Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 133 trang )



TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ



NGUYỄN THỊ KIM NGUYÊN




CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở HẢI
DƯƠNG




LUẬN VĂN THS KINH TẾ




Người hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Đình Kháng




Hà Nội 2007



TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ



NGUYỄN THỊ KIM NGUYÊN




CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở HẢI
DƯƠNG




LUẬN VĂN THS KINH TẾ




Người hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Đình Kháng




Hà Nội 2007



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Ngày nay con ngƣời đƣợc thừa nhận là yếu tố cơ bản, có vai trò quyết
định nhất đối với sự phát triển. Quan niệm“ con ngƣời vừa là mục đích,vừa là
tác nhân của sự phát triển” đã đƣợc nhiều nƣớc, nhiều dân tộc thừa nhận và
coi đó nhƣ một qui luật phát triển của thời đại.
Ở nƣớc ta, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (7/1996) đã quyết định
đƣa đất nƣớc bƣớc vào một thời kì mới là đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng
một xã hội dân giàu, nƣớc mạnh, công bằng, văn minh. Trong sự nghiệp
CNH, HĐH chúng ta lấy việc “ phát huy nguồn lực con ngƣời” làm “yếu tố cơ
bản để phát triển xã hội, tăng trƣởng kinh tế nhanh và bền vững”. Nguồn nhân
lực là nguồn lực nội tại, cơ bản, quyết định sự nghiệp CNH, HĐH. Nguồn
nhân lực không những thể hiện vai trò chủ thể thực hiện quá trình CNH,
HĐH, sử dụng các nguồn lực khác để thực hiện thành công quá trình CNH,
HĐH mà còn giữ vai trò đối tƣợng đƣợc khai thác triệt để, đƣợc hƣởng thụ
những thành quả của quá trình này. Con ngƣời là nguồn lực của mọi nguồn
lực, là tài nguyên của mọi tài nguyên, giữ vị trí trung tâm trong toàn bộ quá
trình CNH, HĐH. Đại hội Đảng lần IX đã khẳng định: “Đáp ứng yêu cầu về
con ngƣời và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nƣớc
trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Cùng với các tỉnh thành khác trong cả nƣớc, Hải Dƣơng bƣớc vào thời
kì CNH, HĐH. Là tỉnh có có số dân đông (năm 2006 hơn 1,7 triệu ngƣời),
kinh tế thuần nông là chủ yếu, Hải Dƣơng đang từng bƣớc đẩy mạnh phát
triển công nghiệp để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng CNH, HĐH.
Hiện nay Hải Dƣơng phải đối mặt với nhiều vấn đề trong sự nghiệp phát
triển KT- XH. Trong quá trình CNH, HĐH xét trên nhiều phƣơng diện thì
càng thấy rõ nhiều khó khăn. Nguồn nhân lực, cụ thể là lực lƣợng lao động



2
tuy dồi dào, có tính cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo nhƣng vẫn còn
hạn chế không nhỏ về trình độ chuyên môn, kỹ năng, thể lực và văn hoá lao
động công nghiệp. Trong khi đó quá trình CNH, HĐH đòi hỏi NNL, nhất là
NNL cho ngành công nghiệp phải đƣợc nâng cao về chất lƣợng. Vì vậy,
ngoài việc nâng cao các tiền đề vật chất thì việc nâng cao chất lƣợng NNL,
đặc biệt NNL cho ngành công nghiệp ở Hải Dƣơng nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển KT-XH, thực hiện CNH, HĐH có vị trí rất quan trọng.
Xuất phát từ những lí do trên việc nghiên cứu đề tài: “Chất lượng
nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải
Dương” là hết sức cần thiết. Nó giúp chúng ta nhận thức rõ ràng hơn về vai
trò, thực trạng NNL trên cơ sở đó có những định hƣớng và giải pháp nâng cao
chất lƣợng NNL nhằm đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, thực hiện phát triển KT-
XH ở Hải Dƣơng hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Vấn đề NNL trong sự nghiệp CNH, HĐH cho đến nay đã có nhiều
công trình nghiên cứu khoa học, nhiều cuốn sách, nhiều bài báo đề cập đến
dƣới nhiều góc độ, phạm vi rộng hẹp khác nhau nhƣ:
- Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996.
- Phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá của Phan Xuân Dũng, Tạp chí Cộng sản, tháng 9/1997.
- Xây dựng nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở thành
phố Đà Nẵng của tác giả Vƣơng Quốc Đƣợc, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành
Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1999.
- Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
giáo sƣ, tiến sĩ Phạm Minh Hạc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.



3
- Đào tạo nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá dựa
trên tri thức ở nước ta hiện nay của giáo sƣ Đặng Hữu, Tạp chí Cộng sản,
tháng 2/2005.
- Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
Việt Nam của tiến sĩ Đoàn Văn Khái, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005.
- Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn của Lê Thị Ngân, Tạp chí Cộng sản, tháng
12/2003.
- Đào tạo gắn với sử dụng- giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
nhân lực trong nền kinh tế thị trường ở nước ta của Phan Tùng Mậu, Tạp chí
Giáo dục, tháng 2/2002.
- Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam của tiến sĩ Vũ Bá Thể, NXB Lao
động - Xã hội, Hà Nội, 2005.
- Giáo trình Nguồn nhân lực của phó giáo sƣ, tiến sĩ Nguyễn Tiệp,
NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội, 2005.
Nhƣ vậy, tuy đã có nhiều đề tài và công trình nghiên cứu về NNL,
nhƣng do đây là một vấn đề có nội hàm rộng nên các công trình trên chỉ mới
đề cập tới một khía cạnh nào đó, hoặc mới chỉ đƣa ra những giải pháp chung
chung, chƣa đi sâu vào vấn đề chất lƣợng và việc nâng cao chất lƣợng NNL ở
một địa bàn cụ thể.
Ở Hải Dƣơng cũng có một số công trình nghiên cứu về vấn đề NNL,
song các công trình đó cũng mới đi vào nghiên cứu một cách khái quát việc
phát triển NNL, chƣa đi vào nghiên cứu sâu vấn đề chất lƣợng NNL và đặc
biệt NNL cho một ngành tại địa bàn.





4

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
* Đối tượng nghiên cứu:
Nguồn nhân lực bao hàm nhiều phƣơng diện, luận văn lấy chất lƣợng
NNL trong quá trình CNH, HĐH làm đối tƣợng nghiên cứu vì đây là vấn đề
đang đƣợc chú trọng trong giai đoạn hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu vấn đề chất lƣợng NNL trong phạm vi tỉnh Hải
Dƣơng thời kỳ CNH, HĐH. Trong đó luận văn sẽ đi sâu nghiên cứu chất
lƣợng NNL cho ngành công nghiệp ở Hải Dƣơng.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
* Mục đích:
Từ việc làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng chất lƣợng NNL trong quá
trình CNH, HĐH, luận văn đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lƣợng NNL ở Hải Dƣơng trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về chất lƣợng NNL trong quá trình CNH,
HĐH đất nƣớc.
- Làm rõ thực trạng chất lƣợng NNL ở Hải Dƣơng.
- Đề xuất một số phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản để nâng cao chất
lƣợng NNL đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH ở Hải Dƣơng.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
* Cơ sở lý luận:
Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm, đƣờng lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc,
các lý thuyết kinh tế hiện đại về NNL.



5


* Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phƣơng pháp biện chứng mác xít, đặc biệt sử dụng các phƣơng
pháp nghiên cứu kinh tế chính trị làm cơ sở, kết hợp với các phƣơng pháp
phân tích tổng hợp, hệ thống hoá để thực hiện đề tài.
6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn.
* Đóng góp của luận văn.
- Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn của vấn đề chất lƣợng NNL,
đặc biệt chất lƣợng NNL ngành công nghiệp, luận văn làm rõ hơn thực trạng
của NNL tỉnh Hải Dƣơng.
- Kiến giải có căn cứ lý luận và thực tiễn những định hƣớng và giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lƣợng NNL ở Hải Dƣơng.
* Ý nghĩa của luận văn.
- Kết quả của luận văn góp thêm cơ sở khoa học cho việc định hƣớng
và đƣa ra những kế hoạch phát triển NNL trong quá trình CNH, HĐH ở Hải
Dƣơng.
- Luận văn có thể dùng tài liệu tham khảo cho các cơ quan hữu trách,
cho các trƣờng học, cơ sở đào tạo có liên quan đến xây dựng, phát triển NNL
của tỉnh Hải Dƣơng; dùng làm tài liệu tham khảo việc nghiên cứu vấn đề về
NNL, giảng dạy môn kinh tế chính trị trong các trƣờng Đại học và Cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chƣơng 6 tiết.
Chương 1: Chất lƣợng nguồn nhân lực và những yêu cầu về chất lƣợng
nguồn nhân lực cho quá trình CNH, HĐH ở Hải Dƣơng.



6
Chương 2: Thực trạng chất lƣợng nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở
Hải Dƣơng hiện nay.
Chương 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất
lƣợng nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở Hải Dƣơng.
Chương 1
CHẤT LƢỢNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ YÊU CẦU VỀ CHẤT LƢỢNG NGUỒN
NHÂN LỰC CHO QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
Ở HẢI DƢƠNG
1.1 Nguồn nhân lực và chất lƣợng nguồn nhân lực trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.
1.1.1 Nguồn nhân lực và vai trò của nó trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
1.1.1.1 Quan niệm về nguồn nhân lực
Ngày nay, hầu hết các quốc gia đều coi nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản,
có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển nhanh và bền vững. Ơ nƣớc ta
từ khi công cuộc đổi mới bƣớc vào giai đoạn mới, giai đoạn CNH, HĐH đất
nƣớc Đảng và Nhà nƣớc cũng đã nhấn mạnh yếu tố quyết định này. Liên tục
trong những năm gần đây, Đảng ta đã ra hàng loạt các nghị quyết về phƣơng
hƣớng, mục tiêu, điều kiện và giải pháp tác động vào nhiều lĩnh vực có liên
quan trực tiếp đến sự nghiệp chăm sóc, bồi dƣỡng và phát huy nguồn nhân
lực, phát triển con ngƣời Việt Nam toàn diện. Đảng ta coi NNL là yếu tố
quyết định sự thắng lợi của CNH, HĐH đất nƣớc. Con ngƣời vừa là động lực,
vừa là mục tiêu của CNH, HĐH. Chỉ có CNH, HĐH mới có thể tạo ra những
tiền đề để con ngƣời phát triển toàn diện. Đồng thời quá trình CNH, HĐH
cũng đòi hỏi con ngƣời phải có năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức
Nguồn nhân lực đƣợc hiểu theo nghĩa rộng nhƣ lí thuyết phát triển, đó
là nguồn lực con ngƣời của một quốc gia, là một bộ phận của các nguồn lực



7
tham gia vào quá trình phát triển KT- XH. Nguồn nhân lực khác với các
nguồn lực khác (vốn, đất đai, công nghệ…) ở chỗ nguồn lực con ngƣời với
hoạt động lao động sáng tạo, tác động vào thế giới tự nhiên, biến đổi giới tự
nhiên, là yếu tố quan trọng nhất của lực lƣợng sản xuất. Mặt khác, trong quá
trình lao động làm nảy sinh các quan hệ sản xuất. Trong mọi hình thái KT-
XH, nguồn nhân lực là nhân tố trung tâm, giữ vai trò quyết định đối với sự
phát triển của sản xuất. Đồng thời là mục đích của nền sản xuất xã hội.
Theo nghĩa hẹp (xét theo từng thời kì) đó là nguồn lực của một quốc
gia, là bộ phận dân số trong độ tuổi qui định có khả năng tham gia lao động (ở
nƣớc ta đƣợc hiểu là bộ phận dân số từ đủ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam và
55 tuổi đối với nữ trừ những ngƣời tàn tật, mất sức lao động loại nặng và cả
lao động trẻ em và lao động cao tuổi).
Nguồn nhân lực đƣợc nghiên cứu trong luận văn là tổng hợp những con
ngƣời, chủ thể với những năng lực, phẩm chất nhất định đã, đang và sẽ tham
gia vào quá trình CNH, HĐH. “Nguồn nhân lực” hay còn gọi là “Nguồn lực
con ngƣời”, “Nguồn tài nguyên ngƣời” đó là những chủ thể không tồn tại một
cách biệt lập mà chúng đƣợc liên kết với nhau thành một chỉnh thể thống nhất
về tổ chức, tƣ tƣởng và hành động. Tổng hợp những chủ thể này là tổng hợp
sức mạnh của một tổng thể ngƣời chứ không phải sự tập hợp đơn giản số
lƣợng ngƣời. Sức mạnh ấy là cái vốn có bên trong của mỗi con ngƣời và đƣợc
nhân lên trong chỉnh thể thống nhất. Nguồn nhân lực cho CNH, HĐH còn
đƣợc hiểu không chỉ là những chủ thể đang tham gia vào quá trình CNH,
HĐH mà cả những chủ thể đã và sẽ tham gia vào quá trình này.
Nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển KT- XH
trong thời đại ngày nay. Tuy có thể hiểu khái niệm này theo nghĩa rộng hay
nghĩa hẹp, nhƣng nhìn chung, nguồn nhân lực đƣợc xem xét dƣới hai góc độ


8

là số lƣợng và chất lƣợng của bộ phận dân cƣ tham gia vào hoạt động KT-
XH, vào quá trình CNH, HĐH đất nƣớc.
Số lƣợng NNL đƣợc xác định bởi các chỉ tiêu về qui mô và tốc độ tăng
của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực tại một thời điểm thƣờng đƣợc xác định
là bao nhiêu hay chiếm tỷ lệ bao nhiêu phần trăm trong tổng dân số. Các chỉ
số về số lƣợng NNL của một quốc gia là dân số, tốc độ tăng dân số, tuổi thọ
bình quân, cấu trúc dân số: Số dân ở độ tuổi lao động, số ngƣời ăn theo v.v.
Số lƣợng NNL đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển KT- XH. Nếu số
lƣợng NNL không tƣơng xứng với sự phát triển (thiếu,hoặc thừa) thì sẽ ảnh
hƣởng không tốt đến quá trình CNH, HĐH.
Chất lƣợng NNL đƣợc thể hiện bằng các chỉ tiêu về tình trạng sức
khoẻ, trình độ kiến thức, tay nghề, tác phong nghề nghiệp, cơ cấu NNL về
tuổi tác, giới tính, thiên hƣớng ngành nghề, phân bố theo khu vực lãnh thổ,
khu vực thành thị - nông thôn. Trong nguồn nhân lực, chất lƣợng NNL đóng
vai trò quyết định, nhất là giai đoạn hiện nay, khi chúng ta thực hiện quá trình
CNH, HĐH đất nƣớc, KH - CN và kỹ thuật phát triển mạnh mẽ thì NNL chất
lƣợng cao có vai trò quyết định sự thành công của quá trình này.
1.1.1.2 Vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
* Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng 7 (khoá VII) của Đảng chỉ rõ: ““Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng
với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự
phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất
lao động xã hội cao” [14, tr.65].


9

Từ nhận thức nhƣ vậy, chúng ta đã xác định những nội dung cơ bản của
CNH, HĐH là:
+ Thực hiện quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất
cả các ngành kinh tế quốc dân. Nói cách khác là quá trình chuyển nền sản
xuất xã hội từ trình độ công nghệ thấp lên trình độ công nghệ cao cùng với sự
phân bố NNL phù hợp với cơ cấu ngành nghề.
+ Thực hiện quá trình đô thị hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ
cấu lao động theo hƣớng giảm tỷ trọng kinh tế, giảm tỷ trọng lao động trong
ngành nông nghiệp (nông, lâm ngƣ nghiệp) và tăng tỷ trọng kinh tế, tăng tỷ
trọng lao động trong ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ.
+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình bao trùm tất cả các
ngành, các lĩnh vực hoạt động, hƣớng vào thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế
hợp lý, cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực và lợi thế của đất nƣớc.
+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật vừa
là quá trình KT - XH. Do vậy nhìn theo chiều sâu của sự phát triển KT - XH
đó là phát triển con ngƣời và nguồn lực con ngƣời là nội dung cốt lõi.
+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đồng thời là quá trình mở rộng
quan hệ kinh tế quốc dân, bao gồm mở rộng phân công lao động ở địa
phƣơng, vùng, toàn quốc và phân công lao động quốc tế.
+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc phải đƣợc thực hiện hƣớng
vào phát triển các giá trị hiện đại, văn minh chung của nhân loại ngày nay,
đảm bảo các điều kiện phát triển bền vững, hài hoà cả về thiên nhiên và con
ngƣời.
Cho đến nay, cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là phƣơng thức hữu hiệu làm thay đổi căn bản bộ mặt KT -
XH của các nƣớc. Việc thực hiện có kết quả quá trình CNH, HĐH trƣớc hết
sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu về trình độ của lực lƣợng sản xuất, từ công cụ


10

lao động, phƣơng tiện sản xuất đến yếu tố ngƣời lao động, thay vào đó là
những công nghệ, phƣơng tiện và phƣơng pháp tiên tiến, hiện đại; đồng thời
thúc đẩy mạnh mẽ phân công lao động xã hội, hình thành cơ cấu kinh tế hợp
lý, nhờ vậy năng lực sản xuất tăng lên, kinh tế phát triển. Mặt khác, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nâng cao mức sống dân cƣ, tạo điều kiện phát triển
dân trí, đƣa xã hội đến trình độ văn minh công nghiệp. Tuy nhiên CNH, CNH
mang lại hiệu quả phát triển KT - XH đến đâu còn phụ thuộc vào tính ƣu việt
trong mục tiêu CNH, HĐH của mỗi nƣớc. Song dù thế nào cũng phải thừa
nhận rằng: Công nghiệp hoá tạo ra nền kinh tế hiện đại với những ƣu thế nổi
bật là năng suất lao động cao, chất lƣợng sản phẩm tốt, cơ cấu sản xuất đa
dạng, việc làm nhiều và phong phú, thu nhập quốc dân chung và tính theo đầu
ngƣời cao hơn nhiều so với một nền kinh tế chƣa CNH, HĐH.
Đối với nƣớc ta hiện nay, nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất của nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp nhỏ bé. Để ra khỏi tình trạng nƣớc
nghèo chậm phát triển, tránh khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn, không có con
đƣờng nào khác ngoài tiến hành CNH, HĐH đất nƣớc.
Đại hội Đảng lần thứ VIII xác định: “Mục tiêu của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh.
Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp” [16, tr.80].
Mặt khác trong quá trình CNH, HĐH Đảng ta cũng đã khẳng định:
“Kết hợp hài hoà giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội, đặt con người vào
vị trí trung tâm, phát triển nguồn nhân lực, nhằm khơi dậy và khai thác tiềm


11

năng của từng con người, để con người có thể tham gia tốt nhất vào xây dựng
đất nước”. Nhƣ vậy, quá trình CNH, HĐH phụ thuộc chủ yếu vào nguồn lực
con ngƣời, nó đòi hỏi rất cao ở chất lƣợng NNL, cụ thể là trình độ văn hoá,
chuyên môn - kỹ thuật, sức khoẻ và các phẩm chất khác của NNL. Để thực
hiện có kết quả CNH, HĐH với những mục tiêu và nội dung cơ bản nêu trên
cần thiết phải có NNL tƣơng xứng, đáp ứng nhu cầu cấp thiết trƣớc mắt và
đảm bảo cho sự phát triển bền vững, lâu dài. Nguồn nhân lực phải có chất
lƣợng ở mọi trình độ từ công nhân, cán bộ kỹ thuật lành nghề đến kỹ sƣ thiết
kế, chế tạo, các công trình sƣ, kiến trúc sƣ và đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt. Nguồn nhân lực này phải đủ về số lƣợng, cao về chất
lƣợng, đồng bộ trong cơ cấu ngành, nghề và có tỷ lệ phù hợp với quan hệ
cung- cầu của mỗi loại, ở mỗi vùng, miền và cả trên cả nƣớc.
* Vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình tất yếu mà trong sự phát
triển của mình mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều phải trải qua. Trong quá trình
CNH, HĐH vai trò của NNL cùng với KH - CN ngày càng đƣợc đánh giá cao.
Song trong đó NNL là một nhân tố giữ vai trò quyết định. Sự cạnh tranh của
các nƣớc có nền kinh tế phát triển đang diễn ra. ở các nƣớc này, đòi hỏi gay
gắt nhất vẫn là sự phát triển NNL. Sự thắng lợi sẽ thuộc về nƣớc nào đào tạo,
bồi dƣỡng đƣợc NNL có trình độ trí tuệ cao để sáng tạo và chiếm lĩnh đỉnh
cao của KH - CN.
Ở nƣớc ta, sự nghiệp CNH đƣợc tiến hành từ những năm 1960 theo
đƣờng lối Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, công nghiệp hoá lúc đó chỉ
hiểu giản đơn là “quá trình xây dựng nền sản xuất cơ khí trong tất cả các
ngành kinh tế quốc dân”. Quan điểm giản đơn ấy dẫn đến hiệu quả của việc
thực hiện CNH rất thấp trong khi chúng ta đầu tƣ khá lớn. Hạn chế hơn là tính


12

năng động sáng tạo của con ngƣời không đƣợc khơi dậy. Từ Hội nghị lần thứ
7 Ban chấp hành TƢ khoá VII , Đảng ta đã xác định: “Công nghiệp hoá
không chỉ là sự tăng thêm một cách giản đơn tốc độ và tỷ trọng của sản xuất
công nghiệp trong nền kinh tế, mà là cả một quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn
liền với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững
và có hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hoá phải
đi đôi với hiện đại hoá; kết hợp những bước tuần tự về công nghệ phát triển
theo theo chiều rộng, tạo nên công ăn việc làm cho đội ngũ lao động đông
đảo hiện nay với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu phát triển chiều
sâu tạo nên những mũi nhọn theo trình độ tiến triển của khoa học công nghệ
thế giới”.
Công nghiệp hoá ở nƣớc ta hiện nay đƣợc thực hiện trong điều kiện
chúng ta phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trƣờng, có sự quản lý
của nhà nƣớc XHCN. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn
dân, với sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế. Quá trình CNH, HĐH
chỉ có thể thành công khi và chỉ khi dựa trên tổng thể các nguồn lực mà đặc
biệt là nguồn lực con ngƣời hay NNL. Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã
khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của
con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá” [16, tr.21].
Để thấy rõ vai trò quyết định của NNL trong quá trình CNH, HĐH cần
đặt nó trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác qua đó thấy đƣợc sự chi
phối của nó đến sự thành, bại của CNH, HĐH. Đồng thời phải đặt CNH trong
bối cảnh hiện nay, khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển
mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và đã trở thành yêu cầu khách
quan, xu thế phổ biến của nhân loại, khi CNH gắn với HĐH mà cốt lõi là


13
HĐH lực lƣợng sản xuất. Mặt khác, cũng phải đặt CNH, HĐH trong điều kiện

hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Xem xét NNL dƣới góc độ trong quan hệ với các nguồn lực khác, vai
trò quyết định của NNL thể hiện ở chỗ: Các nguồn lực khác nhƣ vốn, tài
nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, tự nó chỉ tồn tại dƣới dạng tiềm năng. Chúng
chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa khi đƣợc kết hợp với nguồn lực con
ngƣời, thông qua hoạt động có ý thức của con ngƣời. Bởi lẽ, con ngƣời là
nguồn lực duy nhất biết tƣ duy, có trí tuệ và ý chí, biết phát huy vai trò và
gắn kết các nguồn lực khác lại với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng
tác động vào quá trình CNH, HĐH. Các nguồn lực khác là khách thể chịu sự
chi phối và đều phục vụ cho nhu cầu lợi ích của con ngƣời. Các nguồn lực
khác là hữu hạn nhƣng nguồn lực con ngƣời - nguồn nhân lực với những tiềm
năng về trí tuệ là vô tận. Tính vô tận của tiềm năng trí tuệ là một trong những
đặc điểm quan trọng của NNL, nhờ đó mà NNL có vai trò to lớn so với các
nguồn lực khác. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật từ giữa thế kỷ XX đến
nay là kết quả của sự phát triển trí tuệ con ngƣời. Những tiến bộ KH - CN do
trí tuệ con ngƣời tạo ra đang làm thay đổi nền sản xuất xã hội. Trí tuệ trở
thành yếu tố khởi động cho guồng máy sản xuất hoạt động theo dạng thức
mới. Đó là nền sản xuất tự động với sự tăng lên nhanh chóng hàm lƣợng lao
động trí tuệ, sử dụng các thiết bị máy móc hiện đại, vận hành đơn giản, nhƣng
hiệu suất lại tăng lên gấp bội, tiết kiệm nguyên vật liệu, giảm hao phí và hạn
chế ô nhiễm môi trƣờng.
Đối với quá trình CNH, HĐH, trong quan hệ so sánh với các nguồn lực
khác, NNL là chủ thể trực tiếp, hiện thực, quyết định toàn bộ quá trình này.
Điều đó đƣợc thể hiện từ khâu xác định mục tiêu, nội dung, cách thức đến
việc tổ chức khai thác các nguồn lực khác để thực hiện CNH, HĐH. Bản thân
các nguồn lực khác không thể tự nó tham gia vào quá trình CNH, HĐH.


14
Chúng chỉ trở thành nguồn lực thực sự của quá trình này khi đƣợc kết hợp với

sức lực và trí tuệ của NNL. Trong thực tế ở nhiều nƣớc và ở nƣớc ta cho thấy,
sự thành công của CNH, HĐH phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đƣờng
lối chính sách cũng nhƣ tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con ngƣời. Quá trình CNH, HĐH sẽ
không thể đạt kết quả tốt, thậm chí thất bại, nếu không lựa chọn đƣợc mô hình
đúng, bƣớc đi thích hợp và các giải pháp hữu hiệu, phù hợp với điều kiện cụ
thể của mỗi nƣớc và bối cảnh quốc tế, dù có đủ các nguồn lực khác.
1.1.2. Chất lượng nguồn nhân lực và các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.1.2.1. Chất lượng nguồn nhân lực và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng
NNL.
Chất lƣợng NNL là khái niệm tổng hợp thể hiện ở các mặt sau: sức
khoẻ; trình độ văn hoá; trình độ chuyên môn- kỹ thuật; tính năng động xã hội;
phẩm chất đạo đức, tác phong, thái độ đối với công việc và môi trƣờng làm
việc, hiệu quả hoạt động lao động của NNL; thu nhập, mức sống và mức độ
thoả mãn nhu cầu cá nhân của ngƣời lao động.
Chất lƣợng NNL là trạng thái nhất định của NNL, là tố chất, bản chất
bên trong của NNL, nó luôn có sự vận động và phản ánh trình độ phát triển
KT- XH cũng nhƣ mức sống, dân trí của dân cƣ. Trong bối cảnh những thành
tựu đạt đƣợc không ngừng của khoa học, công nghệ và toàn cầu hoá diễn ra
mạnh mẽ có tác động thúc đẩy phát triển nhanh quá trình KT- XH thì chất
lƣợng NNL luôn có sự vận động, phát triển đi lên theo hƣớng tích cực và
cũng có nhiều yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển NNL. Sự vận động tích cực
của NNL ở trình độ ngày càng cao hơn mang tính quy luật, là cơ sở để biến xã
hội và không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần và hoàn thiện con
ngƣời lao động.


15
Chất lƣợng NNL đƣợc thể hiện qua một hệ thống các chỉ tiêu:

- Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khỏe của nguồn nhân lực
Sức khỏe của NNL là sự phát triển hài hòa của con ngƣời cả về thể chất
và tinh thần. Sức khỏe thể chất là sự cƣờng tráng, năng lực lao động chân tay.
Sức khỏe tinh thần là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, khả năng vận động
của trí tuệ, khả năng biến tƣ duy thành hành động thực tiễn. Khả năng thích
ứng đối phó với các biến động của môi trƣờng xã hội. Hiến chƣơng của tổ
chức Y tế thế giới đã nêu: " Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về
thể chất, tinh thần chứ không chỉ không có bệnh tật hay thƣơng tật". Tình
trạng sức khỏe của nguồn NNL đƣợc phản ánh bằng một hệ thống các chỉ
tiêu: tuổi thọ bình quân của dân số; chiều cao, cân nặng trung bình của ngƣời
lao động; chỉ tiêu về y tế, bệnh tật.
- Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hóa của người lao động
Trình độ văn hóa của NNL là trạng thái hiểu biết cao hay thấp của
ngƣời lao động đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội.
Trình độ văn hóa là khả năng về học vấn để có thể tiếp thu những kiến thức
cơ bản và tri thức chuyên môn- kỹ thuật. Chỉ tiêu đánh giá trình độ văn hóa
của NNL trong độ tuổi lao động bao gồm: chỉ tiêu học vấn chung ( số năm đi
học bình quân của NNL trong độ tuổi lao động ); tỷ lệ lao động cấp trình độ
văn hóa phổ thông (biết chữ, chƣa tốt nghiệp tiểu học, tốt nghiệp tiểu học, tốt
nghiệp trung học cơ sở, tốt nghiệp trung học phổ thông).
- Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn- kỹ thuật của người lao động
Trình độ chuyên môn - kỹ thuật của NNL là sự hiểu biết, kiến thức và
kỹ năng thực hành về một nghề nghiệp nhất định. Nguồn nhân lực có chuyên
môn - kỹ thuật bao gồm những ngƣời lao động là công nhân kỹ thuật đã có
bằng hoặc chứng chỉ nghề, những ngƣời tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp,
cao đẳng, đại học, trên đại học đƣợc đào tạo ở các trƣờng, lớp với các bậc học


16
và hình thức học khác nhau. Trình độ chuyên môn - kỹ thuật của NNL đƣợc

đánh giá thông qua các chỉ tiêu: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo và chƣa đào
tạo; Cơ cấu lao động đã qua đào tạo theo các cấp trình độ: công nhân kỹ thuật
và sơ cấp, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, trên đại học.
- Chỉ tiêu thể hiện thông qua chỉ số phát triển con người (HDI).
Chỉ số phát triển con ngƣời (HDI): Liên hợp quốc sử dụng chỉ số phát
triển con ngƣời trên phƣơng diện sức khỏe, tri thức và thu nhập làm thƣớc đo
chung để so sánh sự phát triển con ngƣời và nhân lực của các quốc gia. Hiện
nay, nhiều nƣớc trên thế giới cũng thƣờng dùng chỉ số HDI để đánh giá mức
độ nhất định về phát triển nhân lực của quốc gia mình. Chỉ số HDI đƣợc xác
định trên ba tiêu chí: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu ngƣời;
trình độ học vấn; tuổi thọ bình quân.
- Chỉ tiêu thể hiện thông qua trình độ ngoại ngữ và trình độ tin học.
Trong thời đại ngày nay - thời đại của nền văn minh tin học, của nền
kinh tế tri thức ngƣời ta còn xem xét năng lực, phẩm chất của NNL thông qua
trình độ ngoại ngữ và trình độ tin học. Trình độ ngoại ngữ, tin học thể hiện cơ
cấu lao động biết ngoại ngữ, tin học có chứng chỉ trình độ A hoặc không có
chứng chỉ nhƣng trình độ kiến thức và thực hành tƣơng đƣơng chứng chỉ A.
Trong nền kinh tế thị trƣờng mở cửa ra thế giới, với sự phát triển nhanh chóng
của khoa học - kỹ thuật và xu hƣớng chuyển sang nền kinh tế tri thức thì trình
độ tin học, ngoại ngữ là công cụ quan trọng để nâng cao năng suất lao động
của NNL. Khả năng ngoại ngữ và tin học có thể giúp cho ngƣời lao động đáp
ứng đƣợc yêu cầu của quá trình chuyển giao, áp dụng thành tựu khoa học,
công nghệ sản xuất, quản lý mới trong môi trƣờng nền kinh tế toàn cầu hóa,
đặc biệt là đối với các nƣớc đang phát triển.
1.1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực.


17
Chất lƣợng NNL là một chỉ tiêu tổng hợp về con ngƣời, chịu tác động
tổng hòa của nhiều yếu tố. Trong quá trình CNH, HĐH đất nƣớc, NNL chịu

ảnh hƣởng của các yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất: Trình độ phát triển của nền kinh tế tác động đến chất lƣợng
nguồn nhân lực.
Trình độ của nền kinh tế tác động đến chất lƣợng NNL bởi vì đó là cơ
sở để xác định tiền lƣơng, thu nhập, cải thiện mức sống và nâng cao dân trí
của các tầng lớp dân cƣ cũng nhƣ ngƣời lao động. Khi thu nhập đƣợc nâng
cao các hộ gia đình mới cải thiện đƣợc chế độ dinh dƣỡng, mới có điều kiện
tài chính để chi trả cho các dịch vụ giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ. Do
đó mà sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn - kỹ thuật, các mối
quan hệ xã hội của dân cƣ và NNL đƣợc nâng cao. Suy cho đến cùng là NNL
đƣợc cải thiện về mặt chất lƣợng.
Mặt khác, nền kinh tế phát triển ở trình độ cao có một cơ cấu kinh tế
hợp lý và sử dụng phần lớn thiết bị, công nghệ hiện đại trong sản xuất. Chính
vì vậy nó đòi hỏi NNL của nền kinh tế này phải là lao động qua đào tạo
chuyên môn - kỹ thuật. Hệ thống giáo dục - đào tạo luôn phải hƣớng tới
không ngừng nâng cao chất lƣợng NNL để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế.
Thứ hai: Phát triển giáo dục, đào tạo tác động đến chất lƣợng nguồn
nhân lực.
Mức độ phát triển của giáo dục, đào tạo là một trong những yếu tố quan
trọng nhất ảnh hƣởng đến chất lƣợng NNL, vì nó không chỉ quyết định trình
độ văn hoá, chuyên môn - kỹ thuật của NNL mà còn tác động đến sức khoẻ,
tuổi thọ, của ngƣời dân thông qua các yếu tố thu nhập, nhận thức và xử lý
thông tin KT - XH, thông tin khoa học…Nhƣ Các Mác: “…Từ chế độ công
xƣởng đã nảy nở ra cái mầm mống của nền giáo dục tƣơng lai, nó sẽ kết hợp
lao động sản xuất với giáo dục và thể dục đối với tất cả trẻ em trên một lứa


18
tuổi nào đấy, coi đó không phải chỉ là một phƣơng pháp để làm tăng thêm nền
sản xuất xã hội, mà còn là phƣơng pháp duy nhất để sản xuất ra những con

ngƣời phát triển toàn diện”.
Tác động của phát triển giáo dục, đào tạo đối với chất lƣợng NNL thể
hiện:
Mức độ phát triển của giáo dục, đào tạo càng cao thì quy mô NNL
chuyên môn- kỹ thuật càng mở rộng bởi giáo dục, đào tạo là nguồn gốc cơ
bản để nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn- kỹ thuật của nền
kinh tế. Hệ thống giáo dục, đào tạo phát triển ở các địa phƣơng thì việc tiếp
cận các dịch vụ giáo dục của dân cƣ càng thuận tiện, càng mở ra khả năng
nâng cao quy mô NNL qua đào tạo và đó cũng là một trong những giải pháp
để cải thiện chất lƣợng NNL của các địa phƣơng, vùng và quốc gia.
Mức độ phát triển giáo dục, đào tạo càng cao càng có khả năng nâng
cao chất lƣợng NNL theo chiều sâu. Điều này thể hiện ở chỗ, một trong
những tiêu chí phát triển giáo dục, đào tạo là nâng cao chất lƣợng đầu ra. Chất
lƣợng đầu ra của giáo dục, đào tạo phải đáp ứng đƣợc yêu cầu của các ngành
kinh tế và của xã hội. Đây cũng chính là yêu cầu bức xúc đang đặt ra với
NNL ở nƣớc ta hiện nay.
Đầu tƣ cho giáo dục, đào tạo sẽ đem lại những lợi ích to lớn, lâu dài
cho cá nhân và sự phát triển KT - XH.
Đối với cá nhân: Lợi ích mà cá nhân nhận đƣợc sau quá trình đào tạo là
với những kiến thức, kỹ năng, phẩm chất, thái độ lao động đúng đắn…cá
nhân đƣợc tăng, cơ hội có việc làm, thu nhập cao hơn, thích nghi với những
thay đổi nghề nghiệp…
Đối với phát triển KT - XH: Đó chính là toàn bộ những lợi ích KT -
XH thu đƣợc thông qua giáo dục. Cụ thể: Giáo dục có tác động trực tiếp đến
năng suất lao động của NNL. Thông qua giáo dục và đào tạo có thể cung ứng


19
những ngƣời lãnh đạo, quản lý KT - XH tài giỏi, nhà khoa học- kỹ thuật, khoa
học kinh tế… để đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH. Giáo dục, đào tạo cung

cấp trình độ văn hoá cơ bản là tiền đề để tiếp thu tri thức, tăng thêm sức mạnh
cho con ngƣời, để tận dụng các cơ hội trong lao động sáng tạo, tạo ra thu nhập
cao góp phần nâng cao mức sống vật chất và tinh thần, chống suy dinh dƣỡng,
cải thiện sức khoẻ của dân cƣ và NNL.
Giáo dục có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao năng lực
cho NNL trong tiếp thu và vận dụng tri thức. Trong nền kinh tế hiện đại ngày
nay, kinh tế tri thức ngày càng giữ vai trò chủ đạo. Sức cạnh tranh sẽ xoay
quanh tâm điểm là hàm lƣợng KH - CN, chất xám quyết định giá trị sản
phẩm. Trong khi đó, giáo dục là diện mạo của đội ngũ nhân lực trình độ
chuyên môn- kỹ thuật cao, là nền tảng để đảm bảo cho việc thực hiện sản
phẩm có hàm lƣợng KH - CN cao. Báo cáo phát triển NNL của UNDP đã
cảnh báo rằng: “ Không có nƣớc công nghiệp hoá giàu có nào đạt tăng trƣởng
cao trƣớc khi hoàn thành phổ cập giáo dục trung học”.
Phát triển giáo dục, đào tạo sẽ tạo ra “vốn nhân lực” để phát triển kinh
tế. “Vốn nhân lực” là kiến thức tay nghề mà ngƣời lao động tiếp thu đƣợc
thông qua quá trình giáo dục, đào tạo từ nhỏ cho đến khi trƣởng thành cũng
nhƣ trong quá trình lao động. Nó cũng giống nhƣ các loại vốn khác, nếu đƣợc
sử dụng tốt sẽ làm gia tăng năng lực sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng năng
suất và hiệu quả của quá trình lao động. Các thuyết tăng trƣởng về kinh tế đều
khẳng định mối quan hệ tƣơng hỗ giữa nguồn vốn nhân lực và nguồn vốn vật
chất, trữ lƣợng vốn nhân lực lớn sẽ làm gia tăng giá trị lợi tức của máy móc,
thiết bị, nhà xƣởng…(tài sản cố định nói chung) và tài sản lƣu động. Đồng
thời, trữ lƣợng vốn vật chất tăng là cơ sở để tạo nên cơ hội đầu tƣ vào giáo
dục, đào tạo; không có nguồn vốn nhân lực thì vốn vật chất chỉ là vốn chết.
Do đó, phát triển NNL là bộ phận quan trọng nhất của chiến lƣợc cạnh tranh,


20
trong đó đầu tƣ vào giáo dục, đào tạo lại có vai trò quyết định tạo ra NNL
trình độ cao cho xã hội.

Thứ ba: Tốc độ tăng dân số ảnh hƣởng đến chất lƣợng nguồn nhân lực.
Quy mô và tốc độ gia tăng dân số ảnh hƣởng trực tiếp đến việc phát
triển NNL cả về số lƣợng và chất lƣợng.
Quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số nhanh, cao là một trong những
nguyên nhân cản trở tốc độ tăng trƣởng, phát triển kinh tế và phát triển đào
tạo NNL. Dân số tăng nhanh sẽ làm tăng số lƣợng lao động, tạo ra sức ép lớn
về nhu cầu việc làm, thu nhập, làm chậm tốc độ tăng GDP/ngƣời, hạn chế
phát triển giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ và giải quyết các vấn đề xã
hội khác. Theo tính toán của tổ chức Dân số Liên Hợp Quốc thì khi dân số
tăng 1% muốn đảm bảo thu nhập và công ăn việc làm nhƣ trƣớc phải gia tăng
3%GDP.
Đối với nƣớc ta thì những năm gần đây tốc độ tăng trƣởng kinh tế
nhanh hơn tốc độ gia tăng dân số. Bởi vậy nhà nƣớc có điều kiện hơn để cải
thiện chất lƣợng cuộc sống của nhân dân, phát triển giáo dục và đào tạo để
nâng cao chất lƣợng NNL. Để nâng cao chất lƣợng NNL đồng thời giảm bớt
những bất hợp lý trong quan hệ cung - cầu NNL, chính sách dân số là một
trong những chính sách cần đƣợc quan tâm.
Thứ tư: Tình trạng dinh dƣỡng và chăm sóc sức khoẻ tác động đến chất
lƣợng nguồn nhân lực.
Dinh dƣỡng là yếu tố cần thiết cho con ngƣời, gồm rất nhiều yếu tố từ
lƣơng thực, thực phẩm mà cơ thể cần hấp thụ để duy trì sức khoẻ tốt cho
NNL. Các nhà kinh tế nƣớc ngoài đã nêu ra rằng: “Chỉ số nghèo về tài chính
là một thƣớc đo cơ bản về khả năng của hộ gia đình để mua một lƣợng lƣơng
thực, thực phẩm vừa đủ và duy trì một tiêu chuẩn dinh dƣỡng tối thiểu”.
Thiếu dinh dƣỡng dẫn đến thể lực ốm yếu, khả năng miễn dịch kém, dễ mắc


21
các bệnh truyền nhiễm, suy giảm nghiêm trọng khả năng làm việc và tác động
tiêu cực đến chất lƣợng NNL

Đối với các nƣớc nghèo thƣờng lâm vào tình trạng luẩn quẩn: Đói
nghèo -> suy dinh dƣỡng -> ít cơ hội việc làm - năng suất lao động thấp ->
đói nghèo. Nhƣ vậy tình trạng suy dinh dƣỡng thƣờng là vấn đề của ngƣời
nghèo. Ngƣời nghèo tình trạng thiếu dinh dƣỡng và nguy cơ bệnh tật là phổ
biến là phổ biến. Nghèo đói và chất lƣợng NNL thấp luôn có mối quan hệ
cùng chiều và có sự tác động qua lại lẫn nhau, do đó để nâng cao chất lƣợng
NNL phải xoá đói giảm nghèo đồng thời kết hợp với các biện pháp khác.
Ngoài vấn đề dinh dƣỡng, sự phát triển, tính hiệu quả của hệ thống y tế
và khả năng tiếp cận của ngƣời dân với hệ thống này có ảnh hƣởng trực tiếp
đến sức khoẻ của NNL. Chăm sóc y tế tác động đến chất lƣợng NNL thể hiện:
Thông qua chăm sóc sức khoẻ sinh sản, chăm sóc sức khoẻ, tƣ vấn về dinh
dƣỡng, phòng bệnh tật cho các tầng lớp dân cƣ tạo cho NNL có thể lực, tinh
thần khoẻ mạnh. Việc không ngừng nâng cao năng lực của mạng lƣới y tế, áp
dụng kịp thời những tiến bộ khoa học y tế vào dự phòng và chữa bệnh cho
nhân dân sẽ có tác động đến nâng cao tuổi thọ, sức khoẻ dân cƣ và NNL. Có
cơ chế chính sách y tế phù hợp sẽ tạo cơ hội cho các tầng lớp dân cƣ và ngƣời
lao động có khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế, tƣ vấn về dinh dƣỡng và
phòng bệnh. Điều đó sẽ có tác động đến chất lƣợng NNL ở phạm vi rộng lớn.
1.2. Những yêu cầu về chất lƣợng nguồn nhân lực trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Dƣơng.
1.2.1. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Dương trong
những năm qua.
Cùng với các tỉnh thành khác trong cả nƣớc, Hải Dƣơng bƣớc vào thời
kì CNH, HĐH với nhiều thời cơ, thuận lợi đan xen thách thức và khó khăn.
Song quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, thứ IX, Nghị


22
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh những khoá gần đây, nắm bắt thời cơ vƣợt qua
thách thức toàn Đảng, toàn dân đã vƣơn lên thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đề

ra, tạo ra sự đột phá làm chuyển biến toàn diện trên các mặt của đời sống xã
hội, đƣa sự nghiệp CNH, HĐH tiến thêm từng bƣớc mới.
Thực hiện CNH, HĐH Hải Dƣơng đã nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hƣớng tăng phát triển các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch
vụ, giảm các ngành sản xuất nông nghiệp. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp - công
nghiệp, xây dựng - dịch vụ, từ 34,8% - 37,2% - 28% năm 2000 chuyển thành
27,5% - 43% - 29,5% năm 2005. Cơ cấu lao động trong khu vực nông, lâm,
thuỷ sản giảm từ 82,4 % năm 2000 xuống còn 70% năm 2005; công nghiệp -
xây dựng tăng từ 10% lên 17%; các ngành dịch vụ từ 7,6% lên 13%.
Thực hiện CNH, HĐH Hải Dƣơng đã đƣa ra những định hƣớng:
* Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo
hướng sản xuất hàng hoá, đạt chất lượng hiệu quả cao, gắn với xây dựng
nông thôn mới.
Trong xây dựng quy hoạch phát triển nông nghiệp Hải Dƣơng xác định
theo hƣớng tăng tỷ trọng các nông sản thực phẩm có hiệu quả kinh tế cao,
khai thác lợi thế từng vùng và đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tiếp tục
tạo điều kiện, môi trƣờng tốt, thực hiện chính sách hỗ trợ để chuyển dịch
nhanh cơ cấu kinh tế và lao động đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, hình thành một
số mô hình sản xuất công nghệ cao và phát triển mạnh công nghiệp chế biến.
Tăng cƣờng ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào lĩnh vực nông
nghiệp, kinh tế nông thôn.
* Phát triển công nghiệp nhanh và bền vững, nâng cao sức cạnh tranh,
đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Thực hiện vấn đề này, Hải Dƣơng xác định cần duy trì tốc độ phát triển
cao đi đôi với nâng cao chất lƣợng sản phẩm, hiệu quả sản xuất, năng lực


23
cạnh tranh. Phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 17%/ năm
trở lên, trong đó công nghiệp trung ƣơng tăng 12,1%/năm, công nghiệp địa

phƣơng tăng 19%/năm (ngoài quốc doanh tăng 20,7%/năm) và công nghiệp
có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tăng 25,2%/năm trở lên. Mở rộng quy mô, tăng
cƣờng năng lực sản xuất mới, chuyển dịch cơ cấu nhanh kinh tế công nghiệp
theo hƣớng hiện đại. Coi trọng đầu tƣ chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ
từng bƣớc hiện đại hoá các cơ sở sản xuất. Rà soát các sản phẩm, ƣu tiên phát
triển nhanh công nghiệp công nghệ cao, các sản phẩm mũi nhọn, công nghiệp
có lợi thế cạnh tranh và các ngành công nghiệp phụ trợ. Chú trọng phát triển
công nghiệp sử dụng nhiều lao động ở các vùng nông thôn. Phát triển các cơ
sở sản xuất mới trong các lĩnh vực: công nghệ viễn thông, phần mềm, cơ khí,
động cơ, công nghiệp tàu thuỷ, điện tử, điện lạnh, chế biến nông sản, vật liệu
xây dựng, đồ gỗ. Nâng cao chất lƣợng các dự án tiếp nhận mới về may mặc,
da giày để tăng giá trị gia tăng từ nội tỉnh. Tạo điều kiện xây dựng các cơ sở
sản xuất mới của các bộ ngành trung ƣơng trên địa bàn. Phát triển sản xuất
công nghiệp với nhiều quy mô, trình độ khác nhau, phù hợp với định hƣớng
chung và lợi thế từng vùng, từng địa phƣơng. Hình thành các doanh nghiệp vệ
tinh phục vụ sản xuất cho các nhà máy lớn. Khuyến khích phát triển công
nghiệp nông thôn, làng nghề truyền thống. Nâng cao chất lƣợng công tác
thẩm định và triển khai thu hút nhanh các dự án vào các khu, cụm công
nghiệp. Tạo bƣớc chuyển biến mạnh mẽ trong thúc đẩy ca dự án đã cấp phép
triển khai thi công nhanh. Chú trọng phát triển các lĩnh vực có giá trị sản xuất,
tạo nguồn thu và kim ngạch xuất khẩu lớn.
* Khai thác tốt tiềm năng, tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế
dịch vụ để tăng nhanh tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế .
Trong thời gian qua giá trị các ngành dịch vụ tăng, phấn đấu thời gian
tới các ngành dịch vụ tăng 12%/năm trở lên. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu,

×