giảm từ 67% xuống còn 37%; cùng thời gian đó số công
nhân trí thức ở Pháp tăng lên hai lần trong khi đó công nhân truyền thống
giảm từ 30% xuống còn 27% [41, tr.193]. Theo thống kê, năm 2006 ở
Canada, trong tổng số lực lượng lao động, công nhân trí thức chiếm đến 50%,
công nhân truyền thống chỉ còn khoảng 32%. Tại Italia và Tây Ban Nha 53%
trong tổng số công nhân hiện nay là công nhân trí thức. Số liệu thống kê ILO
cho thấy có tới 60% - 70% lực lượng lao động xã hội là công nhân trí thức ở
các nước công nghiệp phát triển hiện nay [41, tr.195].
Như vậy, cùng với sự tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ,
GCCN nước ta (là một bộ phận của GCCN quốc tế) nên xu hướng trí thức hoá

cũng ngày càng tăng. Trí thức hoá công nhân đã và đang tạo ra động lực to
19
lớn bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Nhưng
trình độ tri thức sẽ không làm thay đổi bản chất của GCCN - những người lao
động sản xuất công nghiệp.
Trên cơ sở nắm vững quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin,
Hồ Chí Minh và Đảng CSVN, tác giả cho rằng: Trí thức hoá công nhân là quá
trình sử dụng tổng hợp các biện pháp, cách thức nhằm nâng trình độ học vấn,
trình độ tri thức, chuyên môn nghề nghiệp, khoa học, công nghệ và năng lực
hoạt động thực tiễn, làm chuyển hoá đội ngũ công nhân thành nguồn nhân lực
chất lượng cao đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển nền
kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế; xứng đáng là lực lượng tiền phong trong
sự nghiệp xây dựng CNXH.
Xung quanh quan niệm này có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến đề
xuất nên gọi là công nhân tri thức (tri thức hoá công nhân), có ý kiến gọi là
công nhân trí thức (trí thức hoá công nhân). Tác giả luận văn cho rằng, khi nói
tới công nhân tri thức là nói tới trình độ công nhân (bao gồm cả tri thức kinh
nghiệm, tri thức khoa học, tri thức sống) như vậy quan niệm công nhân tri
thức chủ yếu mang tính định lượng. Còn quan niệm công nhân trí thức mang
cả tính định lượng lẫn định tính là “Công nhân trí thức là công nhân có trình
độ ngang với trí thức, trình độ này hiện nay được cụ thể hoá bằng trình độ từ
cao đẳng hoặc tương đương trở lên, hoặc những công nhân tối thiểu tốt nghiệp
trung học phổ thông nhưng phải được đào tạo thêm về mặt lý luận là từ cao
đẳng trở lên, về mặt thực tiễn là học nghề đạt trình độ công nhân kỹ thuật”
[42, tr.56]. Như vậy nội hàm công nhân trí thức chỉ ra trình độ tối thiểu phải
có, trình độ tối đa không giới hạn. Việc tác giả sử dụng thuật ngữ “trí thức hoá
công nhân” như trên phù hợp với tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6
khoá X về tiếp tục xây dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước.
20

Trong điều kiện khoa học phát triển như hiện nay, yêu cầu làm rõ đâu là
công việc có tính chất công nhân, đâu là công việc có tính chất trí thức là một
việc làm khó. Sự xích lại gần nhau và sự chuyển hoá bộ phận giữa công nhân
và trí thức là một xu thế đang diễn ra nhanh chóng. Tác giả Cao Văn Lượng
viết “Không phải mọi trí thức đều nằm trong giai cấp công nhân” [26, tr.52],
chỉ có bộ phận trí thức thường xuyên lao động trực tiếp trong dây chuyền sản
xuất công nghiệp và dịch vụ công nghiệp mới được xem là bộ phận của
GCCN. Tuy nhiên, việc phân biệt GCCN với tầng lớp trí thức vẫn là một thực
tế và cần thiết để thấy rõ vai trò của GCCN và vai trò của tầng lớp trí thức
trong tiến trình phát triển của xã hội hiện đại và thấy được sự tác động qua lại
giữa GCCN và tầng lớp trí thức trong quá trình GCCN thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình.
Đặc trưng của công nhân trí thức là lao động chủ yếu bằng tri thức, kỹ
năng nghề nghiệp hiện đại với công nghệ tiên tiến và tính xã hội hoá cao; họ
vừa có khả năng sử dụng trang thiết bị hiện đại đồng thời có khả năng hoạt
động sáng tạo với trình độ chuyên môn cao. Công nhân trí thức hiện nay có
kiến thức liên thông với nhiều nghề, nhiều lĩnh vực khác nhau. Quá trình lao
động của họ cần tới những phẩm chất riêng của từng người song luôn gắn bó
liên hiệp và cần sự hỗ trợ của nhiều người, nhiều ngành. Tính chất xã hội hoá
của lao động công nghiệp ngày nay không chỉ là hợp tác, liên kết công nghệ kỹ
thuật, mà còn mở ra theo nhiều chiều khác như kinh tế - xã hội: Sản phẩm có
tính cạnh tranh, bảo đảm phát triển bền vững, an toàn với môi trường v.v. Công
nhân trí thức cũng có sự khác biệt với trí thức trong xã hội. “Trí thức là những
người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về từng lĩnh vực chuyên môn
nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức,
tạo ra những sản phẩm tinh thần có giá trị đối với xã hội” [11, tr.81-82]. Trí
thức có phương thức lao động đặc thù khác với công nhân trí thức: chủ yếu là
lao động sản xuất tinh thần bằng trí tuệ sáng tạo mang tính cá nhân. Sản phẩm

×