Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.2 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





TRẦN VIẾT DƢƠNG






PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƢỜI
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ Ở TỈNH VĨNH PHÚC






LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC













HÀ NỘI - 2012

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




TRẦN VIẾT DƢƠNG






PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƢỜI
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ Ở TỈNH VĨNH PHÚC



Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60 22 80





LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC





Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THÁI SƠN






HÀ NỘI - 2012

2

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 5
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUỒN LỰC CON NGƢỜI TRONG
SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY 15
1.1. Tính tất yếu của phát triển nguồn lực con người trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay 15
1.1.1. Một vài quan niệm về nguồn lực con người và phát triển nguồn
lực con người 15
1.1.2. Tính tất yếu phát triển nguồn lực con người trong quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta 23
1.2. Thực trạng và những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực
con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt
Nam hiện nay 35
1.2.1. Dân số và cơ cấu độ tuổi lao động 35
1.2.2. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay 40
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT
TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƢỜI Ở VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2010 -
2015 46
2.1. Thực trạng phát triển nguồn lực con người ở tỉnh Vĩnh Phúc 46
2.1.1. Điều kiện lịch sử - tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự
hình thành và phát triển nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Phúc 46
2.1.2. Thực trạng nguồn nhân lực của tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay 54
2.2. Chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc đến năm
2015, tầm nhìn đến năm 2020 71
2.3. Phương hướng và giải pháp cơ bản phát triển nguồn lực con người ở
tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2010 - 2015 83
2.3.1. Phương hướng phát triển nguồn lực con người ở tỉnh Vĩnh Phúc
giai đoạn 2010 - 2015 83
2.3.2. Giải pháp cơ bản phát triển nguồn lực con người ở tỉnh Vĩnh
Phúc giai đoạn 2010-2015 92
KẾT LUẬN 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 112

3

BẢNG QUY ƢỚC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH: Chủ nghĩa xã hội

ĐCSVN: Đảng Cộng sản Việt Nam
ĐH, CĐ: Đại học, cao đẳng
HĐND: Hội đồng nhân dân
LLSX: Lực lượng sản xuất
NQTU: Nghị quyết Tỉnh ủy
NNL: Nguồn nhân lực
TCCN: Trung cấp chuyên nghiệp
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
TTGDTX: Trung tâm Giáo dục thường xuyên
TW: Trung ương
UBND: Uỷ ban nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa










4
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn
Vấn đề con người, bản chất con người, nguồn lực con người luôn được
các nhà tư tưởng trong lịch sử triết học quan tâm nghiên cứu. Trong triết học
Mác- Lênin, vấn đề con người, bản chất con người và giải phóng con người

được coi là đối tượng nghiên cứu trọng tâm. Việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề
này để tạo cơ sở nền tảng lý luận cho phương pháp nhận thức và giải quyết
vấn đề phát triển nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới và xây dựng
đất nước hiện nay nhằm thực hiện hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá còn có ý nghĩa to lớn cả về mặt thực tiễn. Lịch sử phát triển kinh
tế - xã hội thế giới và Việt Nam những năm qua cho thấy, để có được sự tăng
trưởng, phát triển kinh tế bền vững và ổn định thì tất yếu phải nâng cao chất
lượng đội ngũ lao động nói chung, lao động chuyên môn nói riêng. Việc phát
triển nguồn lực con người là nhân tố quan trọng, là động lực cho tăng trưởng
và phát triển kinh tế - xã hội; mặt khác, đây cũng là nhân tố tạo bước đột phá
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá sản xuất xã hội. Việc CNH,
HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi rất lớn
đến phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhận thức được tầm quan
trọng của nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội, Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) khẳng định "Con người và nguồn lực con
người là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá". Khẳng định lại và tiếp tục phát triển thêm, Đại hội
Đảng lần thứ X (2006) yêu cầu "Phát huy nội lực trước hết là phát huy nguồn
lực con người, nguồn lực của toàn dân tộc, khai thác có hiệu quả nguồn tài
nguyên thiên nhiên và sử dụng tốt nhất nguồn lực của Nhà nước. Điều có ý
nghĩa quyết định là phải có chính sách phù hợp để phát huy tối đa khả năng về
vật chất, trí tuệ và tinh thần của mọi người dân, của các thành phần kinh tế,

5
đặc biệt là kinh tế tư nhân - một nguồn lực giàu tiềm năng của dân tộc ta - để
góp phần quan trọng giải quyết việc làm, đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả
phát triển kinh tế - xã hội". Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) coi “Con người là
trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng
và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân
tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân ” [26, tr.76].

Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển nguồn lực con người và sử
dụng nguồn lực con người có hiệu quả, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế
- xã hội vẫn còn là vấn đề gặp nhiều thách thức ở các cấp, các ngành. Vĩnh
Phúc cũng gặp những khó khăn nhất định trong việc đảm bảo nguồn nhân lực
phục vụ việc đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp CNH, HĐH. Là địa phương có
những bước chuyển mang tính đột phá trong phát triển CNH, HĐH hoá từng
ngành và lĩnh vực; tuy nhiên trước sự mở rộng và phát triển ngày càng nhanh
của CNH, HĐH, đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém trong đào tạo, sử dụng và
quản lý nguồn lực con người; cản trở tới sự phát triển bền vững của Vĩnh
Phúc hiện nay.
Để góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận khoa học và tổng kết thực
tiễn Vĩnh Phúc về phát triển nguồn lực con người, đồng thời trên cơ sở thực
trạng với hoàn cảnh tự nhiên, dân cư v.v Vĩnh Phúc với những biểu hiện đặc
thù trong việc phát triển nguồn lực con người. Thêm vào đó, do ảnh hưởng
của nền kinh tế còn đang chập chững trên những bước chuyển đổi, của quá
trình CNH, HĐH và giao thương kinh tế với nước ngoài đang diễn ra mạnh
mẽ nên vấn đề phát triển nguồn lực con người ở Vĩnh Phúc cũng đang trải qua
những thay đổi sâu sắc, đòi hỏi phải nắm bắt kịp thời để đưa ra những giải
pháp khả thi. Một số khâu trong đào tạo nguồn lực con người đang bị buông
lỏng hoặc biến đổi theo hướng tiêu cực dẫn đến chất lượng sản phẩm đầu ra
sút giảm. Một số ban ngành ở địa phương vẫn chưa có chủ trương nhất quán
trong việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực của mình. Điều này đã và đang

6
gây ra ngáng trở không ít tới sự phát triển nguồn lực con người ở nước ta và ở
Vĩnh Phúc nói riêng. Chính vì thế mà nghiên cứu tìm ra quy luật của mối
quan hệ giữa thực hiện CNH, HĐH và phát triển nguồn lực con người đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững, bước đầu xây dựng cơ sở lý luận và đề xuất
giải pháp thực hiện thắng lợi các mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở Vĩnh Phúc đến năm 2015, tầm nhìn 2020 do Nghị quyết Tỉnh ủy lần thứ

XIV, XV đề ra; chúng tôi chọn vấn đề Phát triển nguồn lực con người trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc làm đề tài luận văn
Thạc sỹ Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài luận văn
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển của xã
hội. Thực tiễn chứng minh rằng, sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia phụ
thuộc nhiều vào đầu tư, khai thác có hiệu quả nguồn lực con người. Do đó vấn
đề con người, nguồn nhân lực, phát triển nguồn lực con người là đối tượng
thu hút quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học; đặc biệt là trong giai
đoạn triển khai, đẩy mạnh và đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp CNH, HĐH.
Có thể kể những công trình nghiên cứu trực tiếp về con người, nguồn
lực con người đã được xã hội hóa thành công trình nghiên cứu khoa học, sách,
bài viết đăng trên tạp chí và báo cũng như trong đề tài luận văn, luận án gần
với đề tài luận văn này của chúng tôi. Ví dụ (xếp theo thứ tự thời gian): Trung
tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia (1995): Con người và nguồn lực
con người trong phát triển. Cuốn sách đã đã tập hợp các bài viết, công trình
nghiên cứu của nhiều tác giả trên thế giới bàn về vấn đề con người từ nhiều
góc độ khác nhau; về động cơ hoạt động của con người; mô hình mới về sử
dụng nguồn lực con người; trí tuệ hoá lao động và đào tạo chuyên môn; tiếp
cận mới đối với chính sách việc làm, con người và môi trường. GS. Phạm
Minh Hạc (1996): Về phát triển nhân lực con người trong thời kỳ CNH, HĐH,
Nxb. Chính trị Quốc gia. Tiến sĩ Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm (1998): Phát

7
triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta. Cuốn sách
đã khái quát những kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực của các nước
phát triển trên thế giới và tập trung nghiên cứu lĩnh vực giáo dục - đào tạo -
yếu tố quyết định phát triển nguồn nhân lực. Viện Phát triển Giáo dục (2002):
Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực.
Cuốn sách đã tập hợp kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học và các nhà

quản lý ở nhiều lĩnh vực khoa học kinh tế và xã hội khác nhau với mục tiêu
thống nhất quan điểm, chính sách về phát triển nguồn nhân lực. Đồng thời, đề
xuất một khung chính sách phát triển nguồn nhân lực nhằm triển khai thành
công các mục tiêu đề ra trong chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo. Tiến sĩ
Vũ Bá Thể (2005): Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Nxb. Lao động - Xã hội. Từ nghiên cứu kinh nghiệm phát triển
nguồn nhân lực của một số nước trên thế giới và thực trạng nguồn nhân lực ở
nước ta, tác giả đã đưa ra những quan điểm về nguồn nhân lực và phát triển
nguồn nhân lực; vai trò của nguồn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế và sự
nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam; đồng thời, đưa ra định hướng và những giải
pháp nhằm phát huy nguồn lực con người ở nước ta hiện nay. Tiến sĩ Đoàn
Văn Khái (2005): Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở Việt Nam, Nxb. Lý luận Chính trị. Tác giả cuốn sách đã trình bày
một số vấn đề chung về CNH, HĐH trên thế giới và Việt Nam; vai trò của
nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH; thực trạng nguồn lực con
người ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra trước yêu cầu CNH, HĐH; những
giải pháp cơ bản nhằm khai thác và phát triển có hiệu quả nguồn lực con
người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay. Tiến sĩ Nguyễn
Thanh (2005): Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia. Tác giả đã luận giải rõ phát triển
nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH,
đồng thời nêu lên một số thực trạng về phát triển nguồn nhân lực có chất

8
lượng, trên cơ sở đó đưa ra một số định hướng chủ yếu trong phát triển nguồn
nhân lực cho CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. Vũ Bá Thể (2005): Phát triển
nguồn nhân lực để CNH, HĐH - kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn, Nxb. Lao
động - Xã hội. Tiến sĩ Phạm Công Nhất (2008): Nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế, Tạp chí Lý luận
Chính trị (số 3) đã khái quát kết quả hơn 20 năm đổi mới và hơn 1 năm gia

nhập Tổ chức Thương mại thế giới của Việt Nam, đồng thời chỉ rõ thực trạng
phát triển nguồn nhân lực ở nước ta và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Luận án Tiến sĩ Triết học của nghiên cứu sinh Trần Kim Hải (Học viện
An ninh, 1998): Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở nước ta đã phân tích từ góc độ về hiện trạng, yêu cầu và những
vấn đề đang đặt ra trong sử dụng nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở nước ta.
Theo đó, nguồn nhân lực hiện có còn chưa đáp ứng được những yêu cầu và
đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH. Vì vậy, quá trình khai thác, sử dụng cần
phải được đặt trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với việc nâng cao chất lượng
của nguồn nhân lực. Phải coi nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một nội
dung, một tiền đề cơ bản để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho
CNH, HĐH. Luận án khẳng định, những vấn đề bức xúc nhất của việc nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực nước ta là mở rộng quy mô đào tạo trên cơ sở
đa dạng hoá các nguồn vốn, điều chỉnh cơ cấu đào tạo, đổi mới nội dung,
chương trình đào tạo, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực theo
hướng CNH, HĐH, đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên
gia, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em Tất cả phải hướng tới mục tiêu
cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng được những yêu cầu và
đòi hỏi khắt khe của thị trường sức lao động trong nước và quốc tế, phù hợp
với yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. GS.TS Trần Côn: Chủ nghĩa

9
Mác- Lênin và vấn đề con người, xây dựng con người mới. (Kỷ yếu Toạ đàm
Khoa học -Trung tâm Đào tạo, Bồi dưõng giảng viên lý luận chính trị, Đại
học Quốc gia Hà Nội). Giáo sư đã phân tích một cách khoa học bản chất con
người dựa trên lý luận và lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin; về vị trí của
vấn đề xây dựng con người mới trong xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển; về
phương hướng xây dựng con người mới trong điều kiện của cách mạng khoa

học - kỹ thuật hiện đại. TS.Nguyễn Văn Thành (2008): Phát triển nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; Nguyễn Thị Tú Oanh (1999):
Phát huy nguồn lực thanh niên trong sự nghiệp CNH, HĐH, luận án tiến sĩ.
Trong luận án tác giả đã làm rõ vai trò của nguồn lực thanh niên trên cơ sở
phân tích những yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp CNH, HĐH. Từ đó, đề
xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát huy và phát triển nguồn
nhân lực thanh niên đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạp chí Kinh tế và Dự báo (04) - Ngoài ra,
còn nhiều bài viết của các nhà khoa học đăng trên các báo và tạp chí bàn về
những vấn đề liên quan đến nguồn nhân lực Việt Nam và trên thế giới trong
thời gian gần đây. Các công trình nghiên trên đã đề cập tới vấn đề con người
trong triết học Mác-Lênin, nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở nước ta; nội dung rộng, bao chứa nhiều lĩnh vực với phạm vi
khái quát cao Ví dụ, TS. Đỗ Minh Cương, PGS.TS. Nguyễn Thị Doan
(2001): Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam, Nxb. Chính trị
Quốc gia. GS.TS. Phạm Minh Hạc (1/2001): Giáo dục và nguồn nhân lực.
Tạp chí Thông báo Khoa học. Bùi Thị Ngọc (2002): Nguồn nhân lực trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia. PGS. Bùi Thanh Quất
(2005): Vai trò của đào tạo nhân lực quản lí trong chính sách phát triển
nguồn nhân lực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam (Kỷ
yếu Chính sách khoa học và giáo dục ở Việt Nam trong thời kì đổi mới). Nxb.
Lao động - Xã hội. Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội

10
(2005): Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2010, (ngày
04/05/2005). Nguyễn Thái Sơn (2006): Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay. NCKH. mã số 06.2006. GS.TS.Phạm
Tất Dong (2008): Xã hội học tập và nguồn nhân lực ở Việt Nam; Tạp chí
Cộng sản số 18 (162). Nguyễn Thái Sơn (2009): Một số mâu thuẫn nảy sinh
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. NCKH: mã số 09.06.

UBND Tỉnh Vĩnh Phúc (2007): Đề án phát triển nguồn nhân lực phục vụ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2008- 2015
Như vậy, hầu hết các công trình nghiên cứu của các tác giả đã đề cập
tới vấn đề nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa ở nước ta, nội
dung rộng, bao chứa nhiều lĩnh vực với phạm vi khái quát cao. Vì vậy, việc
vận dụng, cụ thể hóa những quan điểm và những giải pháp mà các tác giả đề
cập để áp dụng vào từng địa phương cho phù hợp với hoàn cảnh từng vùng,
từng miền đòi hỏi cần có những công trình nghiên cứu khác phù hợp.
Tuy nhiên, qua thu thập tài liệu phục vụ việc thực hiện luận văn, chúng
tôi chưa thấy có nghiên cứu nào trực tiếp đề cập đến vấn đề Phát triển nguồn
lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Vĩnh
Phúc với những đặc thù riêng của nó. Luận văn kế thừa thành tựu nghiên cứu
của những công trình trên, đặc biệt là nhứng ý tưởng và giá trị khoa học quý
giá của chúng sẽ được phát triển hơn lên trong luận văn này; giúp luận văn
tiếp tục nghiên cứu, cập nhật, phân tích, đánh giá thêm thực trạng vấn đề phát
triển nguồn lực con người trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc (đặc biệt từ khi tách
khỏi tỉnh Vĩnh Phú từ năm 1997 đến nay). Luận văn cũng đề xuất những
phương hướng, giải pháp cụ thể để công tác phát triển nguồn nhân lực con
người có tính hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hoàn
thành thắng lợi mục tiêu, kế hoạch của sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Vĩnh
Phúc đến năm 2015 như Nghị quyết Tỉnh ủy lần thứ XIV (2005) đề ra.

11
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm rõ những vấn dề lý luận chung về phát triển nguồn lực
con người trong CNH, HĐH và phân tích thực trạng phát triển nguồn lực con
người trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 1997-2009;
luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển nguồn lực con người
đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2010 - 2015.

* Nhiệm vụ của luận văn
+ Làm rõ những vấn đề lý luận chung về nguồn lực con người trong sự
nghiệp CNH, HĐH.
+ Phân tích thực trạng phát triển trạng nguồn lực con người tỉnh Vĩnh
Phúc trong giai đoạn 1997 - 2009, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và những
kết quả đạt được, những thiếu sót, hạn chế của việc xây dựng, phát triển
nguồn lực con người ở tỉnh Vĩnh Phúc và tìm ra nguyên nhân của vấn đề trên.
+ Đề xuất một số phương hướng, giải pháp cụ thể giúp công tác dự báo,
phát triển nguồn lực con người cho sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Vĩnh Phúc
giai đoạn 2010 - 2015 đạt hiệu quả cao hơn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình phát triển nguồn nhân
lực trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung, luận văn tập trung nghiên cứu quá trình phát triển
nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Vĩnh Phúc.
+ Về thời gian, luận văn nghiên cứu quá trình phát triển nguồn nhân lực
trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1997 đến nay.
+ Về không gian, luận văn nghiên cứu quá trình phát triển nguồn nhân lực
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

12
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; quan điểm của Đảng và Nhà nước; Chủ trương, Chính sách của Tỉnh
ủy, UBND tỉnh Vĩnh Phúc; là những giá trị về lý luận khoa học của các công
trình nghiên cứu nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở
tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1997 đến nay.

- Phương pháp nghiên cứu của luận văn là các phương pháp triết học
duy vật biện chứng; cụ thể là các phương pháp phân tích - tổng hợp, phương
pháp thống kê, đối chiếu, so sánh để nghiên cứu vấn đề phát triển nguồn
nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Vĩnh Phúc.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn tổng hợp lại cơ sở lý luận về xây dựng và hoàn thiện chính
sách phát triển hợp lý nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH.
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ thực trạng nguồn lực con người, phát
triển nguồn nhân lực trong CNH, HĐH ở tỉnh Vĩnh Phúc từ khi tách tỉnh (từ
năm 1997) đến nay.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn lực
con người ở địa phương trong giai đoạn tới, đặc biệt là giai đoạn 2010 - 2015
nhằm tiếp tục có những bước phát triển ổn định, bền vững trong kinh tế - xã
hội cho tỉnh Vĩnh Phúc.
* Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn được sử dụng làm nguồn tài liệu
tham khảo cho công tác giảng dạy chuyên đề nguồn nhân lực, phát triển
nguồn lực con người trong CNH, HĐH của giảng viên trường Chính trị tỉnh
Vĩnh Phúc.

13
- Kết quả nghiên cứu của luận văn còn được sử dụng làm nguồn tài liệu
tham khảo cho việc nghiên cứu vấn đề phát triển nguồn lực con người ở tỉnh
Vĩnh Phúc, là cơ sở cho việc xây dựng hệ thống chính sách phát triển nguồn
lực con người của Tỉnh trong sự nghiệp CNH, HĐH trong năm năm, mười
năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận, luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết:
Chƣơng 1. Một số vấn đề chung về nguồn lực con người trong sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
Chƣơng 2. Thực trạng và phương hướng, giải pháp cơ bản phát triển
nguồn lực con người ở Vĩnh Phúc giai đoạn 2010 - 2015.
















14
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUỒN LỰC CON NGƢỜI
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Tính tất yếu của phát triển nguồn lực con ngƣời trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay
1.1.1. Một vài quan niệm về nguồn lực con người và phát triển nguồn
lực con người
“Nguồn nhân lực”, “nguồn lực con người”, “phát triển nguồn nhân lực”

là những khái niệm được hình thành trong quá trình xem xét, nghiên cứu con
người với tính cách là nguồn lực cơ bản trong phương thức sản xuất, yếu tố
chính trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Trong hội nhập, quan hệ kinh tế phát triển mạnh, đòi hỏi mỗi quốc gia
xác định đúng và huy động có hiệu quả tất cả các nguồn lực để phục vụ sự ổn
định và phát triển của đất nước. Trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, vấn đề
nguồn nhân lực đã thực sự trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc
gia. Có nhiều công trình khoa học, các chính sách về nguồn lực con người và
phát triển nguồn lực con người đã đạt được những thành tựu nhất định, đưa lại
nhận thức ngày càng đầy đủ và đúng đắn về nguồn lực con người. Theo dõi
quá trình nghiên cứu về nguồn lực con người và phát triển nguồn lực con
người trong các công trình đó cho thấy, quan niệm về nguồn lực con người và
phát triển nguồn lực con người khá đa dạng, được xem xét từ nhiều góc độ,
theo nghĩa rộng, nghĩa hẹp khác nhau.
Chủ nghĩa Mác-Lênin coi con người; người lao động; nguồn lực con
người là một trong những yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, là yếu tố
quan trọng nhất, yếu tố quyết định sự vận động và phát triển của lực lượng
sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó, quyết định năng xuất lao

15
động và tiến bộ xã hội. Con người, vai trò nguồn lực con người được C.Mác
và Ph.Ăngghen xem xét dưới góc độ và với tính cách là một trong những vai
trò nguồn lực to lớn: "Bản thân con người là cơ sở của nền sản xuất vật chất
của họ, cũng như của mọi sản xuất khác do con người thực hiện. Vì vậy, tất cả
những tình huống nào tác động đến con người, đến cái chủ thể đó của sản
xuất, thì cũng ít nhiều làm thay đổi tất cả những chức năng và hình thức hoạt
động của nó, tức là cũng làm biến đổi những chức năng và hình thức hoạt
động mà con người thực hiện với tư cách là kẻ sáng tạo ra của cải vật chất, ra
hàng hoá. Theo nghĩa đó, có thể thực sự chứng minh được rằng, tất cả các
quan hệ và chức năng của con người, cho dù chúng thể hiện ra dưới hình thức

nào và dưới cái gì, đều ảnh hưởng đến nền sản xuất vật chất, và nhiều hay ít
đều tác động đến nền sản xuất đó một cách quyết định” [46, tr.400]. Các ông
cũng chỉ ra rằng, trong quá trình vận động và phát triển của xã hội; sự vận
động, thay thế của mỗi hình thái kinh tế - xã hội phù hợp với mỗi một phương
thức sản xuất nhất định, và một khi phương thức sản xuất ấy thay đổi thì hình
thái đó cũng thay đổi theo. Nhân tố quyết định phương thức sản xuất vận
động theo hướng đi lên trong lịch sử là lực lượng sản xuất (bao gồm người lao
động, công cụ lao động, khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp) và như thế, không phải cái gì khác mà chính là con người, nguồn lực con
người cùng với những công cụ lao động do nó chế tạo ra, hàm chứa những
thành tựu khoa học trong đó, đã quyết định sự thay đổi của bộ mặt xã hội:
“Khi phát triển lực lượng sản xuất của mình, nghĩa là khi sinh sống, thì con
người cũng phát triển những quan hệ nhất định với nhau , và tính chất của
những quan hệ ấy tất yếu phải thay đổi cùng với sự biến cải và phát triển của
những lực lượng sản xuất” [47, tr.664]. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-
Lênin còn xem xét con người, nguồn lực con người trong tính tổng hoà các
mối quan hệ xã hội của nó: "Bản chất con người không phải là cái trừu tượng
vốn có của một cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con

16
người là tổng hoà của tất cả các quan hệ xã hội" [43, tr.11]. Con người với
tính cách là một trong những nguồn lực quyết định sự phát triển của đời sống
kinh tế - xã hội còn được các nhà kinh điển khẳng định là người làm chủ được
quan hệ giữa mình với tự nhiên, với xã hội và với chính bản thân. Đó là
những con người, với vai trò là một trong những yếu tố cấu thành mang tính
quyết định phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải “hoàn toàn mới”,
được phát triển toàn diện về các mặt trí, đức, thể, mỹ: “Con người, cuối cùng
làm chủ tồn tại xã hội của chính mình thì cũng do đó mà làm chủ tự nhiên,
làm chủ cả bản thân mình, trở thành người tự do” [44, tr.333]. C.Mác và
Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng trong điều kiện phát triển xã hội mới, dưới chế

độ mới luôn đặt ra đối với việc phát triển con người, nguồn lực con người
trong tính toàn diện: “Giống như trong thế kỷ trước, người nông dân và người
công nhân công trường thủ công, sau khi được thu hút vào đại công nghiệp,
đã thay đổi toàn bộ lối sống của họ và bản thân họ đã trở thành những con
người hoàn toàn khác hẳn; hiện nay cũng vậy, việc tiến hành sản xuất tập thể
bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do việc
đó mang lại, sẽ cần đến những con người hoàn toàn mới đó Vậy thì nền
công nghiệp do toàn xã hội thực hiện một cách tập thể và có kế hoạch lại càng
cần có những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông
toàn bộ hệ thống sản xuất” [42, tr.474-475]. Các ông đặc biệt đề cao vai trò
con người với tính chất của những quan hệ người với người trong mối quan
hệ biện chứng của lực lượng sản xuất: “Những thời đại kinh tế khác nhau
không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng
cách nào, với những tư liệu lao động nào. Các tư liệu lao động không những
là cái thước đo sự phát triển sức lao động của con người, mà còn là một chỉ
tiêu của những quan hệ xã hội trong đó lao động được tiến hành” [42, tr.269].
Như vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin coi trong quá trình phát
triển của đời sống vật chất của mỗi thời đại kinh tế, của tư liệu sản xuất giữ

17
vai trò quan trọng, đặc biệt là các công cụ lao động, cái làm tăng sức mạnh
cho sự phát triển của sức lao động con người, của nguồn lực con người, mà
còn là một trong những yếu tố cấu thành của những quan hệ xã hội trong lao
động sản xuất.
Các ông còn cho rằng, con người vừa là điểm khởi đầu vừa là sự kết
thúc, đồng thời lại vừa là trung tâm của sự biến đổi lịch sử; nói cách khác con
người là chủ thể của các quá trình phát triển xã hội. Tuy nhiên, trong phạm vi
của mỗi một phương thức sản xuất đặc trưng, con người bao giờ cũng được
chủ nghĩa Mác-Lênin nhấn mạnh ở tính xã hội (mặt xã hội). Với tính cách là
một thành tố của lực lượng sản sản xuất, con người vừa là chủ thế chế tạo và

tiêu dùng sản phẩm của sản xuất; vừa là nguồn lực đặc biệt của sản xuất.
Thực tiễn khẳng định giá trị chủ đạo to lớn của các quan điểm cơ bản
trên về con người, nguồn lực con người; đồng thời cũng đòi hỏi và cho phép
cụ thể hoá, làm phong phú thêm một cách sinh động những quan điểm đó của
C.Mác và Ph.Ăngghen qua việc giải quyết vấn đề phát triển nguồn nhân lực
trong sự nghiệp CNH, HĐH của nước ta hiện nay. Đó là trong quá trình CNH,
HĐH; quá trình hội nhập và phát triển đất nước nhằm xây dựng xã hội “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [26, tr.70]. Đảng ta luôn xác
định con người Việt Nam là nguồn lao động dồi dào, có truyền thống yêu
nước, cần cù, sáng tạo; có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt
nhanh khoa học, công nghệ và là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất.
Trong quá trình thu thập tài liệu phục vụ việc triển khai luận văn, chúng
tôi còn gặp nhiều quan điểm khác về nguồn lực con người. Liên hợp quốc coi
nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và
tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và
của đất nước. Ngân hàng Thế giới cho rằng nguồn nhân lực là toàn bộ vốn
con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân.
Như vậy, các quan niệm trên coi nguồn lực con người là một nguồn vốn bên

18
cạnh các loại vốn vật chất khác như vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên
nhiên Tổ chức Lao động Quốc tế coi nguồn nhân lực một quốc gia là toàn
bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động và nguồn nhân
lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực cung cấp sức
lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển.
Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực
cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao
động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các
cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể

lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động. Lý luận Kinh tế phát
triển cho rằng, nguồn lực con người là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy
định của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao động
và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang làm việc
trong các ngành kinh tế quốc dân. Nguồn lực con người được biểu hiện trên
hai mặt: về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm
việc theo quy định của nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được
từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và
trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao động là tổng số những
người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang tích
cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai mặt là số
lượng và chất lượng. Như vậy theo khái niệm này, có một số người được tính
là nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động, đó là những người
không có việc làm nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm, tức là những
người không có nhu cầu tìm việc làm, những người trong độ tuổi lao động
quy định nhưng đang đi học…
Từ hai nhóm quan niệm trên về nhân lực và nguồn nhân lực, có thể
nhìn từ góc độ triết học hiểu nguồn lực con người là tổng hoà thể lực và trí

19
lực; tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong
đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc
trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục
vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH hiện nay, con người
được coi là một ''tài nguyên đặc biệt'', một nguồn lực của sự phát triển (Văn
kiện XI). Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực chiếm
vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực khác như: Chăm lo
đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh,
thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con người là đầu tư có tính chiến

lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững. Tuy nhiên, do xuất
phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau
khi bàn về phát triển nguồn lực. Có quan điểm cho rằng, phát triển nguồn lực
con người là gia tăng giá trị cho con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả
trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở
thành người lao động có những năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng
được những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã
hội. Một số công trình khác quan niệm phát triển nguồn nhân lực là quá trình
nâng cao năng lực của con người về mọi mặt, thể lực, trí lực, tâm lực, đồng
thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn lực con
người thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm để phát
triển kinh tế - xã hội. Phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hình thức,
phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất
lượng từng con người lao động (trí tuệ, thể chất và phẩm chất tâm lý - xã hội)
đáp ứng đòi hỏi về nguồn lực con người cho sự phát triển kinh tế - xã hội
trong từng giai đoạn phát triển. Cũng tương tự như trong các thuật ngữ tăng
trưởng và phát triển kinh tế, phát triển nguồn lực con người gắn liền với sự
hoàn thiện, nâng cao chất lượng nguồn lực con người, thể hiện ở việc nâng

20
cao trình độ giáo dục quốc dân, trình độ kỹ thuật, chuyên môn, sức khoẻ và
thể lực cũng như ý thức hệ, đạo đức của người lao động. Còn tăng trưởng
nguồn lực con người gắn với việc tăng về số lượng trong lực lượng lao động.
Phát triển nguồn lực con người có vai trò và ý nghĩa quyết định hơn so với sự
tăng trưởng nguồn nhân lực, nhất là trong bối cảnh dân số, lao động và kinh tế
như ở nước ta nói chung và Vĩnh Phúc nói riêng.
Do đó, phát triển nguồn lực con người đòi hỏi tạo ra sự biến đổi về mặt
số lượng và chất lượng và một cơ cấu đội ngũ nhân lực hợp lý cần thiết để
tham gia một cách hiệu quả vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Quá trình
phát triển nguồn lực con người đòi hỏi phải đầu tư cho nguồn lực con người là

sự tác động đến đời sống của các cá nhân, gia đình, cộng đồng và toàn xã hội
nói chung. Phát triển nguồn lực con người phải là quá trình tạo điều kiện khơi
dậy và phát huy mọi tiềm năng của các cá nhân cho công cuộc xây dựng và
quá trình phát triển của quốc gia, vì sự tiến bộ kinh tế và xã hội.
Theo chúng tôi vấn đề phát triển nguồn lực con người đi đôi với hình
thành và phát triển thị trường lao động phù hợp cơ chế thị trường, đáp ứng
được yêu cầu về mọi mặt của nền sản xuất dựa trên kỹ thuật và công nghệ
hiện đại. Phân bổ nguồn lao động hợp lý theo lãnh thổ, ngành nghề, vùng
miền kinh tế, trong chuyển dịch cơ cấu (giữa các ngành, nội bộ ngành). Nói
cách khác, phát triển nguồn lực con người phải đảm bảo kết hợp chặt chẽ với
chương trình giải quyết việc làm để đạt hai mục tiêu: nhân lực phục vụ cho sự
nghiệp CNH, HĐH giải quyết việc làm cho xã hội. Tập trung các nguồn lực
và khả năng giải quyết việc làm cho người lao động, hạn chế đến mức thấp
nhất tỷ lệ thất nghiệp.Tuy nhiên, điểm thống nhất giữa các cách hiểu về phát
triển nguồn lực con người bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng
con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng
cuộc sống.

21
Theo chúng tôi, phát triển nguồn lực con người là sự biến đổi về số
lượng và chất lượng nguồn lực con người trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ
năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ
về cơ cấu nguồn lực con người. Nguồn lực con người là khái niệm dùng dùng
để chỉ số dân, cơ cấu dân số, chất lượng con người với tổng thể phẩm chất,
năng lực và tiềm năng sáng tạo nên sức mạnh để thúc đẩy kinh tế - xã hội của
một quốc gia phát triển. Khái quát hơn, phát triển nguồn lực con người chính
là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện của con người, vì sự phát
triển về mặt kinh tế, tiến bộ về mặt xã hội và sự phát triển toàn diện của mỗi
con người và mọi người.
Như vậy, phát triển nguồn lực con người với nội hàm trên đây thực chất

là đề cập đến vấn đề chất lượng nguồn lực con người và khía cạnh xã hội của
nguồn lực con người của mỗi quốc gia. Nguồn lực con người chất lượng cao
là khái niệm để chỉ một người lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về
chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại
lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (đại học, trên đại học, cao đẳng,
lao động kỹ thuật lành nghề). Do đó, phát triển nguồn lực con người là phát
triển con người cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích
cực chính trị - xã hội, về đạo đức, tình cảm và tâm hồn trong sáng tạo ra
nguồn lực con người chất lượng cao; có thể không cần đông về số lượng,
nhưng cần có chất lượng. Khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên
tri thức trong toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, nguồn lực con người đặc biệt là
nguồn lực con người có chất lượng ngày càng thể hiện vai trò quyết định của
nó. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng
trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản là áp dụng
công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng
nguồn lực con người. Trong đó, động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng
kinh tế bền vững là con người, đặc biệt là nguồn lực con người có chất lượng,

22
tức là những con người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay
nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo để trở thành “nguồn vốn - vốn con
người, vốn nhân lực”. Bởi trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh
tranh quyết liệt, khả năng phần thắng sẽ nghiêng về các quốc gia có nguồn lực
con người chất lượng, có môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư, có môi
trường chính trị - xã hội ổn định.
Phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Vĩnh
Phúc đang đặt ra nhiều vấn đề cả về số lượng và chất lượng Bên cạnh những
yều cầu nguồn lao động phổ thông, nguồn lao động chất lượng cao nhằm đáp
ứng cho nhu cầu phát triển 19 cụm, khu công nghiệp đã được Chính phủ phê
duyệt. Phát triển nguồn nhân lực Vĩnh Phúc hiện nay đặt ra những vấn đề đào

tạo, sử dụng và phân bổ một cách hợp lý, cũng như hệ thống cơ chế chính
sách phù hợp trong ưu đãi sử dụng nhân tài của Tỉnh.
1.1.2. Tính tất yếu phát triển nguồn lực con người trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
Trong thời đại ngày nay, khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
đang thay đổi nhanh chóng đời sống kinh tế - xã hội thì khoảng cách giữa các
nước chậm phát triển với các nước phát triển ngày càng trở thành hố sâu dài
ngăn cách. Vì vậy thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa được coi là một
phương thức cơ bản, một con đường tất yếu để cải biến một xã hội nông
nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp văn minh, tạo điều kiện để các
nước kém phát triển từng bước theo kịp các nước phát triển. Đồng thời, nó là
nền tảng đảm bảo cho đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân ngày càng đầy
đủ và hiện đại hơn.
Đứng trước các yêu cầu của của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn
mới, Đảng và Nhà nước ta luôn coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự
nghiệp cách mạng trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhằm hoàn
thiện cơ sở vật chất để xây dựng một xã hội mới dân chủ, công bằng, văn

23
minh. Vì vậy, trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
(1994), Đại hội lần VII đã thông qua và xác định một cách cụ thể đường lối
công nghiệp hóa, hiện đại hóa: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa
học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu với nguồn lực con người
chủ yếu là nông dân, đa số lao động chưa được đào tạo (nguồn nhân lực thấp),
để phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đặt ra vấn đề có ý nghĩa to lớn trong

việc phát triển nguồn lực con người nhằm đáp ứng cho sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước.
Thực trạng CNH, HĐH đất nước đòi hỏi phải có nguồn nhân lực, vốn và
tài nguyên. Đối với Việt Nam, cả hai nguồn lực tài chính và tài nguyên thiên
nhiên còn hạn chế, nên nguồn lực con người đương nhiên đóng vai trò quyết
định. So với các nước láng giềng chúng ta có lợi thế đông dân, tuy nhiên nếu
không được qua đào tạo thì dân đông sẽ là gánh nặng dân số, còn nếu được qua
đào tạo chu đáo thì đó sẽ là nguồn nhân lực lành nghề, có tác động trực tiếp đến
tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Một đội ngũ nhân
lực lao động lành nghề và đồng bộ cũng tạo nên sức hấp dẫn to lớn để thu hút
vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Thực tế cho thấy, sự phát triển kinh tế -
xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện, nhưng chủ yếu nhất vẫn là
phụ thuộc vào con người. Điều khẳng định trên lại càng đúng với hoàn cảnh
nước ta trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, và
cùng với xu thế hội nhập. So sánh các nguồn lực với tư cách là điều kiện tiền
đề phát triển đất nước và tiến hành CNH, HĐH đất nước thì nguồn nhân lực có
vai trò quyết định. Do vậy hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân lực phải

24
chiếm vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
ta. Đây là nguồn lực của mọi nguồn lực, là nhân tố quan trọng bậc nhất để đưa
nước ta nhanh chóng trở thành một nước vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện được mục tiêu này cần CNH, HĐH rút
ngắn bằng cách CNH gắn với HĐH, chứ không thể lặp đi tuần tự như chủ
nghĩa tư bản đã làm.
Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) nhận định nước ta đã thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, đã thực hiện xong cơ bản nhiệm vụ đề ra cho
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho CNH và cho phép
Việt Nam chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp CNH,

HĐH gắn với xây dựng kinh tế tri thức để đến năm 2020 trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại và đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước công
nghiệp hiện đại. Trên cơ sở nhận thức CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn
bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế,
xã hội; từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức
lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, dựa trên sự
phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao
động xã hội cao. Mở cửa, phát triển kinh tế nhiều thành phần, nâng cao quyền
tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Gắn công nghiệp hóa với
hiện đại hóa, lấy khoa học, công nghệ làm động lực; lấy nguồn lực con người
làm yếu tố trung tâm của CNH, HĐH.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam cần và có thể rút ngắn thời
gian so với các nước đi trước trên con đường này. Con đường công nghiệp
hóa như vậy cần tuân thủ các yêu cầu như: Phát triển kinh tế và công nghệ
phải vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những lợi
thế của đất nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển
kinh tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ và tinh thần của con người Việt

×